Tính đến thời điểm hiện tại, bên cạnh sắn, ngô, khoai thì cây lúa nước là một trong những thực phẩm được tiêu thụ nhiều nhất trên đất nước hình chữ S ta, Là một trong những những nguồn thu nhập chính của nhà nông và là giống cây dễ chăm sóc và dễ trồng nhất. Cây lúa, và phổ biến nhất là lúa nước xuất hiện nhiều nhất ở Đông Nam Á khoảng cách đây hơn 10000 năm về trước và được con người nơi đây thuần hóa đem về canh tác và dần lúa nước trở thành nguồn thu nhập chính của họ. Như vâỵ có thể nói, Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước đầu tiên và là trung tâm phát triển ngành nông nghiệp lúa nước lớn trên thế giới. Lúa vốn là một loài cây hoang dã, tổ tiên của nó là một loài cây dại thuộc chi Oryza trên siêu lục địa Gondwana cách đây khoảng 130 triệu năm về trước, sau bởi vì quá trình phân tách lục địa mà loài này bị trôi dạt về các vùng đất khác nhau, quá trình tiến hóa đã cho ra nhiều giống lúa có cấu tạo khác biệt. Và lúa nước của Việt Nam có tên khoa học là Oryza Sativa thuộc họ lúa Poaece vẫn thường được gợi với cái tên quen thuộc là lúa hoặc lúa nước, được trồng chủ yếu ở hai đồng bằng lớn sông Hồng và sông Cửu Long, ngoài ra còn được canh tác ở nhiều đồng bằng nhỏ vùng duyên hải miền Trung nước ta, hoặc trên các vùng núi Tây Bắc, hình ảnh những ruộng bậc thang đầy sức sáng tạo của người dân trên những ngọn đồi, ngọn núi cao sừng sững đã trở thành một trong những hình ảnh, kỉ niệm đáng nhớ cho những vị khách du lịch đến đây chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của thiên nhiên và con người. Lúa nước được chia ra làm hai loại dựa vào hàm tính amilopectic (hàm lượng quyết định tính dẻo) trong hạt gạo. Gạo tẻ có hàm lượng amilopectic chiếm khoảng 80% còn của gạo nếp thì cao hơn khoảng 90% vì vậy gạo nếp ăn dẻo và dín hơn. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu và lai tạo giống, người ta còn dựa và hình dáng, đặc điểm mà chia ra làm nhiều giống lúa khá nhau. Còn về ý nghĩa, trong những năm khoảng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hình ảnh cây lúa được gắn với hình ảnh hậu phương vững chắc à hình ảnh của công cuộc xây dựng nước nhà, lấy gốc là nông nghiệp, của Đảng và nhà nước. Ngoài ra, khi nhắc đến cây lúa nhiều người sẽ nghĩ đến hình ảnh người nông dân cần cù, siêng năng, một nắng hai sương trên cánh đồng lúa xanh bát ngát thẳng cánh cò bay là đại diện cho sự ấm no, đủ đầy cho mọi nhà. Hay trong những ngày lễ lớn, xôi – một món ăn truyền thống không thể thiếu trong mâm cỗ của người Việt ta từ xưa đến nay. Hoặc trong những ngày tết cổ truyền hình ảnh cả gia đình ngồi luộc bánh trưng, bánh giày cũng là một kỉ niệm khó quên của những người con xa quê hương. Hay ngược về thời xa xưa, hình ảnh chàng hoàng tử lang luu sử dụng gạo để làm bánh trưng, bành giày cúng bái trời đất, dâng lên vua Hùng, qua đó ta có thể thấy được sự quan trọng của hoa gạo, cây lúa trong đời sống thường ngày xung quanh ta. Bình dị, giản dị cả trong đời sống vật chất và tinh thần, cây lúa là người bạn của nông dân là nguồn thu nhập nông nghiệp chính của nước tavaf là hậu phương vững chắc của ta trong những năm kháng chiến đầy khó khăn.
PHẦN I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tác giả Tác giả Xéc-van-tét (1547-1616) là nhà văn người Tây Ban Nha. Ông vốn là binh sĩ bị thương năm 1571 trong một cuộc huỷ chiến và bị bắt giam ở An- giê từ năm 1575 đến năm 1580. Trở về Tây Ban Nha, ông sống một cuộc đời cực nhọc, âm thầm mãi cho đến lúc công bố tiểu thuyết Đôn- ki-hô-tê. 2. Tóm tắt nhân vật Văn bản đánh nhau với cối xay gió trích trong tiểu thuyết ấy. Tác phẩm Đôn-ki-hô-tê, một lão quí tộc nghèo sống với cháu gái và bà quản gia vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ. Lão lục tìm những đồ han gỉ của tổ tiên để trang bị cho mình, phong cho con ngựa còm của lão là chiến mã Rô-xi-nan- te còn bản thân lão lão là Đôn-ki-hô- tê xứ Man- cha. Còn người phụ nữ lão thầm yêu thì được lao ban cho cái tên công nương Duyn-xi-nê-a.Cuối lần ra đi thứ nhất Đôn-ki-hô-tê vốn đã nhắm bác nông dân ở cạnh nhà, nghèo và đông con, lương thiện, "nhưng phải mỗi tội là kém thông minh". Đôn-ki-hô-tê bảo bác hãy đi theo chàng vì có thể trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào đó, chàng sẽ chiếm được một hòn đảo và sẽ trao cho bác cai trị. Bị những lời hứa hẹn tốt đẹp cám dỗ, Sancho Panza (tên bác thợ cày) bỏ cả vợ con, nhà cửa, đi làm giám mã cho ông láng giềng Cuộc hành trình trừ lũ gian tà, cứu người lương thiện đã diễn ra và sau nhiều phen thất bại ê chề, cuối cùng ốm nặng. Dôn-ki-hô- tê mới nhận ra tác hại của truyện hiệp sĩ. Lão viết di chúc và qua đời. PHẦN II.PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VÀ CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HAI NHÂN VẬT 1. Phân tích và so sanh hai nhật vật Ở đoạn trích Đôn-ki- hô- tê đánh nhau với cối xay gió có rất nhiều chi tiết hay và ý nghĩa đặc biệt là cuộc đối thoại và sự tương phản giữa hai nhật vât Đôn-ki-hô-tê và San-cho Pan xa, vậy nét đặc sắc mà tác giả đã xây dựng qua đoạn trích này là gì? Chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu. Ngay trong đoạn trích, ta thấy hai nhân vật Đôn-ki-hô-tê và San-cha Pan- xa đã có nhiều nét khác nhau về tất cả mọi mặt, từ ngoại hình cho đến tính cách. Đối với nhân vật Đôn-ki-hô-tê được xuất thân trong gia đình quý tộc nghèo, cái tên của ông là do chính ông đặt ra thể hiện vị thế của mình trong xã hội. Còn với San- cha Pan xa ông là người nông dân hiền lành, chất phác. Về hình dáng San cha Pan- xa vừa béo, vừa thấp cưỡi trên lưng con lừa, với bầu rượu và cái túi hai ngăn đựng thức ăn, thuốc cao và những vật dụng thiết thực khác, ngược lại Đôn-ki-hô-tê thì cao lênh khênh, ngồi trên lưng con ngựa. Con ngựa hiện thân của năng lực, may mắn, hạnh phúc và quyền thếđồng thời con ngựa cũng thể hiện nghị lực, sáng tạo và sức sống mãnh liệt. Còn con lừa thì biểu tượng cho sự khiêm nhường, hiền lành, hòa bình. Hay nói cách khác, con lừa chỉ biết làm việc nặng nhọc dưới sự chỉ bảo của ông chủ mà không cần suy nghĩ hay trí thông minh. Tác giả xây dựng mặt đối lập này nhằm cho người đọc nhận thức điểm mạnh và điểm yếu của nhân vật trong câu chuyện. Sự đối lập ấy hết sức khéo léo và tài tình. Về tính cách của hai nhân vật cũng khác nhau hoàn toàn, Đôn-ki-hô-tê hì dũng mãnh, trọng danh dự và luôn nghĩ đến việ chung còn San- cha Pan xa thật thà, nghĩ đến cuộc sống của riêng mình. Trong suy nghĩ của Đô-ki-hô- tê thì có nhiều ảo tưởng, hão huyền và thiếu thực tế, ngược lại giám mã thì lại hết sức tỉnh táo và thực tế dẫn đến thực dụng. Tất cả những sự khác biệt đó cũng dẫn đến mục đích của hai nhân vật khác nhau, đối với Đôn-ki-hô-tê thì muốn trở thành hiệp sĩ lang thang trừ gian trừ tà và giúp người lương thiện, đó là mục đích cao cả mà lão mong muốn thực hiện được. Còn giám mã chỉ mong hưởng chiến lợi phẩm những thứ tầm thường trong cuộc sống Qua cách xây dựng nhân vật ở hai mặt đối lập, ta thấy tác giả đang muốn khắc họa sâu hơn về thực tế đời sống lúc bấy giờ, nhằm cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về cái tầm thường và cái cao cả trong thời kỳ Phục Hưng. Vậy cái cao cả và tầm thường đó là gì? Chúng ta hãy tìm hiểu đoạn đối thoại của hai nhân vật và những tình tiết bất ngờ. 2. Trận chiến và kết thúc Khi đến cánh đồng, Đôn-ki-hô- tê “chợt” thấy những chiếc cối xay gió, đây là yếu tố bất ngờ cộng thêm số lượng những chiếc cối xay gió “ba bốn chục chiếc” phần nào giải thích hoang tưởng chợt xuất hiện trong đầu Đôn- ki-hô- tê bởi trong các tiểu thuyết lão đọc thì những trận chiến thường xảy ra bất ngờ với số lượng lớn của kẻ địch. Chàng muốn chia sẻ hoang tưởng của mình cho giám mã và muốn nhấn mạnh những điều mà giám mã quan tâm nhất đó là “chiến lợi phẩm, giàu sang phú quí, chính đáng, phụng sự Chúa” Lúc này, San cho Pan xa hỏi lại, những tên khổng lồ nào cơ Đôn- ki-hô- tê trả lời: Những tên mà anh nhìn thấy ở trước mặt kia kìa. Cánh tay chúng rất dài, có cái tới gần hai dặm Nhưng giám mã lại rất tỉnh táo trả lời và cảnh báo ông chủ: Xin ngài coi chừng, đó chỉ là những cối xay gió, cái vật trông giống cánh tay là những cánh quạt… Vì mục đích cao cả và sự quyết tâm, chàng hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê quyết tâm kết liễu “những tên khổng lồ, hung tợn” “quét sạch cái giống xấu xa này khỏi Trái Đất” mặc cho giám mã có lời khuyên. Hơn nữa, lão cùng trách giám mã “chẳng hiểu gì” Hắn xông lên và trong đầu đinh ninh phía trước có những tên khổng lồ. Như vậy trong đầu hắn luôn nghĩ đến kẻ xấu xa và những thứ tầm thường cần phải xóa khỏi Trái Đất, hắn không hề nghĩ đến sự tồn tại hữu hình của nó trong hiện tại. Đôn- ki- hô- tê hiện thân của một chàng hiệp sĩ thực hiện cái cao cả, ở chi tiết : “Lũ….kia, không được chạy trốn! Có ta là hiệp sĩ, một thương một mã đến đọ sức với bọn ngươi đây” Ở câu này đã thấy rõ sự quân tử từ Đôn-ki-hô-tê, chàng hiệp sĩ vì lý tưởng tốt đẹp, “một thương một mã” là đấu tay bo, đấu không cần nhiều bọn mà chiến đấu đúng nghĩa quân tử như các hiệp sĩ mà lão đã đọc trong tiểu thuyết. Chàng thể hiện lòng dũng cảm và niềm tin chiến thắng của mình, chàng thúc ngựa lên với với lòng quyết tâm, dũng cảm, chống kẻ thù quyết liệt. Nhưng kết cục trận chiến trong chóng vánh chỉ để lại thương tích cho hiệp sĩ. ‘ngọn giáo gãy tan tành, cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh ra đất” “Đôn-ki-hô- tê nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng” Mặc dù thấy trận đấu gây ra tiếng cười bởi lý tưởng cao cả nhưng không thực tế của chàng nhưng chúng ta vẫn khâm phục tinh thần sự hào hùng đó. Lúc này, giám mã thúc lừa tới và buông lời trách móc nhưng chàng hiệp sĩ vẫn kiên quyết không tin vào những cái “ai cũng biết” . Và chàng đã thuyết phục được giám mã qua tình tiết đầy lạc quan về ông pháp sư, như vậy ta thấy ngoài đấu tranh với thực tại thì chàng còn đấu tranh với cả thế giới siêu nhiên đầy pháp thuật đó là tên pháp sư. Và rồi hai thầy trò tiếp tục cuộc hành trình về nơi đông người, ở chi tiết này cho ta thấy rõ hơn mục đích cuối cùng của chàng hiệp sĩ là “bênh vực kẻ yếu” .