Bởi Học văn cô Hà Huyền | 22/03/2024 0 bình luận

Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ Lý thuyết Từ nhiều nghĩa là từ có nhiều nghĩa khác nhau Ví dụ: Bàn, quần, áo, tay, chân… Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là hiện tượng làm thay đổi nghĩa của từ tạo ra những từ nhiều nghĩa. Trong từ nhiều nghĩa có nghĩa gốc và nghĩa chuyển, Nghĩa gốc là nghĩa xuất hiện từ đầu là cơ sở để hình thành nghĩa khác. Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc. Ví dụ: Lưng núi thì to, mà lưng mẹ thì nhỏ Từ lưng trong lưng núi là nghĩa chuyển (phần giữa hơi thoải của núi, từ lưng trong lưng mẹ dùng với nghĩa gốc (lưng bộ phận trên cơ thể người) Thực hành Bài 1 Em hãy cho biết từ Xuân trong câu thơ dưới đây đâu là nghĩa gốc, đâu là nghĩa chuyển. Việc sử dụng từ xuân trong câu thứ 2 có ý nghĩa gì? Mùa xuân là Tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân                                             (Hồ Chí Minh) Bài 2 Trong câu sau đây, từ “Quạt” là từ nhiều nghĩa hay chuyển nghĩa của từ? Vì sao? Quạt nan mỏng dính Quạt gió rất dày                                            (Gió từ tay mẹ- Vương Trọng) Bài 3 Giải thích nghĩa của từ báo trong câu sau: a Ở vườn thú có Báo b Tôi vừa nhận được thông báo c Tôi từng học Báo chí Hướng dẫn giải bài tập Bài 1 Xuân trong từ mùa Xuân là nghĩa gốc, chỉ mùa của năm theo chu kỳ của Trái Đất, mùa xuân dánh dấu sự tái sinh, phục hồi của thiên nhiên sau mùa đông lạnh giá. Xuân trong từ càng xuân là nghĩa chuyển (ẩn dụ) chỉ tinh thần lạc quan, hy vọng và khởi đầu mới cho đất nước tươi trẻ, năng động và phát triển hơn. Ý nghĩa của việc sử dụng từ xuân trong câu thứ 2: Đây là phép ẩn dụ giúp thể hiện ý nghĩa cao đẹp của sự phát triển và tiến bộ, tạo nên hình ảnh rõ nét về sự phát triển của đất nước. Làm cho câu thơ tăng sức hấp dẫn và giàu sức gợi cảm Bài 2   Quạt là từ nhiều nghĩa Quạt trong câu 1 chỉ danh từ cái quat, nó thuộc đồ vật được con người tạo ra Quạt trong câu 2 chỉ quạt tự nhiên, quạt này phải có tác động của gió tự nhiên, về mặt bản chất nó mát hơn quạt nan quạt bầng tay. Bài 3  a Báo là con vật b Báo là sự thông báo thông tin nào đó cho người khác c Báo chỉ nghề làm báo, chuyên ngành báo

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 21/03/2024 0 bình luận

Nghĩa của từ Lý thuyết Nghĩa của từ là nội dung, tính chất, hoat động, quan hệ mà từ đó biểu thị. Hiểu đơn giản, nghĩa của từ là phần nội dung mà từ biểu thị giúp chúng ta hiểu được nội dung của từ đó. Ví dụ:  Mẹ là người phụ nữ có con Mệt là cảm giác mệt mỏi, mệt nhọc không còn đủ năng lượng để hoạt động Thực hành Bài 1 Giải thích nghĩa của các từ sau: Mù mịt, háo hức, tổng kết, múa Bài 2 Điền các từ sau vào chỗ trống sao cho thích hợp: Chung quy, chung kết, chung thành (1) ... Là điểm cuối cùng quan trọng của một chương trình, một dự án hoặc một quá trình nào đó (2) … là tinh thần đoàn kết, tin tưởng lòng thành với một cá nhân hay tập thể (3) …là điểm cuối cùng hoặc kết quả của cuộc tranh luận, thương thảo Bài 3 Điền các từ sau vào chỗ trống sao cho thích hợp; Rạo rực, hồng hồng, man mác, mùa xuân, đùng đục, mướt xanh, siêng năng, trong trong, trời Đẹp quá đi, mùa xuân ơi- mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu (1) … nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng riêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không (2) …như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại lại nức một mùi hương (3) … Thường thường, vào khoảng đó (4) … đã hết nồm, mưa xuân bát đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nên trời (5) … như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy (6) …có niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong (7) … đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền tròi (8) … có những làn sáng (9) … rung dộng như cánh con ve sầu mới lột.                                                                                   (Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai) Hướng dẫn giải bài tập Bài 1 Mù mịt tức là không rõ ràng, không rõ nét, ám chỉ sự thiếu tầm nhìn, mơ hồ không rõ rang trong tầm nhìn hoặc trong suy nghĩ Hát là hoạt động phát ra âm thanh theo tiết tấu hoặc nhịp điệu để truyền đạt một thông điệp hoặc mang tính giải trí Háo hức là trạng thái diễn tả cảm xúc phấn khích trước một hoạt động hay tình huống sắp diễn ra Tổng kết là tổng hợp lại một loạt các thông tin dữ liệu, sự kiện để tạo ra một cái nhìn tổng thể hoặc đánh giá chung về một chủ đề, một quá trình nào đó. Bài 2 (1) Chung kết (2) Chung thành (3) Chung quy Bài 3 (1) Mùa Xuân (2) mướt xanh (3) man mát (4) trời (5) đùng đục (6) rạo rực (7) siêng năng, (8) trong trong (9) hồng hồng.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 21/03/2024 0 bình luận

