Thời gian buổi đêm
Thời khắc bóng đêm thường biểu tượng cho sự bất hạnh, trừng phạt, sa đọa và cái chết. Theo cách nhìn của phân tâm học thì thời gian đêm, bóng đêm gợi lên cảnh hỗn mang, hư vô, nỗi lo sợ, nỗi buồn, trạng thái vô thức và cái chết. Nhưng thời gian cũng tượng trưng cho sự thai nghén, nảy mầm, thích hợp cho việc thanh tẩy trí tuệ, vươn tới những khát vọng cao nhất đó là ánh sáng.
Trong thời gian nghệ thuật, những đêm và đêm gần sáng luôn dịch chuyển vươn về nơi ánh sáng trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đó là sự vận động của quy luật thời gian trong quỹ đạo trời đất và cõi lòng con người từ tâm thức. Hay đó cũng chính là triết lý về thế giới nhân sinh: sự sống - cái chết thể hiện trong tác phẩm của ông. Tuổi thơ của Nguyễn Quang Thiều gắn liền với sông Đáy, với mẹ. Thời gian và cuộc đời vất vả của mẹ, đã được Nguyễn Quang Thiều tái tạo vào trong tác phẩm. Trong đêm, sự kiện thời gian một ngày kết thúc, cũng là thời gian của cái tôi thổn thức được gắn với hình bóng người mẹ tần tảo vất vả. Ở đó có cái tôi buồn nhớ thương mẹ nhớ quê da diết: Tôi dụi vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm/ Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt/ Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc/ Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn (Sông Đáy).
Cảm giác như không gian đêm cùng với thời gian những đêm xa “đựng” cái tôi buồn, xa vắng, trống trải đến đơn côi. Bởi thời gian lúc bấy giờ nhanh như chớp mắt “tuổi hai mươi”, “bao năm sau” trở về đã “trắng tóc”. Đời người đã già, năm tháng thời gian là cột mốc neo đời người trên cao: Cha đã mang tuổi hai mươi lên đò không ngoảng lại/ Mẹ con đứng vùi chân trong cát/ Nước mắt buồn bay ướt một triền sông/ Bao năm sau cha trở về trắng tóc/ Đêm đêm ngồi hút thuốc lào/ Tiếng điếu rít lên muốn khoan thủng nỗi buồn/ Khoang vào phận con buốt nhức (Tiếng cười).
Dừng ở thời gian đêm, tĩnh lặng và cô đơn, cái tôi buồn đi tìm cha mẹ, tìm anh chị em, vợ và các con. Sức suy tưởng bắt nguồn từ vô thức cá nhân nhà thơ, vực dậy miền thời gian xưa cũ, thời của năm tháng tuổi trẻ, thời sum vầy của gia đình. Nhưng còn đâu, chỉ thấy trắng trời, người ngồi trên mây trắng, người đã lên đường với bầy ngựa nâu. Từ tâm thức, cội nguồn tổ tiên dòng họ, cội nguồn của sức suy cảm nặng trĩu trước bóng thời gian dày: Tôi đi tìm cha mẹ tôi/ Cha mẹ tôi phất chiếc quạt heo may/ Ngồi khoan thai trên chiếc xe mây trắng/ Một bánh mặt trời/ Một bánh mặt trăng/ nóng và lạnh/ đi về nơi gió ngủ/…Tôi đi tìm anh chị em tôi/ Tất cả lên đường với bầy ngựa nâu/… Tôi đi tìm vợ tôi/ Người đàn bà cài chiếc cúc đoan trang/ Tôi đi tìm các con tôi. (Con bống đen đẻ trứng) Và cuối cùng, “tôi” đi tìm chính “tôi”, trong khoảng thời gian và không gian kí ức,“tôi” nằm lại như một trầm tích cuộc đời để phát hiện ra rằng nó đã “hóa vỏ ốc mòn ngậm cát gọi u … oa”. Cũng trong thời gian kí ức, ta nghe trong khoảng không trầm tích, tiếng thổn thức của đôi trai gái yêu nhau dưới sao trời trong đêm hoang sơ và băn khoăn của tuổi trẻ Ta sẽ bắt đầu điều gì khi bình minh thức dậy/ Đi về phía biển khơi hay trở lại rừng (Những ngôi sao), lời hẹn thề thuở để chỏm vụt bay qua chỉ còn lại tiếc nuối (Một bài hát tình yêu của làng Chùa): Đêm đã trải tấm khăn của tình yêu xuống rồi/ Sao xanh/ Sao xanh/ Bay về đồng cỏ/ Nụ cười trinh trắng của em/ Nước mắt trinh trắng của em. Đêm với không gian tâm tưởng, cái tôi buồn đi lạc vào vùng kí ức, Nguyễn Quang Thiều vực dậy những hình bóng người thân một cách tường tận. Không gian cá nhân và thời gian từ vùng kí ức ùa về đậm đặc chất thơ, chất ca dao, cổ tích, đã mang lại cho thơ ông nét riêng. Đó là sự duyên dáng mà thâm trầm, mạnh mẽ yêu thương mà lặng lẽ. Nói như vậy để thấy rằng thời gian trong thơ Nguyễn Quang Thiều là thời gian luôn được ông cắt xén, xé lẻ, dồn nén để quay về quá khứ, vực dậy những trầm tích đã ngủ quên trong đáy rương ký ức, mà tự cảm, tự buồn tự khóc, tự chiêm nghiệm và đắng đót cho cuộc đời, con người.
Hình tượng tác giả
Trên thi đàn, Nguyễn Quang Thiều là người sinh ra cho những cuộc cãi vã. Ngay từ khi xuất hiện, đã có nhiều tranh luận về thơ của ông. Rất nhiều quan điểm trái chiều xung quanh nhà thơ này, nhưng dù thế nào Nguyễn Quang Thiều vẫn là một đại biểu sáng giá của nền văn học đương đại. Hình tượng tác giả trong thơ Nguyễn Quang Thiều được xác định dưới chủ thể lúc là “tôi” trong bài Sông Đáy, Ban Mai, Bầy chó của tôi…, lúc là “ta” trong các bài như Mười một khúc cảm, Xô-nát hoàng hôn biển, Dòng sông…, lúc lại là “con” trong bài Dâng trà, Những con thuyền sông Đáy, Tiếng cười, … còn lại, hình tượng tác giả được ẩn giấu trong các chủ thể như chúng ta, họ hoặc sự vật, con vật, hoặc không cần xưng danh, xưng họ, mà chỉ là những chủ thể rất chung. Nguyễn Quang Thiều vẫn trầm mình vào, để đau đáu, để xẻ chia, để tạ ơn, để hối lỗi, để trăn trở, tiếc nuối và khát khao về cuộc đời.
Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 7