Điều đáng chú ý, cho dù đau đớn về thể xác nhưng chàng vẫn không kêu lên và vẫn phản đối giám mã San- cho Pan- xa. Vết thương không đáng lo ngại, điều mà chàng lo lắng đó là vũ khí, chàng liền nghĩ đến trong tiểu thuyết có hình ảnh “ nhổ cây” làm vũ khí một lần nữa đã được sự đồng tình từ giám mã 3. Bức tranh sinh hoạt tinh thần và vật chất Chàng Đôn-ki-hô-tê chằng buồn ăn, hắn chỉ nghĩ đế tinh thần là chủ yếu còn tên giám mã thì “ngồi một cách rất thoải mái trên lưng lừa, lấy cái ăn ở trong cái túi hai ngăn” ở chi tiết này cho thấy bác giám mã hết sức bình tĩnh và nghĩ về vật chất còn tinh thần bác giám mã không hề nghĩ đến. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn ở đoạn sau: Sancho Panza “vừa đi theo chủ vừa ăn một cách khoái trá, thỉnh thoảng nghiêng bầu rượu tu một hơi ngon lành khiến tay chủ quán rượu sành sỏi nhất ở Malaga cũng phải phát ghen”. Sancho Panza hết sức thoải mái trong thế giới vật chất. Chính đây là lúc bác có thể suy nghĩ, hay đúng hơn là “cảm nhận” cuộc sống: “Vừa đi vừa nhắm rượu, Sancho quên cả những lời hứa hẹn của chủ; bác cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu này tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Sancho Panza vốn ra đi vì “hòn đảo” giàu sang phú quí mà chủ bác hứa cho khi lập được chiến công, vậy mà giờ đây “quên cả lời hứa hẹn của chủ”. Lời hứa hẹn ấy quá xa vời, nhất là trong khi vừa trải qua một thất bại! Đối với Sancho Panza, cả “nguy hiểm” đã qua và sẽ đến cũng không thật quan trọng. Trong khi ăn uống, Sancho Panza chỉ nhìn thấy cái trước mắt, trước mắt là có cái mà ăn uống và “không đến nỗi vất vả”. Như vậy là bác giám mã hài lòng. Còn đối với Đôn-ki-hô-tê lúc ngủ chàng cũng nghĩ đến vũ khí của mình “bẻ một cành khô” cho dù không có cây sồi và cũng không đủ khả năng để nhổ cây, một cành khô là đủ, cái gì thiếu đã có trí tưởng tượng của chàng hiệp sĩ. Quan trọng là tinh sẵn sàng chiến đấu và khát vọng lập chiến công. Tinh thần ấy của Đôn-ki-hô-tê được cũng cố thêm rất nhiều nhờ hướng tới người tình nương lý tưởng, chàng không ngủ cả ở thế giới thực tế. Còn giám mã thì ngược lại “Sau khi đánh chén no say, bác làm một giấc đến sáng, và nếu như chủ không gọi, chắc bác cũng chưa buồn dậy, mặc cho ánh nắng chiếu thẳng vào mặt, mặc những tiếng chim hót líu lo đến mừng một ngày mới” Tuy nhiên, thức dậy khỏi giấc ngủ chưa phải là đã tỉnh ngay: “Vừa mở mắt, Sancho Panza đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì thấy nó nhẹ hơn hôm trước mà xem chừng trên quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy”. Vẫn những toan tính vật chất tầm thường ấy! Còn chàng hiệp sĩ thì cũng đâu đã tỉnh khi “không ăn sáng vì, như ta thường nói, nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi”. Vẫn cái tinh thần phi vật chất ấy! Qua đoạn trích này tác giả dã cho chúng ta thấy hai nhân vật là hai tư tưởng đối lập nhau nhưng bổ sung cho nhau. Một người thì hướng đến tinh thần, nghĩ đến cái cao cả tốt đẹp. Còn một người thì nghĩ đến cái giản dị, tầm thường trong cuộc sống đó là vật chất. Nếu tổ hợp hai yếu tố này trong cùng một người thì sẽ trở thành một người hoàn mĩ nhưng ở mỗi cá nhân, có điểm này lại mất điểm kia. Chính vì vậy tác giả muốn cho người đọc thấy được sự biện chứng giữa vật chất với tinh thần, tất cả phải hài hòa thì mới tạo nên môt cá nhân hoàn chỉnh. Nếu thiên về tinh thần nhiều quá thì sẽ trở thành nhân vật Đôn-ki-hô-tê ảo tưởng quá sức, một gã gầy còm cao lênh khênh. Còn thiên về vật chất lại trở thành kẻ tầm thường như Sancho Panza, mập mạp và không có trí tưởng tượng. 4. Tư tưởng chủ đạo mà tác giả muốn gửi gắm Ở phân đoạn này ta thấy sự tưởng tượng của Đô-ki-hô-tê đã lên cao cho dù những chiếc cối xay gió đó không có gì lạ lẫm với người dân Tây Ban Nha đặc biệt với một quí tộc nghèo như chàng. Vậy tại sao chàng lại có hành động như vậy? Câu trả lời đơn giản là vì Đôn-ki-hô-tê bị ảo tưởng quá sức, trong tâm trí chỉ mong thực hiện những nhiệm vụ cao cả, và lấy sức mình để bảo vệ kẻ yếu. Nhưng sự ảo tưởng đó đã gây nên tiếng cười cho bạn đọc, chàng đã trở thành kẻ điên rồ. Nhưng may mắn thay, mặc dù hoang tưởng, nhưng Đôn Ki-hô-tê lại là người có lối suy nghĩ nhân văn, tích cực. Những chiếc cối xay gió chính là những thứ tầm thường trong cuộc sống nên chàng muốn tiêu diệt chúngTrong đầu óc nhà quý tộc, hễ cứ gặp ai, cũng hình dung họ như là những nhân vật trong sách kiếm hiệp. Đến nỗi, một cô gái mà ai cũng biết xấu xí, nhưng Đôn Ki-hô-tê lại cho rằng rất đẹp, là tình nương. Ai bị đánh thua trận, bắt buộc phải về gặp tình nương kể lể. Nhưng cũng thông qua nhân vật , tác giả đã lên án bất công, cần sự công bằng, tự do cho con người. Đồng thời chế giễu thói hư danh, sống theo trào lưu tầm thường, mà đánh mất đi chính mình. Trong tác phẩm này kẻ thù tầm thường về tư tưởng chính là cha sứ, kẻ luôn ngăn cản cái cao đẹp, nhân văn. Cũng chính nhân vật Đôn-ki-hô-tê đã cho ta thấy chế độ nhân quyền được đề cao , con người được xem là chúa tể của vu trụ chứ không như xã hội trước đó chủ yếu coi trọng thần quyền. Tác giả muốn gửi gắm sự nhân văn, con người được coi trọng, bình đẳng, nhân ái giữa con người với con người. Chủ nghĩa nhân văn khẳng định đời sống thực tế, ca ngợi niềm vui và hạnh phúc trần thế, khẳng định tình yêu là cao đẹp, con người có quyền theo đuổi danh vọng và của cải, khẳng định địa vị, phẩm giá con người qua nhân cách, bất cứ xuất thân như thế nào. Nhân vậy Đôn-ki-hô- tê đại diện cho con người mang lý tưởng nhân văn cao đẹp đầy tài năng và trí tuệ như những kì quan của thiên nhiên. Cho dù thất bại trong đau đớn nhưng vẫn không bỏ cuộc. Một lần nữa ta khẳng định đây chính là chủ đề xuyên suốt nhân văn thời lỳ Phục Hưng mà con người hướng đế. Đôn-ki-hô-tê thực hiện lý tưởng phi thực tế, còn Sancho Pan xa thực hiện thực tế phi lý tưởng.
Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Những câu thơ quen thuộc ấy chắc hẳn đã khắc sâu trong tâm trí của chúng ta. Bạn biết về cây lúa này nhưng đã bao giờ tìm hiểu kĩ về nó chưa? Nếu chưa chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu nhé. Lúa là một loại cây trồng có vai trò quan trọng trong đời sống và lịch sử phát triển của hàng triệu người trên Trái Đất từ xa xưa đến nay. Và Lúa là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và Châu Á nói riêng. Lúa là cây có một lá mầm, dễ chùm. Có hai vụ lúa: chiêm, mùa. Như chúng ta đã biết cách trồng lúa phải trải qua rất nhiều giai đoạn nhưng đã bao giờ thử hỏi nó như nào hay chưa? Bắt đầu từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ, rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng, ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân, ruộng phải sâm sấp nước, khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm cỏ, bón phân diệt sâu bọ.(…) Cuối cùng là người nông dân về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành gạo. Ngày nay, nước ta đã tạo được hơn 30 giống lúa được công nhân là giống lúa quốc gia. Cũng chính vì gạo, lúa đã đưa Việt Nam ta từ một nước đói nghèo trở thành một nước đứng thứ hai sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. Qủa thật là rất tuyệt vời, giá trị sử dụng lúa là lương thực, thực phẩm thiết yếu hàng ngày của người dân, nó là thành phần của nhiều thực phẩm món ăn hàng ngày: phở bột mì,... Lúa còn là nguồn lợi nhuận của người trồng thương mại hóa. Về giá trị tinh thần Lúa đã gắn bó hơn vạn năm với người dân Việt Nam ta. Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt. Như vậy, ta thấy rằng cây lúa chiếm giữ một phần lớn quan trọng trong đời sống của người dân chúng ta. Dù đã qua nhiều năm nhưng lúa vẫn không hề thay đổi. Cây lúa không chỉ đáp ứng nhu cầu sống của chúng ta mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thân của người Việt.
Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945 đến 1975 1.Bối cảnh Khai sinh nước VN Dân chủ Cộng hòa 1945; toàn quốc kháng chiến chống Pháp 9 năm (1946-1954); chia cắt hai miền Nam – Bắc (1954-1975),kháng chiến chống Mỹ, tiến tới thống nhất đất nước (1964 - 1975) 2. Lực lượng sáng tác Bao gồm: văn nghệ sĩ,trí thức: gia nhập Đảng, tham gia kháng chiến; nhà văn hóa,giáo dục 3. Khuynh hướng cảm hứng - Miền Bắc: cảm hứng lãng mạn công dân, tuyên truyền kháng chiến cứu nước 1945-1954; cuộc đấu tranh tư tưởng giữa khuynh hướng “tự do hóa văn nghệ” và “đảng cộng sản lãnh đạo, vào quỹ đạo VH XHCN” 1956-1964; khuynh hướng sử thi và lãng mạn 1965-1975 - Miền Nam: 1955-1975: đề cao chủ nghĩa quốc gia; thể hiện tinh thần phản kháng; tôn vinh truyền thống văn hóa dân tộc; tái hiện thân phận con người; văn học đại chúng; Đây là thành tựu của hiện đại hóa 4. Thể loại, ngôn ngữ Ở gia đoạn này thể loại chủ yếu là thơ, trường ca, ký, tùy bút, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu thuyết. Một số tác phẩn tiêu biểu như: Vợ chồng A Phủ, Đòng Chí, Lặng lẽ Sa Pa, Đất nước… 5. Tác giả tiêu biểu - Văn học kháng chiến chống Pháp: Quang Dũng 1921-1988, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Tố Hữu, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Trần Đăng; Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Nguyễn Thành Long - Văn học chống Mỹ: Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Thị Xuân Quý; Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ, Việt Phương; Dương Hương Ly, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Anh Đức, Chu Văn, Nguyễn Tuân
Giai đoạn hình thành văn học hiện đại 1. Bối cảnh lịch sử Nước ta phải chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai cuộc khai thác thuộc địa; tiếp xúc kéo dài với văn hóa phương Tây, nền giáo dục quốc ngữ có bước phát triển → hình thành “văn đoàn” lớn, xung đột: dân tộc, giai cấp, văn hóa 2. Lực lượng sáng tác Bao gồm: Trí thức Tây học, công-nông-binh, một bộ phận tác giả tham gia cách mạng/bí mật, một bộ phận tác giả hợp pháp/công khai 3. Khuynh hướng cảm hứng - Khuynh hướng lãng mạn: văn xuôi lãng mạn, Thơ mới - Khuynh hướng hiện thực: phóng sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết (trào phúng) - Khuynh hướng yêu nước, cách mạng: thơ ca, hò, vè, phóng sự… 4. Thể loại, ngôn ngữ - Thơ: ba dòng: (ảnh hưởng) thơ Pháp, Đường thi, thuần Việt; đa “xóm thơ”: sông Thương, Tự lực, Phương Đông, Huế, Bình Định, Hà Tiên… - Văn xuôi: phóng sự, truyện ngắn (trào phúng), tiểu thuyết (trào phúng), - Kịch thơ - Khảo cứu, dịch thuật - Phê bình văn học 5. Tác giả tiêu biểu -Thơ mới: 1932-35: Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên; 1936-39: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên - Kịch thơ: Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Yến Lan, Vũ Trọng Can, Vũ Hoàng Chương, Phan Khắc Khoan… - Tự lực văn đoàn: Nhất Linh 1906-1963, Khái Hưng 1896-1947, Thạch Lam 1910-1942, Tú Mỡ 1900-1976… Xem thêm: Tiến trình văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII- XIX
Tiến trình văn học Việt Nam Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII- giữa thế kỉ XIX 1. Bối cảnh lịch sử “Khởi nghĩa nhân dân” bùng nổ ,triều đại Tây Sơn thống nhất đất nước (ngắn ngủi), kết liễu Lê – Trịnh và Nguyễn chúa; đánh tan ngoại xâm phương Nam, phương Bắc, nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh, nhà Nguyễn trị vì, thống nhất một dải giang sơn rộng lớn từ Bắc tới Nam 2. Lực lượng sáng tác Nhà nho (đa dạng: tài tử, bình dân…),vua, chúa, quan, Thiền sư,…Dòng văn, thi xã phát triển mạnh, thời kì này văn học Đàng Trong nở rộ 3. Quan niệm văn học Thiên về đề cao chức năng thẩm mỹ (“văn học chủ Tình”, “quý Chân” ), VHNT ở trung tâm 4.Khuynh hướng cảm hứng Xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa - quan tâm đến con người bình thường, đánh dấu đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi. Đó là tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà các tác giả hướng đến, điều này được thể hiện qua nhiều khía cạnh: tinh thần yêu nước, tinh thần tôn giáo, tình yêu thiên nhiên, những quan niệm về đời sống hiện thực...Bên cạnh đó là các Khảo cứu (Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Phạm Đình Hổ…) 5.Thể loại ngôn ngữ Văn học chữ Hán: +Văn học chức năng: hịch, chiếu, văn tế, kệ/thi kệ… +Văn học nghệ thuật: Thơ: đa dạng thể- thất ngôn, ngũ ngôn, trường thiên, cổ phong…; Truyện truyền kì, Kí, Tự/Bạt, Tiểu thuyết chương hồi… - Văn học chữ Nôm: thơ Đường luật Nôm, văn tế Nôm, Phú Nôm, Truyện (thơ) Nôm; Ngâm khúc, Hát nói, … Đỉnh cao là văn học chữ Nôm và những thể loại văn học dân tộc 6.Tác giả tiêu biểu Đặng Trần Côn (1710-1745): Chinh phụ ngâm Đoàn Thị Điểm (1705-1748): Chinh phụ ngâm ( bản dịch ) Nguyễn Gia Thiều (1741-1798): Cung oán ngâm khúc Ngô gia văn phái: Ngô Thì Sĩ 1726-1780, Ngô Thì Nhậm 1746-1803, Ngô Thì Chí 1753-1788, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương, Ngô Giáp Đậu 1853-?; Ngô Thì Đạo 1732-1802, Ngô Thì Du 1772-1840… (tiêu biểu là tác phẩm Hoàng Lê nhất thống trí) Dòng văn Phan Huy: Phan Huy Ích 1750-1822, Phan Huy Thực 1778-1846, Phan Huy Chú 1782-1840, Phan Huy Vịnh 1800-1870 Dòng văn Nguyễn Huy: Nguyễn Huy Oánh 1713-1789, - Nguyễn Du (1765-1820): Đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du - Phạm Thái (1777-1813): Chiến tụng Tây hồ phú - Bà Huyện Thanh Quan (đầu XIX): Qua Đèo Ngang - Hồ Xuân Hương: Bánh trôi nước, Tự tình (I,II,III) - Vũ Trinh 1759-1828: Cung oán thi tập - Phạm Đình Hổ 1768 - 1839: Vũ Trung tùy bút - Nguyễn Công Trứ 1778-1858: nổi bật là ca trù ( Bỡn nhân tình) Tham khảo thêm: Tiến trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ X- thế kỉ XVIi
Giai đoạn 1: Từ thế kỷ X- XIV 1.Bối cảnh lịch sử Kết thúc thời Bắc thuộc, kiến tạo và bảo vệ thành công các triều đại quân chủ độc lập (Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần): chiến thắng ngoại xâm phương Bắc; mở đầu công cuộc “Nam tiến” Giai đoạn này đặt nền văn hóa đa tôn giáo hòa đồng 2. Lực lượng sáng tác - Thiền sư, vua, quan/tướng, tôn thất, nhà nho (hành đạo, ẩn dật)… thi xã Bích Động. Ở giai đoạn này lực lượng sáng tác không có nhân dân bởi lực lực nông dân không được đi học chỉ có thiền sư, vưa, nhà nho mới được học chữ. 3. Quan nhiệm văn học Thiên về đề cao chức năng giáo huấn; văn học chức năng (VHCN) ở trung tâm 4. Khuynh hướng cảm hứng: Chủ dề xuyên suốt là yêu nước, tôn giáo,thiên nhiên, thế sự (manh nha), nhân đạo 5. Thể loại: - Văn học chữ Hán: +Văn học chức năng: chiếu, hịch, văn khắc/văn bia, văn chép sử - sử kí, thần phả/thần tích, truyện tôn giáo, kệ/thi kệ, Tự/Bạt … +Văn học nghệ thuật: manh nha Truyện truyền kì LNCQL; thơ lục ngôn (Trần Ngạc); thơ thất ngôn, ngũ ngôn, cổ phong; Phú… - Văn học chữ Nôm: thơ thất ngôn tứ tuyệt (Hà Ô Lôi, Điểm Bích); Phú Nôm Giai đoạn này đặt nền móng cho văn học nước nhà 6. Tác giả tiêu biểu - Trần Nhân Tông: Trần Nhân Tông thi tập, Thạch Thất mỵ ngữ... - Tác giả Thiền sư: Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Huyền Quang/Lý Đạo Tái… - Tôn thất: Trần Quốc Tuấn, Trần Tung, Trần Quang Khải, Trần Quang Triều, Trần Nguyên Đán… - Tg quan/tướng: Lí Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An, Đặng Dung Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV- XVII 1. Bối cảnh lịch sử Kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi, mở ra triều đại Lê sơ (Hậu Lê),100 năm thịnh trị của quốc gia quân chủ (độc tôn) Nho giáo (1428-1527),gần 200 năm cát cứ phân tranh: Nam Bắc triều, Trịnh – Nguyễn (Lê trung hưng, Đàng Ngoài – Đàng Trong) 2. Lực lượng sáng tác Lực lượng sáng tác văn học ở thời kì này khá đông đảo, bao gồm: Nhà nho ( hành đạo, ẩn dật),vua,chúa,quan, Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn. Đặc biệt vào khoảng thế kỉ thứ XVII, nền văn học có thêm sự xuất hiện của văn học Đàng Trong (Đào Duy Từ, Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Hữu Hào...). Quan niệm văn học Chức năng thẩm mỹ dần được coi trọng; VHNT đi dần vào trung tâm 4. Khuynh hướng cảm hứng Hầu hết các tác phẩm văn học trong thời kì này là sự kết tinh của tinh thần yêu nước, tình yêu thiên nhiên, những suy nghĩ về đạo lí, thế sự của các tác giả. Ẩn sâu trong các tác phẩm đó là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà các tác giả muốn gửi vào sự đời. 5. Thể loại ngôn ngữ Văn học chữ Hán: +Văn học chức năng: cáo, chiếu, biểu, tấu, văn bia, thư, văn chép sử, … +Văn học nghệ thuật: Thơ các thể thất ngôn, ngũ ngôn, trường thiên; Truyện truyền kì; Tự/Bạt; manh nha Kí, … - Văn học chữ Nôm: Thơ Đường luật Nôm, diễn ca lịch sử với thơ STLB và LB; Phú Nôm; Truyện thơ Nôm (Đường luật), Khúc vịnh, Hát nói, … Ở giại đoạn này được phát triển mạnh mẽ 6. Tác giả tiêu biểu - Nguyễn Trãi và “văn học Lam Sơn”: Quốc âm thi tập, Ức trai thi tập, Bình Ngô Đại Cáo,... - Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn: Hồng Đức quốc âm thi tập - Nguyễn Bỉnh Khiêm: Dại Khôn, Cảnh Nhàn,... - Nguyễn Dữ: Truyền kì mạn lục - Nguyễn Húc: Phong vũ thán, Hàn dạ độc lập,... - Thái Thuận: Lữ đường thi - Nguyễn Bảo: Châu Khê thi tập - Đặng Minh Khiêm:Giang Tây khúc thuyền thi tập - Trịnh Căn, [Trịnh Cương, Trịnh Doanh] …:Khâm Định Thăng Bình Bách Vịnh Tập Xem thêm: Tiến trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIIi- XIX