Phân biệt giữa từ ghép và từ láy + Từ ghép có thể đảo ngược các yếu tố trong từ, còn từ láy thì không, bởi từ láy thường có yếu tố gốc như long lanh, bấp bênh… Còn những từ sau: thẫn thờ, tha thiết, thì thầm… là từ ghép. Bên cạnh đó có những từ không thể đảo ngược về trật tự nhưng xét về nghĩa của các yếu tố thì từ đó vẫn được gọi là từ ghép: Đất đai, thành thực, đu đưa, đình đốn, ruộng rẫy… Có những trường hợp đặc biệt thì từ láy vẫn có thể đảo ngược được ví dụ: Khắt khe- khe khắt, lừng lẫy- lẫy lừng + Từ láy là từ không đảo được các yếu tố trong hai yếu tố (tiếng) có một yếu tố có ý nghĩa (gốc) Ví dụ: loanh quanh, om sòm… + Các từ Hán Việt trùng lặp về ngữ âm nhưng chỉ là từ ghép mà không phải là từ láy: Vĩnh viễn, liên miên, tham lam, nhũng nhiễu, nhã nhặn, hải hà, linh tinh, khao khát… 1.2 Thực hành Bài 1. Tìm các từ láy trong đoạn thơ sau: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh  (Tố Hữu) Bài 2. Đâu là từ láy, đâu là từ ghép trong những từ sau: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, thăm thẳm, mù mịt, náo nức, lênh khênh, tỉ mỉ, trong trắng. Bài 3. Sắp xếp các từ láy sau vào ba nhóm khác nhau, đặt tên cho mỗi nhóm: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ, lao xao, bâng khuâng, bồn chồn, háo hức, rì rầm, tí tách, ríu rít Bài 4. Điền thêm các tiếng vào các tiếng dưới đây để tạo thành từ ghép chính phụ: Xe..., máy…., bàn…., áo..., bút…. Bài 5. Điền các từ láy sau vào chỗ trống trong đoạn văn dưới đây sao cho thích hợp: Nghiêng nghiêng, rong ruổi, vun vút, ngại ngùng, khát khao, xinh xinh, Những con đường ngút ngàn xa thẳm bỗng như dài ra, tự dãn ra làm (1)…những bước chân (2) ... Mong sao có những bóng da bóng bang những mái quán (3) … Bên bờ cỏ ấy, để bước chân dặm trường ghé vào uống bát nước chè xanh, ăn món bánh đúc riêu cua đầy vị quê hương đang chìm lấp. Hình như nhạc sĩ ve sầu không thích đậu vào cây lúa. Có khi là phải có những chiếc lá xanh to bản bắt nhịp thì nhạc ve mới thành giai diệu du dương? Những dòng sông đào (4) … nhỏ bé, những măt ao đầy bèo tấm, bèo ong là nỗi (5) …thèm thuồng của bao hành khách ngồi bó gối trong xe trên đường ngắn đường dài (6) … gần xa. (Băng Sơn, Mùa lên đường) 1.3 Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: Loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh Bài 2: Từ láy; loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, lênh khênh, Từ ghép: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, trong trắng, tỉ mỉ, thăm thẳm, náo nức, mù mịt Bài 3: Để phân nhóm đúng cần hiểu kỹ ý nghĩa của từ láy Nhóm 1: Gợi tả âm thanh: lao xao, rì rầm, tí tách, ríu rít Nhóm 2; Gợi tả dáng vẻ, hình dáng: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ Nhóm 3: Gợi tả tâm trạng: bồn chồn, háo hức, bâng khuâng Bài 4: (1) ngại ngùng, 2 rong ruổi, 3 nghiêng nghiêng, 4 xinh xinh, 5 khát khao, 6 vun vút

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/01/2024 0 bình luận

Từ đồng nghĩa 4.1 Lý thuyết Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau Ví dụ: Bố- Ba- Cha Một từ có thể có nhiều nghĩa nên có thể tham gia vào nhiều nhóm đồng nghĩa khác nhau. Nếu biết cách sử dụng từ đồng nghĩa đúng chỗ sẽ giúp cách diễn đạt trôi chảy và không lặp từ. 4.2 Thực hành Bài 1: Tìm các từ đồng nghĩa với các từ sau: a. cho b. ngã c.uống Bài 2: Hai từ in đậm dưới đây có gì giống nhau? Việc sử dụng hai từ ấy có tác dụng gì? a.                                                       Bác đã đi rồi sao, Bác ơi! Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời (Tố Hữu) b.                                                     Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến) Bài 3: Phân biệt nghĩa của các từ trong nhóm sau a. Nhanh trí, nhanh nhẹn, nhanh nhẩu b. Thông minh, khôn, sáng suốt 4.3 Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: a. Cho, tặng, biếu: Những từ này chỉ hành động đưa vật nào đó cho người khác một cách chủ động b. Ngã, té, trượt: Chỉ hành động mất thăng bằng, không giữ được ở một vị trí cố định c. Uống, tu, nốc: Chỉ hành động đưa chất lỏng vào miệng để uống nhưng ở mức độ khác nhau Bài 2: Hai từ đi, thôi đều chỉ về cái chết, mất mát, việc chấm hơi thở Tác dụng sử dụng hai từ ấy có ý nghĩa nói giảm, nói tránh những mất mát đau thương Bài 3: a. Nhanh trí chỉ khả năng suy nghĩ của một người thường có ý tưởng nhanh chóng Nhanh nhẹn chỉ thao tác của một người linh loạt, chính xác Nhanh nhẩu được miêu tả về tốc độ, nhanh chóng trong hành động hoặc phản ứng trong tinh huống nào đó Những từ này đều chỉ tốc độ và tính cách con người có phản xạ nhanh trong mọi tình huống b. Thông minh là từ miêu tả chỉ khả năng hiểu nhanh, giải quyết vấn đề nhanh chóng Khôn chỉ trí thông minh sắc bén, khả năng suy nghĩ tốt, đánh giá và giải quyết vấn đề hiệu quả Sáng suốt là khả năng nhận thức, suy đoán đánh giá tình huống một cách chính xác.Những từ này đều liên quan đến trí thông minh, khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/01/2024 0 bình luận

Bài 1. Tìm các từ láy trong đoạn thơ sau: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh  (Tố Hữu) Bài 2. Đâu là từ láy, đâu là từ ghép trong những từ sau: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, thăm thẳm, mù mịt, náo nức, lênh khênh, tỉ mỉ, trong trắng. Bài 3. Sắp xếp các từ láy sau vào ba nhóm khác nhau, đặt tên cho mỗi nhóm: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ, lao xao, bâng khuâng, bồn chồn, háo hức, rì rầm, tí tách, ríu rít Bài 4. Điền thêm các tiếng vào các tiếng dưới đây để tạo thành từ ghép chính phụ: Xe..., máy…., bàn…., áo..., bút…. Bài 5.  Tìm các từ láy trong đoạn văn sau.             Những con đường ngút ngàn xa thẳm bỗng như dài ra, tự dãn ra làm ngại ngùng  những bước chân rong ruổi. Mong sao có những bóng da bóng bàng, những mái quán nghiêng nghiêng bên bờ cỏ ấy, để bước chân dặm trường ghé vào uống bát nước chè xanh, ăn món bánh đúc riêu cua đầy vị quê hương đang chìm lấp. Hình như nhạc sĩ ve sầu không thích đậu vào cây lúa. Có khi là phải có những chiếc lá xanh to bản bắt nhịp thì nhạc ve mới thành giai điệu du dương? Những dòng sông đào xinh xinh nhỏ bé, những mặt ao đầy bèo tấm, bèo ong là nỗi khát khao thèm thuồng của bao hành khách ngồi bó gối trong xe trên đường ngắn đường dài vun vút gần xa.   1.3 Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: Loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh Bài 2: Từ láy; loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, lênh khênh, Từ ghép: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, trong trắng, tỉ mỉ, thăm thẳm, náo nức, mù mịt Bài 3: Để phân nhóm đúng cần hiểu kỹ ý nghĩa của từ láy Nhóm 1: Gợi tả âm thanh: lao xao, rì rầm, tí tách, ríu rít Nhóm 2; Gợi tả dáng vẻ, hình dáng: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ Nhóm 3: Gợi tả tâm trạng: bồn chồn, háo hức, bâng khuâng Bài 5: 1 ngại ngùng, 2 rong ruổi, 3 nghiêng nghiêng, 4 xinh xinh, 5 khát khao, 6 vun vút