Đã có người từng nói: “Kiến trúc là vũ khúc của đá, vũ đạo là âm nhạc cơ thể, âm nhạc là kiến trúc của âm thanh, hội họa là khúc biến tấu của màu sắc. Một tác phẩm văn học được coi là bàn yến tiệc của ngôn từ và cảm xúc. Để có một bàn yến tiệc thịnh soạn đầy đủ dư vị của cảm xúc của tác giả Nguyễn Minh Châu đã bày sẵn chờ người đọc thưởng thức với tất cả say mê đó là tác phảm Chiếc thuyền ngoài xa. Nổi bật trong đó là hình ảnh của người đàn bà làng chài và thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm tới bạn đọc. Nguyễn Minh Châu là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Năm hai mươi tuổi nhà văn gia nhập quân đội cho đến năm 1962 thì chuyển sang con đường sáng tác văn học. Trước thập kỷ 80 ngòi bút của Minh Châu thiên về tính sử thi hào hùng, lãng mạn, tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm thời kì này là những người chiến sỹ, thanh niên xung phong mang vẻ đẹp lý tưởng. Cho đến năm 1975 về sau, Nguyễn Minh Châu tập trung nghiên cứu sáng tác về cuộc sống của người dân lao động, những tác phẩm của ông đều lấy cảm hứng từ các vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh mà tâm điểm khám phá nghệ thuật ở thời kì này là hình ảnh con người bình thường trong cuộc sống mưu sinh vất vả, trong hành trang nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và thể hiện nhân cách, tiêu biểu là tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”. Tác phẩm được nhà văn sáng tác năm 1987, kể về chuyến đi công tác của nhiếp ảnh gia, những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về cái đẹp và cuộc đời. Đồng thời thể hiện tư tưởng của nhà văn, hướng tiếp cận mới của ông về góc độ đời tư thế sự và phong cách triết lý nhân sinh. Qua đó, tác phẩm đã làm sáng tỏ nhận định của nhà văn Nguyên Ngọc về Nguyễn Minh Châu: “nhà văn mở đường tinh anh cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới”. Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm văn học có tình huống truyện vô cùng độc đáo, cuốn hút người đọc ngay từ những câu văn đầu tiên. Bàn về tình huống truyện, có ý kiến cho rằng: “tình huống truyện chính là chiếc chìa khoá để vận hành cả cốt truyện”, “là điểm tựa để người đọc khám phá trọn vẹn một tác phẩm văn xuôi”. Tình huống truyện chính là những sự kiện bất ngờ, mới lạ, éo le…đó chính là những điểm nhấn then chốt hấp dẫn người đọc. Tình huống truyện cũng là khoảnh khắc mà ở đó nhận vật có thể bộc lộ rõ bản chất, tính cách của mình để từ đó chủ đề tư tưởng của truyện được thắp sáng. Bằng phong cách nghệ thuật và tài năng của mình, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện nhận thức vô cùng bất ngờ và chứa đựng những nghịch lý cuộc đời, đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện. Người đàn bà hàng chài là nhân vật trung tâm của tác phẩm- một người phụ nữ vô danh như bao số phận khốn khổ khác ở vùng eo biển miền Trung và dọc dải đất hình chữ S thời hậu chiến. Mới đầu, Phùng- người kể chuyện gọi chị ta là “mụ”, “người đàn bà” để tỏ lòng thương hại, có khi gọi là “chị ta” để thể hiện sự trân trọng một cách ngượng ngùng. Không đặt tên cho nhân vật không phải là do nhà văn thiếu thốn ngôn từ mà đó là dụ ý của tác giả, điều đó gợi cho chúng ta nhớ tới nhân vật “thị” trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” của nhà văn Nam cao. Dù không cùng giai đoạn sáng tác nhưng hai nhân vật cùng có cuộc đời giống nhau: đều là nạn nhân của cái đói, cái nghèo, đến một cái tên để xác định danh tính của một con người cũng không có bởi lẽ, số phận và cuộc đời của họ tiêu biểu cho những con người nhỏ bé, bình thường khác trong xã hội. Như vậy, thông qua một cảnh đời cụ thể tác giả đã nói hộ tâm sự của bao người đàn bà vô danh với những giọt nước mắt đau thương, tủi hờn. Hiện thực không hề đơn giản, một chiều mà luôn luôn tồn tại với nhiều mảng màu sắc đối lập chẳng thể giải đáp. Nghịch lý không dừng lại ở những phát hiện trước đó mà tiếp tục được tác giả đi sâu vào khai thác trong nhân vật người đàn bà hàng chài. Đây là một người phụ nữ đã trạc ngoài bốn mươi, dáng người đặc trưng của người miền biển, cao lớn với những “đường nét thô kệch”.Vẻ ngoài xấu xí, mặt chằng chịt những vết rỗ sau một bận lên đậu mùa, sắc mặt tái bệch đi sau một đêm dài thức trắng. Xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng vì xấu nên không ai lấy. Lúc đầu khi mới được chánh án Đẩu mời lên toà án, người đàn bà còn sợ sệt, lúng túng tìm đến một chỗ để ngồi. Khi được chánh án khuyên bỏ chồng, bà ta sợ hãi và lo lắng vô cùng mà cất lên lời van xin toà: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thật là kỳ lạ, một gã chồng vũ phu suốt ngày đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thì có gì đáng để bà ta phải lưu luyến mà không bỏ quách đi. Một người chồng một khi dám xuống tay đánh vợ và chửi rủa như thế, thì còn thiết tha hạnh phúc gì nữa, vậy mà người đàn bà giàu lòng vị tha, bao dung, độ lượng ấy nhất định không chịu bỏ chồng, không oán hận chồng mà còn bênh vực, thấu hiểu cho nỗi khổ của người chồng. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào những gì đang hiện ra ở trước mắt, thì người phụ nữ này quả thật là vô cùng đáng trách, trách vì sự kém cỏi hèn nhát của bản thân, trách vì đã để bản thân mình chịu nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thế nhưng không, cuộc đời vốn dĩ chẳng phơi bày ra trước mắt ta những nghiệt ngã, uẩn khúc. Đằng sau vẻ nhút nhát của người đàn bà ấy là sự hy sinh cao cả vì đàn con, vì mái ấm gia đình, người đàn bà thấu hiểu được nỗi khổ của người chồng. Qua lời kể của chị, người chồng khi còn trẻ tuy cục tính nhưng hiền lành, chị mang ơn người đàn ông ấy vì đã cứu lấy danh dự mình, vẫn cưới dù biết chị có mang với người đàn ông khác. Hoàn cảnh vốn dĩ chẳng được khá giả đã thế lại còn đông con, gánh nặng cơm áo như đè nặng hết lên vai người chồng. Những ngày trời đổ giông bão cả nhà chỉ ăn “cây xương rồng luộc chấm muối”, chị chép miệng như đang “nhìn suốt cả đời mình”, chị nhận hết lỗi về mình “giá tôi đẻ ít đi”...Mọi lý lẽ chị dùng để bao biện, bào chữa cũng không thể che lấp đi những hành vi đáng lên án của người chồng vũ phu nhưng cuộc đời vốn luôn tồn tại những nghịch lý, những ngang trái. Kẻ bị bạo hành kiên quyết bảo vệ kẻ tội đồ, kẻ tội đồ cũng là nạn nhân của số phận và chính mình. Đằng sau lí lẽ “khó hiểu” ấy là tình yêu chồng, là sự nhân hậu và bao dung của một người đàn bà thấu suốt, nghĩa tình. Chị hiểu người đàn ông đi đến bước đường này một phần cũng là do chị, rẳng người đàn ông kia cũng không muốn thế, rằng với chị, người đàn ông ấy từng có ơn. Suy cho cùng, ta có quyền đồng ý hoặc không đồng ý với lí lẽ của người đàn bà, nhưng ta cần phải tôn trọng sự lựa chọn và hy sinh vì gia đình, vì chồng của chị. Có lẽ,tình nghĩa vợ chồng và những kỉ niệm quá khứ khiến chị tình nguyện ở lại bên người đàn ông khốn khổ, chính sự bao dung của người phụ nữ khiến chị tìm đủ mọi cách để bảo vệ người chồng xấu xa, độc ác. Qua đó, vẻ đẹp khuất lấp khiến người đàn bà hàng chài trở thành một người phụ nữ rất đời, như bao nhiêu người phụ nữ ngoài kia. Người đàn bà thâm trầm, sâu sắc, chị hiểu thiện trí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên mình bỏ chồng vũ phu, tàn bạo. Xong chị càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước: quanh năm lênh đênh trên biển - nguồn sống duy nhất của cả gia đình từng ấy miệng ăn, chị thấu hiểu lẽ đời và luôn phải nhẫn nhục chịu đựng vì thương con bởi chúng còn thơ dại nếu không có bàn tay chăm sóc của người mẹ sẽ ra sao? Liệu người đàn ông thô bạo, khô khan ấy có dạy dỗ, bảo ban, quan tâm và săn sóc được chúng? Ở làng chài, những người phụ nữ cần có người đàn ông chèo lái con thuyền mỗi khi trời đổ phong ba, họ sức yếu vai mềm không thể một mình chống đỡ lại với bão táp ngoài biển khơi được. Trên vùng đầm phá mênh mông, quê hương cả mấy cây số song nước, biết bao hiểm nguy rình rập, con người, nhất là người phụ nữ lại quá nhỏ bé, yếu đuối. Trong cuộc sống, đâu phải lúc nào ta cũng có thể làm những điều ta muốn, đôi khi thay vì đấu tranh để hi sinh thì ta cần phải hòa hoãn, thỏa hiệp và chấp nhận để tồn tại.Chân lý ấy thật xa lạ với những quan niệm cứng nhắc, giản đơn của Đẩu và những lí lẽ nhân văn được tô màu đẹp đẽ của người nghệ sĩ lãng mạn Phùng.Dù khó chấp nhận, dù bất thường nhưng đó là thực tế, ta buộc phải chấp nhận dù đau đớn. Câu chuyện cuộc đời giản đơn của người đàn bà đã khai mở trong Đẩu, đặc biệt là Phùng những suy nghĩ về số phận con người, khiến họ nhận ra sự đơn giản, hời hợt, ngây thơ trong cách nhìn cuộc sống. Cũng trong lời giãi bày thật tình của một người đàn bà ít học, ta thấy cháy lên ánh sáng lấp lánh của trí tuệ nhân dân và sức sống kiên cường của người lao động. Những con người ấy sẵn sàng lao vào phong ba, bão táp để tìm đường sống, sẵn sàng hy sinh và thỏa hiệp để tiến lên. Những vẻ đẹp khuất lấp đó nếu không đến gần, không lắng nghe, không thấu cảm thì con người, nhất là người nghệ sĩ sẽ mãi mãi không bao giờ hiểu được.Như vậy, cái Đẩu và Phùng thấy chỉ là biểu hiện bên ngoài còn cái người đàn bà thấy là bản chất bên trong. Trong hoàn cảnh ấy, sự công chính của luật pháp, lòng tốt và chính nghĩa là chưa đủ để lí giải bài toán phức tạp về nỗi khổ của con người. Bằng cái nhìn sâu sắc, thấu suốt của người trải qua bao giông tố, người đàn bà hiểu nguyên nhân của mọi sự: đói nghèo sinh ra bạo lực, bạo lực nối tiếp bạo lực lại là nơi bắt đầu của những đói nghèo. Trong cái vòng luẩn quẩn ấy, con người buộc phải chấp nhận cái sự “lạc hậu” để mà tồn tại. Cũng như bao người phụ nữ khác, người đàn bà hàng chài cũng chỉ là một người mẹ giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu thương con cái, một người vợ tình nghĩa, thủy chung giữa cuộc đời cơ cực, luôn chắt chiu