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 06/01/2024 0 bình luận

Phương pháp làm bài đọc hiểu Yêu cầu của phần đọc hiểu phải đảm bảo được mức độ: Nhận biết- Thông hiểu-Vận dụng a. Nhận biết: Các câu hỏi được lấy từ văn bản với những yêu cầu thường đi kèm cụm từ “nêu ra, chỉ ra, xác định đối với các nội dung + Nêu phương thức biểu đạt + Nêu nội dung đoạn trích +  Nêu thể loại văn bản + Nếu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác… + Xác định kiểu câu + Xác định từ loại, cụm từ, biện pháp tu từ + Xác định phương thức biểu đạt + Xác định, giải thích nội dung của câu thơ, đoạn thơ + Xác dịnh nhân vật và phân tích đặc điểm của nhân vật + Xác định thông tin được thể hiện, phẩn ánh trực tiếp trong văn bản + Chỉ ra tính liên kết của đoạn văn + Chỉ ra điểm chung và điểm khác biệt về nội dungg b. Thông hiểu: Các yêu cầu thường đi kèm cụm từ: “Vì sao, tại sao, lý giải, giải thích…” như: + Giải thích ý nghĩa nhan đề + Giải thích cụm từ… + Rút ra bài học hoặc thông điệp có ý nghĩaa… c. Vận dụng: Đây là phần yêu cầu có sự tư duy và tính sáng tạo, học sinh phải biết vận dụng những kiến thức từ đoạn trích, ngữ liệu để giải thích các vấn đề và biết nêu lên quan điểm bản thân. Các yêu cầu thường đi kèm cụm từ: “Cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá…”

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 06/01/2024 0 bình luận

Cách Làm bài đọc hiểu văn bản 1. Văn bản văn học - Đặc điểm ngôn từ: Ngôn từ trong văn bản mang tính nghệ thuật và thẩm mỹ để làm bài thêm sống động, cuốn hút và giàu hình tượng. - Đặc điểm về hình tượng: Hình tượng trong văn học là biểu tượng đời sống, hàm chứa ý nghĩa khái quát do tác giả gửi gắm mà người đọc cần phải nhận ra. - Đặc điểm về ý nghĩa; Nó là ý nghĩa trong văn bản, thể hiện hiện thực đời sống được nhà văn nắm bắt và gợi lên qua hình tượng. Ý nghĩa của văn bản văn học còn thể hiện qua nhân vật, sự kiện và những chi tiết mà tác giả sử dụng ngôn từ tạo nên. Những ý nghĩa đó được chia thành các lớp; đề tài, chủ đề, cảm hứng, tính thẩm mỹ, triết lý nhân sinh. - Đặc điểm về phong cách sáng tạo của nhà văn: Mỗi văn bản văn học ra đời đều mang dấu ấn riêng của tác giả, chính những phong cách đó làm cho văn bản văn học hêm phong phú, mới mẻ. => Vì vậy khi đọc hiểu văn bản cần bám sát vào đặc điểm của thể loại, ngôn từ để tìm hiểu hình tượng nghệ thuật mà tác giả khắc họa để hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của văn bản. Đồng thời phải so sánh văn bản này với văn bản khác cùng đề tài để thấy được sự độc đáo, mới lạ của nhà văn. 2.Văn bản Nhật dụng Văn bản nhật dụng là văn bản có tính thời sự, quan trọng, bức thiết đối với cuộc sống hàng ngày của con người, của xã hội như; môi trường, dân số, chiến tranh, ứng dụng công nghệ…các văn bản nhật dụng rất đa dạng về đề tài và thể loại. Vì vậy khi đọc hiểu văn bản nhật dụng cần xác định được chủ đề của văn bản, cách thức triển khai để nâng cao ý thức, trách nhiệm bản thân với các vấn đề đời sống xã hội.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 05/12/2023 0 bình luận

Tóm tắt tâm lí  nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc Nhân vật ông Hai trong bài văn thể hiện một tâm trạng đau đớn, uất ức và xấu hổ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Mô hình phân tích nhân vật dưới đây giúp đi sâu vào tâm trạng và suy nghĩ của ông Hai trong hoàn cảnh khó khăn này. Tâm trạng sững sờ và xấu hổ Ông Hai trải qua một biến cố lớn từ niềm vui và niềm tin cao quý đột nhiên chuyển thành sự sững sờ, xấu hổ khi nghe làng theo giặc. Tâm trạng của ông lão được miêu tả qua cảm xúc đau lòng, "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân." Điều này thể hiện sự gián đoạn đau đớn, như một cú sốc tinh thần. Mất niềm tin và uất ức Ông Hai trải qua sự mất mát lớn không chỉ về niềm tự hào của làng mà còn về hạnh phúc cá nhân. Niềm tin, niềm tự hào về làng đột ngột sụp đổ khi ông phải đối mặt với sự thật đau lòng. Sự uất ức và hụt hẫng đẩy ông vào tâm trạng tuyệt vọng. Nỗi ám ảnh và tình trạng bế tắc Tin đồn và nghi ngờ làm ông Hai trở nên ám ảnh. Ông sống trong sự bế tắc, không biết phải làm gì và không có hướng đi rõ ràng. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài nhưng cảm giác lo lắng và e sợ. Tìm kiếm sự yên bình và quyết đinh khó khăn Ông Hai tìm kiếm sự yên bình và tránh xa khỏi ánh sáng công bố làng. Cuộc sống bình yên của ông bị đảo lộn, và ông trở nên như một người bị tống giam trong chính ngôi nhà của mình, không dám đối diện với thế giới bên ngoài. Lựa chọn giữa ở lại và về quê âm trạng khó khăn và đau đớn của ông được thể hiện qua quá trình ông phải đối mặt với quyết định khó khăn giữa ở lại và về quê. Ông Hai, mặc dù đau khổ, nhưng cuối cùng quyết định ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh và kháng chiến, đặt niềm tin của mình vào sự giải phóng và độc lập của đất nước. Tâm hồn thủy chung và sâu sắc Cuộc trò chuyện của ông với con trai thể hiện lòng thủy chung sâu sắc với làng Chợ Dầu và tình yêu với quê hương. Dù đau đớn, ông vẫn giữ vững niềm tin vào kháng chiến và lòng yêu nước, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam. Trong tất cả, nhân vật ông Hai trong bối cảnh khó khăn này đặt ra những thách thức lớn về tâm trạng và quyết định, nhưng cũng thể hiện sự mạnh mẽ và lòng thủy chung của một người nông dân Việt Nam trước thách thức phải đối mặt.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 30/11/2023 0 bình luận