những giọt hạnh phúc đời thường để khóa lấp nỗi đau và sự cô đơn. Trong cuộc đời đầy bóng tối và nỗi đau của chị, những giọt hạnh phúc có thể chỉ đếm hết bằng những đầu ngón tay- nó ít ỏi, nhỏ bé và mong manh. Thế nhưng đó lại là những ngày chị được theo anh xuống thuyền, thực hiện thiên chức của người vợ, người mẹ, đó là những giây phút hiếm hoi nhìn đàn con được ăn no sau cả tháng ngày lấp đầy bụng bằng “xương rồng luộc chấm muối”. Ta cảm nhận được ánh mắt ấm áp, nụ cười hiền từ của người mẹ khi nghĩ về những giây phút hạnh phúc ấy sau câu hỏi của Phùng : “ Có khi nào chị thật sự hạnh phúc không?” Có thể với nhiều người, những giây phút ấy chẳng có lí gì, mà nó lại quá ít ỏi và mong manh, nhưng đối với người đàn bà can đảm ấy thì những giây phút hiếm hoi đó lại là tài sản vô giá, là nguồn vui, là động lực.Chỉ cần bấy nhiêu thôi, người mẹ ấy có thể vì con mà chống lại cả thế giới. Vì tình thương con, vì gia đình, một người mẹ bình thường có thể trở nên vĩ đại mà lý lẽ đơn giản ấy Phùng và Đẩu không thể hiểu được. Càng trải qua đau khổ, càng qua nhiều going bão, người mẹ càng trân quý hơn hạnh phúc đời thường. Như vậy, nhân vật người mẹ làng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một minh chứng tiêu biểu cho ngạn ngữ phương Tây: “ Người xem con là mục đích đầu tiên cũng là mục đích cuối cùng của đời mình”. Qua đó, nhân vật người đàn bà hàng chài không tên, khốn khổ và vô danh giữa cuộc đời trong “ chiếc thuyền ngoài xa” trở thành biểu tượng đẹp đẽ của người mẹ, người vợ truyền thống, đó cũng là hình ảnh đại diện cho sức sống tiềm tàng, bền bỉ, thách thức số phận của con người. Cuộc đời người đàn bà như cuộc đời của một con trai biển, bị vùi lấp dưới tầng sâu bùn đất, chịu nép sau hốc đá, thân phủ kín rêu nhưng vẫn kiên trì bám trụ, nhẫn nại cố gắng, chịu đựng đớn đau mà bao phủ lấy hạt cát trong mình, dùng tình yêu biến hạt cát biến thành viên ngọc trai sáng lấp lánh. Với cái nhìn nhân ái và thấu cảm, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tìm ra những viên ngọc quý giá ấy, trân trọng, nâng niu mà đem phơi nó dưới ánh sáng của sự thật. Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài, Minh Châu đã gửi gắm những khám phá, phát hiện sâu sắc, đa diện về cuộc sống và con người, đồng thời là minh chứng rõ nét trong quan điểm sáng tác của nhà văn: “ nghệ thuật và đời sống phải là những đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”. Qua đoạn trích, Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà phi thẩm mĩ và xấu xí, một bên là vẻ đáng thương và phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà làng chài ấy là người có cốt cách bên trong: thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, thương chồng và thương đàn con nheo nhóc, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Qua hình ảnh người đàn bà làng chài chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam cho dù trong hoàn cảnh nào thì vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không được xinh đẹp nhưng trong họ luôn chúa đựng những phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn và chăm sóc gia đình hạnh phúc. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”đã mang đến cho chúng ta một bài học quý giá và đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: cần có cách nhìn đa diện, nhiều chiều, khám phá đúng bản chất chứ không thể đánh giá con người, sự vật qua vẻ bềngoài của nó, đồng thời thể hiện niềm tin và sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn con người. Qua đó, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện nhận thức sâu sắc, hình ảnh biểu trưng “chiếc thuyền ngoài xa” đó là vẻ đẹp lãng mạn của nghệ thuật, là ẩn dụ cho kiếp người đơn độc, lênh đênh trên biển lớn cuộc đời. Ngôn ngữ truyện chân thực, triết lý, thể hiện rõ tính cách nhân vật. Hình ảnh sáng tạo, chi tiết đặc sắc, giàu ý nghĩa. Giọng điệu đa dạng, phong phú, hấp dẫn người đọc. Sê-khốp từng cho rằng: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong tủy cốt”. Ý kiến trên khẳng định rằng trong thế giới văn chương đa sắc màu, vị trí của một nhà văn không chỉ được xác lập bởi tài năng mà còn bởi những nỗi niềm trắc ẩn sâu sắc của “người cầm bút” với cuộc đời và con người. Giá trị nhân đạo được hiểu là một trong những giá trị cơ bản của tác phẩm văn học được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong hoàn cảnh nào.Thông qua nhân vật “người đàn bà hàng chài” trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, người nghệ sĩchân chính –Minh Châu đã lắng nghe những vang vọng đời sống để lắng đọng, để cảm nhận, để trân trọng và thấu hiểu. Đó là sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh, Minh Châu cảm thương cho số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài, đồng thời thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người. Nhà văn lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình đang diễn ra trong xã hội, phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong cách đối xử với vợ, con. Bên cạnh đó, tác giả ngợi ca vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của chị.Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng. Như vậy, Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm văn học xuất sắc của Nguyễn Minh Châu, để lại cho chúng ta những bài học quý giá về triết lý nhân sinh của cuộc đời, biết đồng cảm, sẽ chia với những mảnh đời khốn khó. Từ tình huống truyện có ý nghĩa như một nút thắt để người đọc khám phá về sự thật cuộc đời.Nhà văn cũng như “thư ký của thời đại”, phải có trách nhiệm tái hiện cuộc sống trong ngòi bút nghệ thuật của mình. Lê Đạt từng nhận xét: “Mỗi con người có một dạng vân tay Mỗi nhà văn có một dạng vân chữ không trộn lẫn” Ý kiến trên khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt của nhà văn trong nền văn chương muôn màu sắc. Với tư cách là một nhà văn, Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta thấy “một dạng vân chữ không trộn lẫn đó” thông qua giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”, đặc biệt là trong cách xây dựng tình huống truyện khéo léo, lời văn trần thuật giàu xúc cảm, giàu chất tạo hình của người người đàn bà vị tha, độ lượng, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh và tình yêu thương con tại tòa án huyện.
Dàn bài chí tiết về đức hi sinh Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận đó là đức hi sinh Thân đoạn: Giải quyết vấn đề - Khái niệm: Đức hi sinh là gì? Là sự chấp nhận, nhường nhịn chịu thiệt thòi về bản thân và vì lợi ích của người khác - Biểu hiện của đức hi sinh: + Luôn suy nghị về người khác + sẵn sàng giúp đỡ người khác + đặt lợi ích của người khác trên lợi ích của mình Ví dụ: Những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì dân tộc Việt Nam - Ý nghĩa của đức hi sinh + Mang đến cơ hội tốt đẹp cho người khác + Nhận được sự tôn trọng, yếu quý từ những người xung quanh - Phản đề: + Nhiều người ích kỷ, vô cảm trước nỗi đau của người khác + Có người sẵn sàng hi sinh lợi ích của người khác để đạt được lợi ích tầm thường của mình -Kết đoạn: Bài học: Cần trân trọng những cá nhân có đức hi sinh + Mỗi chúng ta biết rèn luyện, tu dưỡng để có những phẩm chất đạo đức tốt. Bài văn mẫu ngắn nhất về đức hi sinh Trong cuộc sống, đức hi sinh là một phẩm chất đẹp, cao quý của con người. Vậy đức hi sinh là gì? Đức hi sinh là sự chấp nhận nhường nhịn, chịu thiệt thòi về bản thân vì lợi ích của người khác. Những người có đức hi sinh thường sẵn sàng giúp đỡ người khác và đặt lợi ích người khác trên lợi ích của mình. Như chúng ta thấy, ở thời chiến, các anh hùng liệt sĩ đã quên mình hi sinh vì dân vì nước vì độc lập dân tộc. Đức hi sinh ấy mang đến cơ hội tốt đẹp cho người khác nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Những người có phẩm chất này luôn được mọi người tôn trọng, yêu quý. Bên cạnh những tấm gương có đức hi sinh thì vẫn còn những kẻ ích kỉ, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, có những kẻ còn sẵn sàng hi sinh lợi ích của người khác để đạt được mục đích tầm thường của mình. Từ những luận bàn trên, chúng ta cần trân trọng những người có đức hi sinh và lên án những kẻ ích kỷ, vô cảm để xã hội thêm tốt đẹp. Là một học sinh, ngay hôm nay chúng ta cần biết rèn luyện, tu dưỡng để có những phẩm chất đạo đức tốt để trở thành con ngoan, trò giỏi.
Bài văn mẫu hay nhất về lòng khiêm tốn Một trong những đức tính tốt đẹp của con người đó là khiêm tốn. Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người, luôn cố gắng, nỗ lực không ngừng học tập và rèn luyện.Nếu trong xã hội ai cũng có lòng khiêm tốn và ý chí vươn lên thì xã hội ngày càng tốt đẹp và phát tiển hơn. Đức tính khiêm tốn được thể hiện qua lời ăn, tiếng nói, cử chỉ hành động và cách ứng xử của mỗi người. Người có nhân cách, có phẩm chất, có lòng tự trọng thì sẽ khiêm tốn. Như chúng ta thấy Bác Hồ là một tấm gương điển hình về lòng khiêm tốn, Bác không nhận mình là nhà thơ giỏi, Bác chỉ nhận mình là người yêu thơ. Bên cạnh những tấm gương về lòng khiêm tốn thì vẫn tồn tại một số cá nhân kiêu ngạo, kiêu căng, coi trời bằng vung và coi thường mọi người, những người này cần phê phán để họ hiểu được giá trị của lòng khiêm tốn. Khi có lòng khiêm tốn sẽ giúp con người luôn luôn phấn đấu, rèn luyện, không ngừng học hỏi để phát triển bản thân, giúp họ nhanh chóng chạm đến vinh quang mà họ mong muốn. Qua đây, mỗi học sinh chúng ta cần rèn luyện đức tính khiêm tốn để hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng mối quan hệ bền vững trong xã hội, sớm chạm dến thành công trong cuộc sống.