Đề bài; Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân”. Trình bày quan điểm của anh/chị về vấn đề trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một triết lý quan trọng: "Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân." Ý chí và nghị lực đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của cá nhân và xã hội. Ý chí là khả năng quyết tâm, chấp nhận thách thức và không ngừng cố gắng để đạt được mục tiêu. Nó không chỉ là sức mạnh cá nhân mà còn là động lực lớn để thay đổi xã hội. Người có ý chí mạnh mẽ thường có tầm nhìn xa, dám đối mặt với khó khăn và không bao giờ từ bỏ trước thử thách.Nghị lực là nguồn động viên, là sức mạnh bên trong giúp con người vượt qua mọi khó khăn. Đó là niềm tin vững chắc và lòng quyết tâm không lùi bước trước những khó khăn. Người có nghị lực mạnh mẽ thường có khả năng phục hồi sau thất bại, tự tin đối mặt với những thách thức lớn. Người có nghị lực sẽ thể hiện sự kiên nhẫn và bền bỉ trong việc đối mặt với những khó khăn, thử thách. Họ không dễ bị làm chán nản hay từ bỏ trước những khó khăn. Nghị lực thường đi kèm với lòng tự tin và tinh thần lạc quan. Những người có nghị lực sẽ nhìn nhận vấn đề từ góc độ tích cực, tìm kiếm giải pháp thay vì chìm đắm trong sự tiêu cực.Nghị lực không phải là việc tránh xa thất bại mà là khả năng đối mặt và học từ thất bại. Những người có nghị lực sẽ sử dụng mọi thất bại như là bước đệm để tiến lên. Trong xã hội ngày nay, ý chí và nghị lực đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một tương lai tốt đẹp. Những người trẻ hiểu rõ giá trị của ý chí và nghị lực sẽ trở thành những nhà lãnh đạo, những người định hình và đưa đất nước phát triển. Chúng ta có thể thấy rõ sức mạnh của ý chí và nghị lực trong những tấm gương như Chủ tịch Hồ Chí Minh hay Stephen Hawking. Họ đã vượt qua mọi khó khăn, từ những hoàn cảnh khó khăn nhất để trở thành những người nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Vì vậy, chúng ta cần khuyến khích và phát triển ý chí, nghị lực ở mỗi cá nhân và đặt chúng vào vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục. Bằng cách này, chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội mạnh mẽ, đầy năng lượng tích cực và có tương lai tươi sáng.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 23/11/2023 0 bình luận

Viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ bàn về Bản lĩnh.  Bản lĩnh, khía cạnh tinh thần quan trọng nhất của con người, đóng vai trò to lớn trong việc định hình cuộc sống và đạt đến thành công. Bản lĩnh không chỉ là sự kiên trì và gan dạ để đương đầu với khó khăn, mà còn là khả năng tự lập và quyết định đúng đắn đối với những tình huống phức tạp. Điều này mang lại cho mỗi người một tinh thần độc lập, không dễ dàng biến đổi dưới áp lực bên ngoài. Trong cuộc sống, một con người bản lĩnh không ngần ngại đối mặt với những thử thách khó khăn và không bao giờ từ bỏ trách nhiệm cá nhân. Họ dám nghĩ, dám làm, và từ đó, họ xây dựng lên cho mình một tâm hồn bất khuất, kiên định trước mọi khó khăn. Bản lĩnh giúp họ vượt qua những gian khó, đưa họ đến những đỉnh cao không tưởng. Oprah Winfrey là một minh chứng sống cho sức mạnh của bản lĩnh. Từ môi trường khó khăn, bị xã hội đặt đánh giá thấp, bà đã kiên cường vượt qua mọi khó khăn, từng bước trở thành một tỉ phú và nguồn cảm hứng cho hàng triệu người. Tuy nhiên, đối diện với sự hiện diện của những người thiếu bản lĩnh trong xã hội, người ta thấy rõ sự ngần ngại trước khó khăn, sự ngại khổ và xu hướng đổ lỗi cho số phận. Những người này thường không dám đối mặt với thách thức, và do đó, không thể vươn tới ngưỡng cửa thành công. Vì vậy, mỗi cá nhân cần hiểu rõ giá trị của bản lĩnh và hướng tới việc xây dựng một tâm hồn mạnh mẽ thông qua việc không ngừng trau dồi tri thức, kỹ năng sống, và phát triển nhân cách. Quan trọng hơn cả, đừng lẫn lộn bản lĩnh với sự tự phụ hay bảo thủ. Bản lĩnh là sự hợp nhất của kinh nghiệm, trí tuệ, và đam mê, không phải là sự tự mãn hay đánh mất khả năng học hỏi. Nói một cách đơn giản, bản lĩnh giúp con người tự tin, độc lập, và kiên định trước mọi khó khăn, từ đó tạo nên những cá nhân tích cực đóng góp cho xã hội và xây dựng một cộng đồng mạnh mẽ.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 17/10/2023 0 bình luận

Nêu cảm hứng bao trùm và mạch cảm xúc của bài thơ Viếng Lăng Bác *Cảm hứng bao trùm Bài thờ là niềm xúc động thiêng liêng và thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót thương của nhà thơ khi lần đầu ra thăm Lăng Bác. Cảm hứng đó đã bao trùm toàn bộ bài thơ với giọng điệu thành kính, nghiêm trang phù hợp với không khí thiêng liêng ở Lăng Bác. *Mạch cảm xúc: -Theo trình tự không gian và thờii gian. Cảm xúc đầu tiên chi phối tác giả là khung cảnh xung quanh lăng Bác (nhìn từ xa), ấn tượng nhất là hàng tre bát ngát trong sương. -Tiếp theo là cảnh trước lăng Bác và đoàn người nối nhau như bất tận, ngày ngày vào viếng lăng Bác. -Cảm xúc khi vào lăng, di hài của Bác gợi những hình ảnh đẹp mang ý nghĩa biểu trưng; mặt trời, trời xanh. - Cuối cùng là cảm xúc khi sắp phải rời xa Bác trở về miền Nam =>Mạch cảm xúc đã tạo nên bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc và hơp lí.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 17/10/2023 0 bình luận