Cách học giỏi văn? Dưới đây mà một số mẹo học giỏi văn mà các em cần biết 1.Đọc nhiều: Hãy đọc rất nhiều tác phẩm văn học, báo chí, tiểu thuyết và thơ để mở rộng vốn từ vựng và nắm vững các cấu trúc ngữ pháp. Đọc nhiều cũng giúp bạn nắm bắt được phong cách và cách diễn đạt của các tác giả 2. Phân tích và tóm tắt: Khi đọc một tác phẩm, hãy cố gắng hiểu ý nghĩa và mục đích của tác giả. Hãy phân tích các yếu tố văn học như cốt truyện, nhân vật, phong cách viết, ý đồ tác giả, và thông điệp mà tác phẩm muốn truyền tải. Tóm tắt lại nội dung và ý nghĩa chính của tác phẩm để củng cố kiến thức 3. Học từ vựng: Tăng cường vốn từ vựng của bạn bằng cách đọc từ điển, học các từ mới và sử dụng chúng trong câu văn. Hãy chú trọng đến các từ ngữ đặc biệt và thuật ngữ trong lĩnh vực ngữ văn 4. Viết nhiều: Luyện viết là một cách tốt để rèn kỹ năng ngữ văn của bạn. Hãy viết các bài luận, văn bản phân tích và tóm tắt, và đánh giá các tác phẩm văn học. Nhớ kiểm tra lại và sửa chữa các lỗi chính tả và ngữ pháp. 5. Làm bài tập: Tìm các bài tập ngữ văn trên sách giáo trình hoặc trên Internet và làm chúng để rèn kỹ năng đọc hiểu và phân tích văn bản 6. Tham gia vào các nhóm thảo luận: Tham gia vào các nhóm thảo luận trực tuyến hoặc ngoại khóa để thảo luận về các tác phẩm văn học, chia sẻ ý kiến và học hỏi từ những người khác 8. Xem các bài giảng và tài liệu học trực tuyến: Internet cung cấp nhiều tài liệu học trực tuyến miễn phí về môn ngữ văn. Xem các bài giảng, đọc các bài viết và tham gia vào các khóa học trực tuyến để mở rộng kiến thức của mình. Trên đây là mốt số kinh nghiệm mà cô Huyền muốn chia sẻ đến các em, chúc các em học tốt.
Phương pháp dạy và học môn ngữ văn thường tập trung vào việc giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc, viết và suy luận một cách logic và khoa học. Dưới đây là một số phương pháp dạy và học môn ngữ văn thông dụng: Đọc hiểu: Đây là kỹ năng cơ bản của môn ngữ văn, đó là hiểu được nội dung và ý nghĩa của một văn bản. Các phương pháp dạy và học đọc hiểu bao gồm đọc lướt để tìm kiếm thông tin, đọc chậm để hiểu sâu hơn và đọc lại để tránh hiểu sai. Phân tích văn bản: Kỹ năng phân tích văn bản giúp học sinh có thể phân tích và đánh giá các yếu tố văn học, bao gồm nhân vật, cốt truyện, phong cách viết và thông điệp của tác giả. Các phương pháp dạy và học phân tích văn bản bao gồm đọc lại để tìm hiểu các chi tiết cụ thể và tập trung vào các đặc điểm văn học chính. Viết văn: Kỹ năng viết văn là một phần quan trọng của môn ngữ văn. Học sinh cần phải biết cách viết các loại văn bản khác nhau như văn nghị luận, văn tả, văn biểu cảm và văn học. Các phương pháp dạy và học viết văn bao gồm viết nháp, viết thảo luận và viết lại để cải thiện nội dung và phong cách viết. Trình bày và thuyết trình: Kỹ năng trình bày và thuyết trình giúp học sinh trình bày ý tưởng và suy luận của mình một cách rõ ràng và hiệu quả. Các phương pháp dạy và học trình bày và thuyết trình bao gồm tập nói trước lớp, thực hành trình bày ý tưởng bằng các phương tiện trực quan và sử dụng kỹ năng giao tiếp. Tập làm bài tập: Một trong những phương pháp quan trọng để đạt được thành công trong môn ngữ văn là thực hành và tập làm bài tập. Học sinh nên tham gia vào các hoạt động như làm bài tập viết văn kiếm tra, đọc các tác phẩm văn học và phân tích chúng để cải thiện kỹ năng của mình. Đồng thời, học sinh cần phải biết cách đọc và giải thích các từ và câu học thuật như tựa đề, mở đầu, kết thúc và đoạn văn. Tập trung vào việc phát triển kỹ năng suy luận logic: Kỹ năng suy luận là một yếu tố quan trọng của môn ngữ văn. Học sinh cần phải phát triển khả năng suy luận logic để có thể hiểu và phân tích các tác phẩm văn học một cách chính xác. Các phương pháp dạy và học suy luận logic bao gồm tập trung vào các yếu tố quan trọng như ngữ cảnh, tiền đề và kết luận. Tập trung vào việc đọc các tác phẩm văn học: Đọc các tác phẩm văn học là một trong những cách hiệu quả nhất để phát triển kỹ năng ngôn ngữ và suy luận. Các phương pháp dạy và học đọc các tác phẩm văn học bao gồm đọc đoạn văn, tìm hiểu tác giả và cách viết của họ, và phân tích các phần khác nhau của tác phẩm. Sử dụng các phương tiện trực quan: Các phương tiện trực quan như hình ảnh, video và âm thanh có thể giúp học sinh hiểu và phân tích các tác phẩm văn học một cách dễ dàng hơn. Các phương pháp dạy và học sử dụng các phương tiện trực quan bao gồm xem các tác phẩm truyền thông có liên quan và sử dụng các phương tiện trực quan để trình bày ý tưởng và suy luận Tóm lại, các phương pháp dạy và học môn ngữ văn tập trung vào việc giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc, viết và suy luận một cách khoa học và logic. Điều này giúp học sinh hiểu sâu hơn về các tác phẩm văn học và phát triển khả năng tư duy và phân tích Các phương tiện trực quan là các công cụ hỗ trợ giảng dạy và học tập nhằm giúp học sinh hiểu và hấp thu kiến thức một cách dễ dàng và sinh động hơn. Các phương tiện này bao gồm: Hình ảnh: Hình ảnh là một trong những phương tiện trực quan phổ biến nhất trong giảng dạy và học tập. Chúng giúp học sinh tưởng tượng và hiểu sâu hơn về các khái niệm và ý tưởng được trình bày trong các tác phẩm văn học. Video: Video là một phương tiện trực quan khác được sử dụng để giảng dạy và học tập. Chúng giúp học sinh thấy được cách diễn xuất, phong cách viết và tạo cảm hứng của các tác giả, giúp họ hiểu sâu hơn về các yếu tố của các tác phẩm văn học. Âm thanh: Âm thanh là phương tiện trực quan khác giúp học sinh hiểu sâu hơn về các yếu tố của các tác phẩm văn học như phong cách viết, cảm xúc và tâm trạng của các nhân vật. Slide trình bày: Các slide trình bày được sử dụng để trình bày các thông tin một cách rõ ràng và sinh động hơn. Chúng giúp học sinh tập trung hơn vào các yếu tố quan trọng và dễ dàng tiếp thu kiến thức. Các phần mềm trực quan: Các phần mềm trực quan như Mindmap, Prezi, PowToon,... giúp học sinh hiểu sâu hơn về các khái niệm và ý tưởng trong các tác phẩm văn học, đồng thời giúp họ phát triển kỹ năng tư duy và sáng tạo. Tóm lại, các phương tiện trực quan giúp giảng viên và học sinh trình bày kiến thức một cách sinh động và dễ hiểu hơn, đồng thời giúp học sinh hiểu sâu hơn về các yếu tố của các tác phẩm văn học.
Câu tục ngữ "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng" có ý nghĩa như sau: "Gần mực thì đen": Nếu chúng ta liên tục tiếp xúc với những người hoặc môi trường xấu, thì sẽ dễ bị ảnh hưởng và trở nên tệ hơn. Những môi trường đen tối, tiêu cực, và những người có tư tưởng, hành động không tốt có thể gây ảnh hưởng xấu đến chúng ta. "Gần đèn thì rạng": Nếu chúng ta liên tục tiếp xúc với những người hoặc môi trường tích cực, tốt đẹp, thì sẽ giúp chúng ta trở nên tốt hơn. Những môi trường tích cực, những người có tư tưởng, hành động tốt có thể giúp ta trở nên tích cực hơn, tăng cường sự tự tin, khả năng giải quyết vấn đề, và đạt được thành công trong cuộc sống. Điều quan trọng là chúng ta cần chọn cho mình những môi trường và người xung quanh có tính cách tích cực, để trở nên tích cực hơn và có thể đạt được thành công trong cuộc sống. Câu tục ngữ này còn có thể hiểu là con người sẽ bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh và môi trường xung quanh mình. Vì vậy, chúng ta cần tìm cho mình những người bạn, đồng nghiệp, người thân và môi trường tích cực để có thể phát triển tốt hơn và đạt được mục tiêu trong cuộc sống. Nói cách khác, đây là lời nhắc nhở chúng ta rằng việc lựa chọn môi trường, tìm kiếm người bạn, đồng nghiệp, người thân là rất quan trọng đối với sự phát triển và thành công của chúng ta. Chúng ta nên tìm kiếm những người có chung sở thích, đam mê, tư duy tích cực, những môi trường lành mạnh, tích cực để có thể trau dồi kinh nghiệm, học hỏi kiến thức mới, cùng nhau phát triển và đạt được mục tiêu trong cuộc sống. Vì vậy, câu tục ngữ "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng" là lời khuyên quý giá nhằm giúp chúng ta tạo ra một môi trường tích cực để phát triển bản thân và đạt được thành công trong cuộc sống.