 Cảm nhận của em về hình ảnh người mẹ Tà- ôi trong bài thơ khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm  Đề bài mang ý nghĩa thâu tóm toàn bộ kiến thức đã học trong toàn bài, đề theo hướng mở đòi hỏi người viết biết cảm nhận khái quát và bám vào chủ đề, nội dung, tư tưởng của bài thơ.  Hình ảnh người mẹ Tà- ôi qua những ý sau Mở bài: Giỡi thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và hình ảnh người mẹ Tà- ôi Thân bài: Hình ảnh người mẹ Tà- ôi qua những ý sau: a. Ngay từ nhan đề nhà thơ đã chuyển đến người đọc âm điệu của bài thơ khúc hát ru của người mẹ Tà- ôi           Tiết tấu, giai thoại của bài thơ được điệp lại ba lần,cả ba lần đều được mở đầu bằng hai câu: “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơii/ Em ngủ cho ngoann đừng rời lưng mẹ” như một lời gọi, lời dặn dò trìu mến, tha thiết với em cu Tai và kết thúc trực tiếp bằng lời của mẹ: Ngủ ngoan a- Kay ơi, ngủ ngoan a -kay hỡi Ở mỗi lời ru trực tiếp này, nhịp thơ được ngắt đều đặn đã tạo nên âm điệu bài bài hát, lời ru dìu dắt vấn vương của người mẹ ngày một thêm tha thiết, sâu nặng. Tình cảm tha thiết đó không chỉ với đứa con mà còn với quê hương, đất nước. b. Hình ảnh người mẹ Tà - ôi gắn liền với công việc qua các hoàn cảnh cụ thể: người mẹ địu con làm côngg việc của người dân chiến khu -việc nhà, việc nước, việc kháng chiến. - Ở lời ru thứ nhất, mẹ địu con giã gạo góp phần nuôii bộ đội kháng chiến: Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ độii Nhịp chày nghiêng, giấy ngủ em nghiêngg Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổii Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gốii Lưng đưa nôi và tim hát thành lờii, + Công việc vất vả, nhưng tình yêu mẹ dành cho con thì vô cùngg sâu sắc + Hai mẹ con cùng chung một nhịp - nhịp chày giã gạo, nhịp lao độngg của mẹ. + Tấm thân của mẹ dành trọn cho con: đôi vai gầy làm gối, tấm lưngg làm nôi đưa và tim hát thành lời ru. - Trong lời hát ru của bà mẹ bao giờ cũng gửi gắm hoàn cảnhh, tâm trạng và ước mong vào đó. Và lời hát ru của người mẹ Tà- ôi cất lên từ trong trái tim sâu thẳm của mìnhh. Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a- kay hỡii Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ độii Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngầnn Mai sau con lớn vung chày lún sân… Cả đoạn thơ là lời ru, lời yêu thương của mẹ dành cho con, dành cho bộ đội. Con ngủ ngoan để mơ cho mẹ những hạt gạo trắng ngần, những hạt gạo đó nuôi bộ bộ nuôi con lớn khôn để giúp mẹ làm công việc ý nghĩa đó “vung chày lún sân” - Lời ru thứ hai, là hình ảnhh người mẹ địu con tỉa bắp trên núi Ka-lưi, mẹ đang làm công việc lao động sản xuấtt của người dân chiến khu: Mẹ đan g tỉa bắp trên núi Ka- lưi Lưng núii thì to mà lưng mẹ thi nhỏ Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏii Mặt trời của bắp thì nằm trênn đồi Mặt trời của mẹ rm nằm trên lưngg. + Hình ảnh tương phản “Lưng núi thì to mà lưngg mẹ nhỏ” làm nổi bật sự gian khổ, chịu đựng của người mẹ giữaa núi rừng mênh mông, nổi bật sự kiên cường, bền bỉ của mẹ trong công việc vất vả, nhọc nhằn. + Sáng tạo hình ảnh ẩn dụ -> diễn tả tình mẹ yêu thươngg con: “Mặt trời của bắp” là hình ảnh thực, là nguồn sángg quý giá nhấtt trong vũ trụ, đem lại sự sống cho muôn vậtt, giúp cho bắp lên đều, hạt mẩy. Giống như mặt trời ấy, em cu Tai là “mặt trời của mẹ” - là lẽ sống, là nguồn hạnh phúcc ấm áp,vừaa gần gũi, vừa thiêng liêng của đời mẹ, góp phần sửa ấm lòng tin yêu và ý chí của mẹ trong cuộc sống. - Với hình ảnh ẩn dụ này, nhà thơ cho thấy con là sự sống, là ánh sáng, là hy vọngg của đời mẹ.Bên cạnh đó ý thơ còn bộc lộ rõ sự yêu thương conn, yêu quê hương đất nước và căm thù giặc Mĩ đến khiến hình ảnh người mẹ càn g kì vĩ và rộng lớn như trái núi to. - Ở đoạn thơ thứ tư, tình thương của người mẹ mở rộng hơn: thương làng đói +Mẹ thương làn g đói nên gửi gắm ước mơ qua con thơ: Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đềuu Mai sau con lớn phát mười Ka- lưi… Mẹ mong con lớn để nối tiếp công việc của mẹ, để phục vụ bộ đội và phát triển đấtt nước. - Lời ru thứ ba là lời ru cuối: Hình ảnh người mẹ địu con tham gia chiến đấu Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừngg Thằng Mĩ đuôẻi ta phải rời con suối Anh trai cầm súng chị gái cầm chôngg Mẹ địu em đi để giành trận cuốii Từ trên lưng mẹ em đến chiến trườngg Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn. Giặc Mĩ càn đến, mẹ phải “đạp rừng”,”chuyển lán” để di chuyển lực lượng; mẹ phải cùng với các anh traii, chị gáii tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ. “Mẹ địu em đi để giành trận cuối”, mẹ xông pha vào chiến trường, mẹ vào tận Trườngg Sơn. Hai chữ “trận cuối” cả một niềm tin vào thắng lợi cuối cùngg. Trong lời ru mẹ gửi gắm tình yêu thương con và tình yêu quê hương, đất nướcc Mẹ thương a- kay, mẹ thươn g đất nướcc Con mơ cho mẹ đượcc thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người tự doo Như vậy, tình yêu thương của mẹ không chỉ là con, là bộ đội là làng mà tinh yêu thương còn phát triển rộng hơn, cao hơn là tình yêuu đất nước. Ước mơ của mẹ cũng lớn đần trong mỗi công việcc. Từ mai sau con lớn vung chày lún sân đến “phát mười Ka- lưi” và giờ đây “được thấy Bác Hồ”, “làm người Tự do”. Điều mẹ ước lớn lên từng ngày tuy giản dị, mộc mạc nhưng nói lên được ước mở của nhiều người và cả dân tộc. -> Qua ba lời ru, qua những hoàn cảnh và công việc cụ thể, người đọc nhận ra tấm lòng người mẹ trên chiến khu. Người mẹ ấy lặng lẽ, bền bỉ, quyết tâm trong công việc kháng chiến, từ công việc lao động sản xuất đến công việc chiến đấu. Người mẹ ấy đằm thắm yêu con, gắn bó với buôn làng, quê hương, cách mạng, khát khao đất nước được độc lập, tự do. => Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc Ta-ôi - người phụ nữ trung hậu, đảm đang, nuôi con thơ mà vẫn góp phần cho thắng lợi chung của cách mạng, của đất nước. Đó là một người phụ nữ lao động nhọc nhằnn mà vẫn luôn có một niềm tin son sắt vào tương lai của dân tộc. Người mẹ ấy chính là biểu tượng đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng chống Mỹ gian khổ mà hào hùngg. Kết bài: Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa thành công bức tượng đài bằngg ngôn ngữ về người mẹ Việt Nam bình dị mà vĩ đại trong cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc. Qua hình tượng người mẹ Tà -ôi, nhà thơ còn thể hiện tình yêu quê hươngg, đất nước, khát vọng tự do giải phóng dân tộc của đồng bào cả nước trong khángg chiến chống Mĩ cứu nước.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 14/10/2023 0 bình luận

Vì sao Thanh Hải đặt tên bài thơ là mùa xuân nho nhỏ? Bài thơ ‘Mùa xuân nho nhỏ”được tác giả sáng tác khi đất nước vừa thống nhất, độc lập được ít năm. Cả nước đang bước vào cuộc sống đầy phấn khởi, tự hào nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Thanh Hải lúc này đang bệnh nặng, sự sống chỉ còn từng ngày nhưng ông vẫn lạc quan mong muốn sống, sống đẹp để cống hiến cho xã hội. Tâm nguyện của tác giả là mong muốn được cống hiến thật nhiền cho đời góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình cho mùa xuân lớn của đất nước. Lấy cảm hứng từ tâm nguyện của mình nên xuyên suốt bài thơ là lòng tha thiết gắn bó với cuộc đời, với thiên nhiên đất nước.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 13/10/2023 0 bình luận

Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy hay nhất Mở bài:  Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng như người bạn tri âm với người tù cộng sản trong bài Ngắm trăng của Hồ Chí Minh. Đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã làm phong phú thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc với con người từ ngàn đời nay. Bài thơ như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian để bộc lộ những tâm sự của tác giả trước sự đổi thay của cuộc sống. Thân bài: Luận điểm 1: Mở đầu bài thơ là tình cảm của con người với ánh trăng trong kí ức Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể  hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại vùng quê, nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la, rộng lớn. Ngay ở những câu thơ đầu tác giả đã nhắc đến vùng không gian quen thuộc như; “đồng, sông, bể” để gợi đến nơi cất giữ bao kỉ niệm của một thời thơ ấu. Cũng chính nơi đó ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng hiền hoàn, dịu mát. Khi vào chiến trường, trăng luôn sát cánh bên người lính, họ cùng nhau ra mặt trận và cùng nhau vượt qua những đau thương, khốc liệt bom đạn của kè thù. Trải qua những tháng ngày gần gũi, thân thiết bên nhau và họ đã trở thành “tri kỉ”. Một người bạn thân thiết, hiểu nhau và sẵn sàng chia sẻ ngọt bùi cùng nhau gắn bó, keo sơn. Con người khi đó sống giản dị, chân thật trong sự hòa hợp với thiên nhiên coi thiên nhiên (vầng trăng) là một phần không thể thiếu của bản thân mình. Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa “Trần trụi, hồn nhiên” là vẻ đẹp bình dị, hiền hòa và vô tư một vẻ đẹp không cần tô son điểm phấn. Hình ảnh so sánh ngang bằng mà tác giả sử dụng đã nhấn mạnh sức quyễn rũ, ngây thơ của ánh trăng. Cái vầng trăng giản dị, mộc mạc ấy chính là những tâm hồn cao đẹp của con người vùng quê, những con người của đồng, của sông và của bể cùng người lính chân chất. Chính vẻ đẹp hồn thiên đó đã khiến nhân vật trữ tình phải thốt lên: “ngỡ không bao giờ quên; cái vầng trăng tình nghĩa”. Câu thơ như một lời cam kết, một lời khẳng định về “tình nghĩa” giữa người và trăng, một mối quan hệ dường như mãi mãi không bao giờ phai nhạt. Trăng vẫn vậy, vẫn một tình cảm thủy chung, tình nghĩa. Thế nhưng, khi con người về thành phố, cuộc sống đã đổi thay thì tình cảm con người cũng thay đổi. Luận điểm 2: “Từ hồi về thành phố” tình cảm con người với trăng đã đổi thay. Từ hồi về thành phố quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường “Thành phố” là không gian trái ngược với núi rừng, nơi đó có “ánh điện, cửa gương” tượng trưng cho một cuộc sống đầy đủ, sung túc và có phần xa hoa của người lính sau khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh.Và rồi, chính cuộc sống sung túc đó đã khiến con người quên đi bạn “tri kỉ” của mình để khi “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường. Tác giả sử dụng phép nhân hóa rất sáng tạo khiến người đọc hình dung vầng trăng trong câu thơ như người đồng chí, đồng đội chất chứa nghĩa tình. Nhận xét -> Nhưng hai tiếng “người dưng” như muốn khắc sâu vào tâm trí người đọc bao đau đớn, xót xa bởi tình cảm keo sơn, thiêng liêng dường như đã chấm hết. Bình luận -> Phải chăng những công việc mưu sinh bộn bề với vật chất nơi phồn hoa đô thị đã khiến con người quên đi giá trị tinh thần, quên đi quá khứ và quay lưng với bạn tri khỉ đã gắn bó với mình suốt một thời thơ ấu? Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói lóa của ánh điện, cửa gương đã làm lu mở ánh sáng dịu mát của vầng trăng- ánh sáng của tình nghĩa? Sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng” trong hiện tại đã diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Nhận xét, đánh giá nghệ thuật -> Giọng thơ như trầm xuống mang nét lạnh lùng, nhức nhối, xót xa để nhấn mạnh một điều bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống đời thường. Liên hê -> Bởi vậy mà trong thơ Tố Hữu lên tiếng hỏi: Thuyền về có nhớ bến chăng?/ bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Luận điểm 3: Khi “đèn điện tắt” cũng là lúc con người nhận ra vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng Thình lình đèn điện tắt phòng buyn- đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn Sự xuất hiện của vầng trăng thật đột ngột và đúng thời điểm mà không ai ngờ tới. Tình huống mất điện thình lình trong đêm khiến con người vốn đã quen với ánh sáng, cửa gương nay không thể chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng hiện đại. “Đèn điện tắt” vừa mang ý nghĩa tả thực là mất đi ánh sáng do con người tạo nên  vừa mang ý nghĩa ẩn dụ đó là diễn tả một biến cố, một khó khăn bất ngờ ập đến với con người. Lúc này con người bỗng phải đối diện với thực tại mù mịt, tăm tối. Trong lúc đèn điện tắt và căn phòng buyn- đinh tối om thì con người có phản xạ  rất nhanh “vội bật tung” cửa sổ để tìm thấy ánh sáng. Hình ảnh vầng trăng tròn đã xuất hiện tình cờ và tự nhiên, đột ngột hiện ra giữa bầu trời trong vắt rồi chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang nhìn trời, nhìn trăng. Tình huống gặp lại trăng tạo bước ngoặt mạnh mẽ trong tình cảm của nhân vật trữ tình, ánh trăng đã đánh thức sự lãng quên của con người mà bấy lâu nay đã phụ tình phụ nghĩa. Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế chủ động, mặt đối mặt, lúc này con người có cảm xúc rưng rưng bộc lộ tâm trạng xúc động, xao xuyến khi gặp lại người bạn tri kỉ của mình. Lời bộc bạch của nhân vật trữ tình lúc này là nước mắt và đôi hàng mi đã ướt, một cảm giác khó nói lên thành lời mà con người muốn gửi đến trăng bởi trăng vẫn một tấm lòng chân thành, thủy chung và đầy bao dung, độ lượng.  Và rồi, quá khứ đã ùa về trong tâm trí như một thước phim quay chậm, quá khứ thân thuộc gắn bó ấy có “đồng”, “sông và bể” với vẻ đẹp nguyên sơ, trong sáng. Những thứ mà con người khi ra thành phố tưởng chừng sẽ không gặp lại. Bình luận ->Với chất thơ mộc mạc cùng ngôn ngữ giản dị và hình ảnh rất thực đoạn thơ như một câu chuyện nhỏ phản ánh thực tại cuộc sống con người trong xã hội, câu chuyện để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ về sự thay đổi trong cuộc sống. Luận điểm 4: Vầng trăng trong khổ thơ cuối như một triết lí nhân văn sâu sắc Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình Hình ảnh “trăng tròn vành vạnh” là hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, vầng trăng viên mãn và tượng trưng cho một quá khứ thuỷ chung son sắt mà vẫn vẹn nguyên không so đo, tính toán mặc cho con người đã đổi thay theo guồng quay của vật chất. Trăng chỉ “im phăng phắc”, trăng không nói gì, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người “giật mình” và bừng tỉnh. Bình luận-> Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” như một sự nhắc nhở và cảnh tỉnh những ai đã vội vàng quên đi cội nguồn, quên đi quá khứ đặc biệt là quá khứ khó khăn mà có người cùng đồng cam cộng khổ. Cái “giật mình” kết thúc bài thơ khiến cho tất cả chúng ta muôn trùng suy ngẫm. Phải chăng đó là cái “giật mình” trước tấm lòng bao dung, độ lượng và sự tình nghĩa của vầng trăng? Hay là cái “giật mình” trước sự vô tình, bạc bẽo của mình trong cách sống? Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương phản chiếu để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ quên trong quá khứ. Nhận xét nghệ thuật ->Cái độc đáo và khác biệt là cả bài thơ chi có duy nhất một dấu chấm ở cuối bài và chỉ viết hoa chữ đầu mỗi khổ. Bài thơ đang chảy theo dòng cảm xúc thời gian và câu chuyện thực tế của nhân vật trữ tình. Kết bài:       Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy tuy không khai thác vẻ đẹp của vầng trăng nhưng ánh trăng trong thơ đã để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc về triết lí sống. Đó là lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho người lính chống Mĩ mà nó còn ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời đại - trong đó có chúng ta về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Vẻ đẹp ấy mới chính là vẻ đẹp trong văn chương vì thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà còn “dạy” ta cách học làm người và những điều nhân văn trong cuộc sống.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 12/10/2023 0 bình luận