Nghị luận văn học là một trong những phần quan trong và cao điểm nhất trong bố cục đề thi THPT QG. Chính vì thế nhiều học sinh đặt ra câu hỏi “Làm sao để viết chuẩn bố cục của một bài văn nghị luận văn học?”. Để trả lời cho câu hỏi đó 1 cách chính xác nhất hãy cùng Trung tâm gia sư cô Hà Huyền đi tìm hiểu Cách viết nghị luận văn học lớp 12 qua bài viết dưới đây. 1, Nghị luận văn học là gì? Trước khi đi tìm hiểu cách viết nghị luận văn học chúng ta phải hiểu “Nghị luận văn học là gì?”. Nghị luận văn học là dạng bài dùng để bày tỏ cảm xúc về tác phẩm văn học của riêng cá nhân. Dùng lý lẽ để đánh giá, phân tích về vấn đề ở đề bài yêu cầu để khám phá nội tâm, tâm tư của tác giả. Nghị luận văn học là dạng bài trọng tâm và khá quan trọng đối với học sinh lớp bởi đây là phần quyết định cho điểm cao hay thấp. Chính vì thế, các em học sinh cần nắm rõ cấu trúc và cách viết của dạng bài nghị luận văn học. 2, Cấu trúc và cách làm bài nghị luận văn học A: Mở bài -Giới thiệu tác giả, tác phẩm -Nêu được vấn đề nghị luận mà đề bài yêu cầu -Nêu nhận xét, đánh giá chung về vấn đề nghị luận B: Thân bài a, Khái quát: Phần này khá quan trọng bởi theo thang điểm của bộ nếu đúng và đủ thì phần khái quát này sẽ được 0,5 điểm -Trong phần khái quát chúng ta sẽ khái quát về tác giả( phong cách sáng tác, vị trí của tác giả trong nền văn học,...), tác phẩm, hoàn cảnh xuất xứ - Nêu cảm nhận chung, khái quát về toàn bộ tác phẩm b, Phân tích, cảm nhận về vấn đề nghị luận -Trong quá trình phân tích, các em học sinh phải xác lập hệ thống các luận điểm chính rồi dựa vào đó và thực hiện các thao tác: Phân tích, bàn luận, cảm nhận, chứng minh,…để ràm rõ những luận điểm đó. - Khi làm bài nên viết theo lối diễn dịch để các ý được rõ ràng, không bị thiếu ý và người chấm cũng dễ dàng khái quát được và cho điểm. - Đối với các tác phẩm văn học là thơ thì khi viết các em cần nắm rõ nghệ thuật để phân tích phần nội dung - Khi viết cần cô đọng, giọng văn phải kết hợp với suy tư cảm xúc để thể hiện rõ được cầu từ. Nên tránh những câu từ sáo rỗng để không bị mất sự mạch lạc trong bài văn. - Tránh gạch bỏ, tẩy xóa nhiều trong bài thi vì điều đó sẽ làm mất thiện cảm đối với người chấm. - Khi phân tích, bàn luận xong để tăng thêm chiều sâu cho bài viết thì các em học sinh cần có thêm so sánh, đối chiếu giữa nhân vật của tác phẩm này đối với tác phẩm khác, hoặc tác phẩm này với tác phẩm khác. Cần đưa thêm một số lời phê, nhận định văn học vào trong Bài làm để tăng sự thu hút, lôi cuốn người đọc. Những yếu tố này sẽ giúp bài viết của các bạn có thêm chiều sâu, phong phú từ đó sẽ giúp đạt điểm cao. c, Đánh giá về nghệ thuật: Theo thang điểm của Bộ GD&ĐT phần này sẽ được từ 0,5-1 điểm. Trước khi tới phần tổng kết đánh giá thì cách em học sinh cần để ý về phần đánh giá nghệ thuật nếu như đầy đủ cấu trúc bài điểm sẽ cao hơn. Trong phần này, các em học sinh khái quát lại toàn bộ nội dung nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng trong phần phân tích trên. C: Kết bài -Tổng kết lại vấn đề nghị luận mà đề bài yêu cầu. - Đưa lời đánh giá, nhận xét chung về tác phẩm. Qua bài viết trên, Trung tâm gia sư cô Hà Huyền đã chia sẽ tới các em học sinh đặc biết là các em học sinh lớp 12 cách làm bài nghị luận văn học từ đó giúp các em đạt kết quả tốt hơn trong những kì thi sắp tới.
Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về đời sống xã hội, chính trị. Đề tài của dạng bài này khá phong phú và đa dạng bao gồm: những tư tưởng đạo lý, lối sống đẹp, nói về một hiện tượng tích cực hay tiêu cực trong đời sống thường ngày,... Nhằm cung cấp cho người đọc những dẫn chứng, lý lẽ và cho ta thấy được tính cấp thiết của vấn đề. Vậy bố cục của bài văn Nghị luận xã hội như thế nào? Và những điều lưu ý khi viết bài. Hãy cùng Trung tâm gia sư cô Hà Huyền tìm hiểu nhé! 1, Bố cục của bài văn Nghị luận xã hội Bố cục của dạng bài này cũng giống như các dạng văn thông thường khác gồm có: Mở bài, Thân bài và Kết bài. Nhưng dạng bài này lại chia thành 2 dạng đề: Thứ nhất là dạng đề Nghị luận về tư tưởng đạo lý và thứ hai là Nghị luận về hiện tượng đời sống xã hội. Nghị luận về tư tưởng đạo lý Nghị luận về một hiện tượng đời sống xã hội -Mở bài: : + Dẫn dắt vào vấn đề +Giới thiệu vấn đề Nghị luận có ở trên mở bài( nếu là câu tục ngữ hoặc thành ngữ hay một câu nói thì phải trích dẫn cả câu) -Mở bài: + Dẫn dắt vào vấn đề và giới thiệu những vẫn đề có tính cấp thiết + Giới thiệu về vấn đề mà đề bài đặt ra -Thân bài: 1, Giải thích(Nếu có): Giải thích từ khóa, về, câu và tổng quát khái niệm hay nội dung chính của cả câu 2, Biểu hiện( Đối với đề có dạng về lối sống, phẩm chất và đạo đức): Trả lời cho câu hỏi “ vấn đề được thể hiện như thế nào trong đời sống xã hội?” 3, Bàn luận và Chứng minh vấn đề: + Đánh giá đúng- sai, tốt- xấu, mặt tiêu cực- tích cực... của vấn đề. + Ý nghĩa của vấn đề( Trả lời cho câu hỏi Tại sao? Vì sao?,...) + Lấy thêm dẫn chứng tiêu biểu để cho bài văn có tính thuyết phục 4, Bàn luận mở rộng: + Phê phán và đưa ra những vấn đề trái ngược với vấn đề nghị luận ta đang hướng tới( nếu vấn đề nghị luận là tích cực thì ngợi ca, còn là vấn đề tiêu cực thì cần lên án và phản ánh) + Chỉ ra được lợi ích hoặc tác hại của vấn đề 5, Bài học nhận thức và hành động: Qua phân tích trên chúng ta có nhận thức và hàng động như thế nào? -Thân bài: 1,Giải thích Nếu có): 2, Trình bày thực trạng: 3.Chỉ ra nguyên nhân – tác hại của vấn đề. Nguyên nhân: + Nguyên nhân khách quan (…) + Nguyên nhân chủ quan (…) Hậu quả, tác hại của vấn đề + Tới cộng đồng, xã hội + Đối với cá nhân mỗi người 4. Bàn luận + Khẳng định: ý nghĩa, bài học từ vấn đề. +Phê phán, bác bỏ một số hành vi sai phạm 5. Đưa ra giải pháp: Nhằm ngăn chặn tiêu cực từ vấn đề ảnh hưởng tới: + Cộng đồng, xã hội + Cá nhân mỗi người Nếu đây là vấn đề tích cực thì đưa ra những bài học để tiếp túc phát huy -Kết bài: +Khẳng định, tổng quát lại vấn đề. + Đúc kết và đưa ra lời khuyên cho mọi người. III. Kết bài: - Khẳng định tổng quát về vấn đề đã bàn - Đưa ra thông điệp để mọi người hướng tới. 2, Những điều lưu ý khi viết bài Nghị luận xã hội: Khi làm bài văn Nghị luận xã hội chúng ta cần nắm chắc: -Nắm chắc được cấu trúc và cách làm bài -Chủ động và linh hoạt trong bài viết. Bởi dạng bài này không có định như các bài nghị luận văn học mà chúng ta được thầy cô hướng dẫn - Trong đề thi THPTQG dạng bài này được tối đa 2 điểm nên dung lượng bài chúng ta không nên viết quá dài. Viết đúng trọng lượng mà đề bài yêu cầu để không bị trừ điểm.
Kỳ thi THPTQG sắp tới - Kỳ thi quan trọng nhất của đời học sinh. Nó đánh dấu quá trình trưởng thành của rất nhiều người. Nhiều bạn học sinh còn khá lo lắng và băn khoăn về việc môn Ngữ văn Bộ Giáo Dục và Đào Tạo sẽ ra đề có cấu trúc như thế nào? NLVH sẽ rơi vào bài gì trong chương trình kiến thức lớp 12? Ngày 3/1/2023, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã cho ra bộ đề tham khảo trong đó có môn ngữ văn. Điều đó đã làm vơi bớt đi nhưng lo lắng, băn khoăn trong lòng các bạn.Dưới đây là file đề mà Trung tâm gia sư cô Hà Huyền gửi đến các bạn. Chúc các bạn có một kỳ thi suôn sẻ và đạt được thành tích tốt.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2022 Bài thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề I.ĐỌC HIỂU (3.0 điểm) Đọc đoạn trích: Tuổi trẻ của tôi mười tám, hai mươi trong và tinh khiết như nước suối đá khỏe và mơn mởn như mầm lá rộng và dài như mơ ước, yêu thương vươn lên và bền vững như con đường gắn vào đất, tạc vào mặt đất Tuổi trẻ như sao trời mát mắt khi yên bình hạnh phúc ngước nhìn lên và cháy bùng như lửa thiêng liêng khi giặc giã đụng vào bờ cõi dẫu rụng xuống, vẫn chói lên lần cuối gọi dậy những lớp người dẫu rụng xuống, bầu trời không trống trải trong mắt người sao vẫn mọc khôn nguôi… (Trích Con đường của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Trọng Tạo tuyển tập – Thơ và nhạc, Tập một, NXB Văn học, 2019, tr. 549-550) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích. Câu 2. Chỉ ra những tính từ miêu tả vẻ đẹp của tuổi trẻ trong đoạn thơ: Tuổi trẻ của tôi mười tám, hai mươi trong và tinh khiết như nước suối đá khỏe và mơn mởn như mầm lá Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong đoạn thơ: Tuổi trẻ như sao trời mát mắt khi yên bình hạnh phúc ngước nhìn lên và cháy bùng như lửa thiêng liêng khi giặc giã đụng vào bờ cõi Câu 4. Nhận xét những suy ngẫm của tác giả về ý nghĩa sự hi sinh của tuổi trẻ được thể hiện trong đoạn trích. II.LÀM VĂN (7.0 điểm) Câu 1 (2.0 điểm) Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của thế hệ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước. Câu 2 (5.0 điểm) Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết: Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi. Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca* cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại. *Chiếc máy ảnh hiệu Pra-ti-ca (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 70-71) Anh/Chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó, liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. ---------------HẾT--------------- Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm Họ, tên thí sinh: ; Số báo danh: Chữ ký của cán bộ coi thi 1: ; Chữ ký của cán bộ coi thi 2: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM 2022 ĐÁP ÁN, THANG ĐIỂM Bài thi: NGỮ VĂN (Đáp án, thang điểm gồm có 03 trang) PHẦN Câu Nội dung Điểm I ĐỌC HIỂU 3.0 1 Thể thơ: tự do. 0.75 2 Những tính từ miêu tả vẻ đẹp của tuổi trẻ: trong, tinh khiết, khỏe, mơn mởn 0.75 3 Tác dụng của biện pháp tu từ so sánh: Làm nổi bật vẻ đẹp của tuổi trẻ: tâm hồn, trong sáng, nhiều ước mơ, giàu nhiệt huyết, lí tưởng cống hiến và hi sinh cho Tổ Quốc. Làm cho đoạn thơ giàu hình ảnh, tăng tính biểu cảm. 1.0 4 Nhận xét những suy ngẫm của tác giả về ý nghĩa sự hi sinh của tuổi trẻ: Những suy ngẫm của tác giả: sự hy sinh cao cả có ý nghĩa thôi thúc bao lớp người tiếp tục đứng lên; dù hi sinh nhưng vẫn sống mãi trong lòng dân tộc. Nhận xét những suy ngẫm của tác giả. Có thể theo hướng: những suy ngẫm của tác giả đúng đắn và sâu sắc. 0.5 II LÀM VĂN 7.0 1 Viết một đoạn văn về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước 2.0 a .Bảo đảm yêu cầu về hình thức đoạn văn Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo một cách hoặc kết hợp các cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành hoặc tổng – phân - hợp; bảo đảm yêu cầu về cấu trúc đoạn văn. 0.25 b.Xác định đúng vấn đề nghị luận Nhận thức, thái độ, hành động thể hiện trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước. 0.25 c.Triển khai vấn đề nghị luận Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp, triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách để làm rõ trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc tiếp bước các thế hệ đi trước, bảo đảm hợp lí, thuyết phục, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Có thể theo hướng: Thế hệ trẻ cần nhận thức được sự tiếp bước của các thế hệ làm nên hành trình phát triển đất nước; có thái độ trân trọng, biết ơn những cống hiến, hi sinh của các thế hệ đi trước, có hành động cụ thể, phù hợp để kế thừa, phát huy thành quả của các thế hệ đi trước, thực hiện sứ mệnh của thế hệ mình trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. 1.0 d.Chính tả, từ ngữ, ngữ pháp Bảo đảm chuẩn chính tả, từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt 0.25 đ.Sáng tạo Thể hiện suy nghĩ sâu sắc, có ý tưởng riêng phù hợp với vấn đề nghị luận; có cách lập luận, diễn đạt mới mẻ. 0.25 2 Phân tích đoạn trích; từ đó, liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống trọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong chuyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống 5.0 a.Bảo đảm cấu trúc bài văn nghị luận Mở bài giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận; thân bài thực hiện các yêu cầu của đề bài ; kết bài khẳng định vấn đề nghị luận. 0.25 b.Xác định đúng vấn đề nghị luận Nội dung và nghệ thuật của đoạn trích; liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống trọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống 0.5 c.Triển khai vấn đề nghị luận Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, phối hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau: *Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” và vấn đề nghị luận 0.5 *Phân tích đoạn trích - Nội dung: + Khung cảnh buổi sớm mờ sương yên bình, thơ mộng: trời đầy mù từ ngoài biển bay vào, lác đác mấy hạt mưa, bấu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. + Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa nổi bật trong khung cảnh tĩnh lặng và huyền ảo; hài hòa giữa đường nét và màu sắc, giữa thiên nhiên và con người, đẹp đơn giản và toàn bích: bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ, mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe, vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc; hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa là cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh trong cái nhìn của nhân vật Phùng. + Nhân vật Phùng: hạnh phúc khi phát hiện vẻ đẹp của chiếc thuyền (bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào); tâm hồn trở nên trong trẻo hơn, nhận ra ý nghĩa đạo đức của cái đẹp (khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, khám phá chân lí của sự toàn thiện, bản thân cái đẹp chính là đạo đức); nhạy cảm với cái đẹp, đam mê sáng tạo (bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim,…). 1.75 - Nghệ thuật: + Lựa chọn điểm nhìn, ngôi kể phù hợp. + Bút pháp tạo hình đặc sắc. + Ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo và giàu sắc thái biểu cảm. + Hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ. 0.5 - Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật. Có thể theo hướng: Vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền trong buổi sớm mờ sương khơi nguồn cho sáng tạo nghệ thuật của Phùng; nghệ thuật trần thuật đặc sắc. 0.25 *Liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với hình ảnh chiếc thuyền đang chống trọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. - Hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích biểu tượng cho vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn, khác với hình ảnh chiếc thuyền đang chống trọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện tượng trưng cho sự vất vả, gian nan của cuộc sống. - Cuộc sống là đối tượng khám phá của nghệ thuật; nghệ thuật hướng tới khám phá cuộc sống không chỉ ở cái đẹp thơ mộng, lãng mạn mà còn ở cả những lam lũ, nhọc nhằn. 0.5 d.Chính tả, từ ngữ, ngữ pháp Bảo đảm chuẩn chính tả, từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt. 0.25 đ.Sáng tạo Thể hiện suy nghĩ sâu sắc, có ý tưởng riêng phù hợp với vấn đề nghị luận; có cách lập luận, diễn đạt mới mẻ. 0.5 TỔNG ĐIỂM 10.0 ---------------HẾT---------------
Để có kết quả thi tuyển sinh vào lớp 10 tốt đòi hỏi các sĩ tử cần có sự học tập đều cả 3 môn Toán, Văn, Anh. Và việc luyện đề là một trong những cách hữu dụng để ghi nhớ kiến thức và cải thiện kỹ năng. Tổng hợp đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn dưới đây sẽ giúp bạn đạt kết quả cao trong kỳ thi quan trọng này! Xem thêm: Tổng hợp đề thi vào lớp 10 môn toán Tổng hợp đề thi vào lớp 10 môn Anh Cấu trúc đề thi vào lớp 10 môn ngữ văn Trước khi đi đến luyện đề, các bạn học sinh cần hiểu rõ sự phân bố cấu trúc thông thường của một đề văn. Nhờ đó trong quá trình làm bài, các bạn có thể phân chia thời gian hợp lý cho từng phần và có hướng ôn bài cụ thể. Cấu trúc đề văn thi tuyển sinh vào lớp 10 thường có 3 phần: Phần 1: Đọc hiểu Phần 2: Nghị luận xã hội Phần 3: Nghị luận văn học Điểm tương ứng của từng phần là 3-3-4, được chia khá đều cho từng phần. Phần nghị luận văn học là phần có số điểm cao nhất; các bạn nên chú trọng vào ôn tập thêm phần này. Trong phần đọc hiểu, câu hỏi sẽ được sắp xếp từ các mức độ dễ đến khó đòi hỏi thí sinh cần phải có sự nhận biết và vận dụng vào trong thực tế. Phần nghị luận xã hội thông thường yêu cầu viết bài văn ngắn khoảng 500 chữ. Cấu trúc bài phải đảm bảo đủ 3 phần mở bài, thân bài và kết bài. Cuối bài phải rút ra được bài học nhận thức và hành động cho bản thân. Phần nghị luận văn học cần ôn kỹ các tác phẩm đã được học và phân tích đi kèm với ứng dụng thực tế. Tổng hợp đề thi vào lớp 10 môn ngữ văn Đề thi ngữ văn vào lớp 10 thành phố Hà Nội Đề thi ngữ văn vào lớp 10 thành phố Hồ Chí Minh Đề thi ngữ văn vào lớp 10 tỉnh Bắc Giang Đề thi ngữ văn vào lớp 10 thành phố Bắc Ninh Đề thi ngữ văn vào lớp 10 tỉnh Nam Định Đề thi ngữ văn vào lớp 10 tỉnh Ninh Bình Đề thi ngữ văn vào lớp 10 tỉnh Thái Bình Trên đây là tổng hợp đề thi tuyển sinh vào lớp 10 môn ngữ văn năm 2022 của một số tỉnh thành trên cả nước. Rất mong với việc luyện tập bộ đề này, bạn sẽ đạt kết quả cao trong kỳ thi tuyển sinh sắp tới!
Ngữ văn là một trong các môn học chính mà học sinh được học từ sớm. Nó cũng là môn thi quan trọng trong các kỳ thi chuyển cấp, đặc biệt là thi Đại học. Tuy nhiên vẫn gây nhiều khó khăn cho các bạn học sinh với môn văn. Sau đây giasugioi24h.vn sẽ gợi ý cho các bạn cách học giỏi môn ngữ văn lớp 12. Đọc nhiều sách và các tác phẩm văn học Đọc nhiều sách để trau dồi kiến thức Sách là một nguồn kiến thức vô tận của nhân loại. Đọc nhiều sách giúp các bạn học hỏi được những kiến thức, tinh hoa vẻ đẹp cuộc sống. Với vốn kiến thức sâu rộng đa lĩnh vực bạn có thể viết văn phong phú, có chiều sâu. Bạn hoàn toàn có thể liên hệ và vận dụng những tri thức đó vào bài viết của mình thêm hấp dẫn, thuyết phục. Và đó chính là cách học giỏi môn Ngữ văn lớp 12 hiệu quả cao. Tuy nhiên bạn cần có thời gian đọc sách và nghiền ngẫm nó. Không chỉ được tăng thêm kiến thức mà bạn có thể học hỏi văn phong, ngôn từ của những cuốn sách. Thậm chí cả đọc văn mẫu, những bài viết được viết sẵn để học hỏi. Để trau chuốt câu văn hơn, viết bài logic hơn và sáng tạo hơn. Luyện viết văn nhiều hơn, sáng tạo cách viết Luyện viết nhiều hơn để tiến bộ nhanh chóng Đây là cách học giỏi môn Ngữ văn lớp 12 giúp bạn cải thiện khả năng viết nhanh chóng nhất. Học phải đi đôi với hành thì mới có kết quả cao được. Dựa trên những kiến thức đã học trên lớp và những điều bạn đã đọc được từ sách để viết. Sau khi viết xong có thể trao đổi với thầy cô, bạn bè cùng đóng góp ý kiến. Rèn luyện và trau dồi từng ngày sẽ giúp bạn nâng cao kỹ năng viết nhanh chóng. Không nững vậy bạn còn căn chỉnh được thời gian cho phù hợp khi vào phòng thi. Sử dụng sơ đồ tư duy để nhớ kiến thức Đây là phương pháp có hiệu quả đối với bất cứ môn học nào. Đặc biệt để chuẩn bị cho kỳ thi đại học với hệ thống kiến thức rất lớn. Sơ đồ tư duy tóm tắt các từ khóa chính hỗ trợ bạn ghi nhớ tổng quát nội dung kiến thức. Vì nó rất trực quan được chia ra thành các nhánh, sắp xếp logic dễ nhìn. Bằng cách tự hệ thống lại kiến thức một cách dễ dàng, bạn có thể ghi nhớ bài học nhanh hơn rất nhiều. Vừa có thể mở ra ôn lại kiến thức ngữ văn những lúc cần hay lúc rảnh rỗi. Sơ đồ tư duy cho tác phẩm văn học Đọc báo, xem thời sự để cập nhật tình hình xã hội Câu hỏi nghị luận xã hội thường được ra đề khá gần gũi với cuộc sống. Vì vậy thường xuyên theo dõi báo đài sẽ giúp bạn có kiến thức xã hội dễ dàng. Bên cạnh đó, còn có thể lấy làm ví dụ, dẫn chứng trong bài văn của mình. Sẽ giúp bạn được điểm cộng với những dẫn chứng thuyết phục đó. Cách học giỏi môn vật lý lớp 12 nhanh chóng, hiệu quả để đạt điểm cao Cách học giỏi môn Lịch sử lớp 12! | Gia Sư Giỏi 24H Cách học giỏi môn sinh lớp 12 Làm sao để học tốt môn hóa học ngay từ đầu? Trên đây là cách học giỏi môn Ngữ văn lớp 12, hy vọng các bạn sẽ đạt điểm cao trong kỳ thi sắp tới!