Mở bài. Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm Bếp lửa. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Bếp lửa là tác phẩm nổi tiếng của đời thơ Bằng Việt, một trong những bài thơ đi cùng năm tháng với nhiều thế hệ người Việt đặc biệt những ai có thời thơ ấu bên bà như tác giả. Bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm về người bà, về tuổi thơ và tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.  Thân bài. Cần đạt được các nội dung sau: * Mạch cảm xúc và hình ảnh bếp lửa Bài thơ được sáng tác năm 1963 khi Bằng Việt đang du học ở Liên Xô. Bài thơ là lời của tác giả nhớ về bà với những năm tháng thơ ấu đầy kỉ niệm bên bà. Với mạch cảm xúc rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Hình ảnh bà bên bếp lửaa với bao vất vả, gian khó nhưng bà đã dành cho cháu tất cả tình yêu thươn g trìu mến. Nay cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà lớn lao, cao quý của bà. Cuối cùng cháu muốn gửi về bà, về quê hương, đất nước lòng kín h yêu, trân trọng và biết ơn sâu sắc. *Hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh bà Một bếp lửa chờn vờn sương sớmm Một bếp lửa ấp iu nồng đượmm Cháu thương bà biết mấy nắng m ưa. - Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần đã trở thành điệp khúc mở đầu cho bài thơ. Với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” là dấu ấn không bao giờ phai trong tâm trí tác giả. Hình ảnh bếp lửa ấm áp giữa cái lành lạnh của sương sớm, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm” của bà kính yêu. Hơi ấm của ngọn lửa “chờn vờn” quyện hòa với hơi ấm của tình bà khiến đứa cháu xa nhà không thể nguôi ngoai nỗi niềm nhớ bà và xúc động mỗi khi hình ảnh bếp lửa hiện về trong tâm tưởng: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Sự nhớ thương về bà được người cháu bộc lộ trực tiếp và giản dị, đằng sau sự giản dị ấy là tất cả tấm lòng một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn lam lũ của bà. - Từ hình ảnh bếp lửa và người bà tảo tần, lam lũ bỗng làm sống lại cả một thời thơ ấu trong lòng Bằng Việt: Lên bốn tuổi cháu đã que n mùi khói Năm ấy là năm đói mò n đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhè m mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn ca y. - Cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến hơn hai triệu người dân Việt Nam phải chết vì chính sách cai trị man rợ, tàn độc của bọn giặc Nhật, Pháp. (đói mòn đói mỏi) Tuổi thơ của tác giả đã nhuốm bóng đen ghê rợn của nạn đói mà có lẽ cả cuộc đời tác giả không bao giờ quên được. Cảnh nghèo đói đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đầy đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” - Hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khốn khổ, thiếu thốn của gia đình tác giả trong bối cảnh 1945. -Ấn tượng nhất đối với cháu trong những ngày tháng đói khổ là mùi khói bếp của bà- mùi khói hun nhèm mắt cháu, mà “nghĩ lại sống mũi vẫn còn cay”. Cái cay vì khói bếp khi cháu bốn tuổi là cái cay bởi xúc động khi cháu nhớ về người bà kính yêu. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ cho thấy, mùi khói bếp của bà đã làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu. - Nhớ về kỉ niệm là nhớ về bếp lửa “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc, nuôi dưỡng trong vòng tay ấm áp của bà, tám năm ấy khó khăn, vất vả nhưng cháu luôn nhận được sự chở che của bà. Nhớ nhất là hình ảnh bà bên bếp lửa mỗi sớm mỗi chiều: “Nhóm bếp lửa nghĩ thươngg bà khó nhọc”. Một mình bà ở nhà bao gian khó lo toan, bà vừa đảm nhiệm làm cha, vừa làm mẹ vừa làm bà nhưng bà vẫn vững lòng và làm trọn những vai đó cho người cháu bé nhỏ của mình: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Bên bếp lửa bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, truyền thống hiếu học và những đau thương mất mát của  toàn dân tộc. - Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là nơi sưởi ấm trái tim người cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú khi gọi hè: Tiếng tu hú saoo mà tha thiết thế! Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng b à Kêu chi hoài trên những cánh đồng x a? Tiếng chim tu hú trong những câu thơ của Bằng Việt là tiếng chim quen thuộc gợi nhớ về người bà, những năm tháng mà tác giả được sống trong sự yêu thương của bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người cháu trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong về tuổi thơ. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?. Câu hỏi không có câu trả lời đã tạo nên sự xót xa, vắng vẻ, côi cút khi cháu nghĩ về người bà kính yêu của mình. => Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu thương nhớ về những hoài niệm ấm áp mà bà đã dành cho tác giả.    Mặc dù khổ cực, khó khăn bởi bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ “làng bị giặc đốt, cháy tàn cháy lụi” nhưng người bà vẫn vững lòng, kiên cường và dặn dò cháu, lời dặn của bà giản dị thể hiện tấm lòng cao cả, đầy sự hi sinh:   “Bố ở chiến khu, bố cònn việc bố  Mày có viết thư chớ kể này, kể n ọ Cứ bảo nhà vẫn được bìnhh yên” - Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con yên tâm công tác hơn thế bà là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến và góp phần không nhỏ vào cuôc kháng chiến cho cả dân tộc. Tình cảm của bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.       -Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở đoạn trên, tác giả đã chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa luôn ủ sẵn và không bao giờ tắt: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenn Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵnn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳn g… - Bếp lửa trong thơ Bằng Việt không chỉ được nhóm bằng củi, bằng rơm mà còn được nhóm bằng lòng yêu thương “ấp ủ” sức sống mãnh liệt và niềm tin dai dẳng, bất diệt.Ngọn lửa là những kỉ niệm mà thời thơ ấu của cháu quấn quýt bên bà, ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương mà bà dành cho cháu. - Cùng với hình ảnh “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “ sớm- chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống kiên định của bà. Tác giả sử dụng điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động và tự hào. =>Từ hình ảnh bếp lửa đến ngọn lửa với ý nghĩa khái quát, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa- ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ mai sau. * Suy nghĩ của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa - Tảo tần, chịu thương, chịu khó, bà hi sinh cả một đời cho con cho cháu: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm. - Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều kì diệu và thiêng liêng từ ngọn lửa từ bàn tay bà với bao yêu thương trìu mến “ấp iu nồng đượm” đã nuôi lớn cháu đến ngày hôm nay. -Các từ  chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” và từ láy tượng hình “lận đận” cùng hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã cho thấy sự gian nan, vất vả, đức hi sinh và sự chịu thương chịu khó của bà. Tình thương yêu mà tác giả dành cho bà giản dị, chân thành đến từng câu chữ được thật sâu sắc và trìu mến biết bao! -Suốt đời bà luôn chăm sóc, lo lắng cho con cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần để cháu lớn lên. - Điệp từ nhóm được nhắc đi nhắc lại đã gợi nhiều liên tưởng, bà nhóm lên tình yêu thương, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm và nhóm lên những hi vọng, sự ấm áp cho cuộc đời thơ bé của tác giả.                 Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bù i Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuii Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏo Ôi, kì lạ và thiêng liêng – bếp lửaa! Bà đã làm công việc khởi đầu của một ngày: nhóm bếp lửa mỗi sớm mai và bà nhóm lửa cho hôm qua, hôm nay và cả ngày mai; cho con cho cháu và cho tất cả mọi người. Bếp lửa vì thế mà trở nên thiêng liêng, lạ kì! * Nỗi nhớ bà,nhớ quê hương khôn nguôi và da diết - Đứa cháu năm xưa được dưỡng nuôi từ ngọn lửa tảo tần, từ tình thương khoai sắn ngọt bùi của bà nay đã lớn khôn, trưởng thành, chắp cánh bay xa tới những khung trời rộng lớn; Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tà u, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ng ả, Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc n hở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chư a ?   Dù ở đâu, làm gì, bây giờ và mãi mãi mai sau  cháu không thể quên bà và hình ảnh bếp lửa. Ngọn lửa và bà đã sưởi cháu trong cái buốt giá của nước Nga khi cháu xa nhà. “Khói trăm tàu, lửa trăm nhà” sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về quê hương, tổ quốc và quá khứ dù đó là những ngày vất vả, gian lao.       c. Kết bài       Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh người bà bên bếp lửa hồng với dáng bà lặng lẽ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Hình ảnh bếp lửa- ngọn lửa trong bà là biểu tượng cho gia đình, quê hương và đất nước, hình ảnh luôn động viên, tiếp sức cho con cháu trên mọi chặng đường cho dù đó là con đường gian khó nhất. Qua đây, Bằng Việt không chỉ khơi dậy kỉ niệm tuổi thơ cho bất cứ ai được sống trong vòng tay của bà mà còn gửi gắm thông điệp về truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ mai sau.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 11/10/2023 0 bình luận

Cho câu  “Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa”. trong bếp lửa của Bằng Việt. Lấy câu văn trên là câu mở đoạn, em hãy viết tiếp 10-12 câu để hoàn chỉnh đoạn văn theo phương thức tổng - phân - hợp nêu cảm nhận về người bà trong bài thơ. Đoạn văn có sử dụng thành phần cảm thán, gạch chân câu cảm thán đó.  Học sinh cần viết theo dung lượng và yêu cầu của đề bài là đoạn văn, viết theo phương thức tổng phân hợp và có sử dụng câu cảm thán. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ chia ấm áp để đem lại một bầu trời tuổi thơ yên bình cho cháu. Tất cả tình cảm ấy đều là những điều thiêng liêng không ai gọi tên được bao giờ, nó thật cảm đông biết bao!. Ngọn lửa bà trao cho cháu được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trườn g tồn, bất diệt. Nội dung tư tưởng của “Bếp lửa” được thể hiện sâu sắc hơn n hờ những hình ảnh thơ sinh động, giàu sức liên tưởng: “bếp lửa chờn vờ n sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng đượ m”,…cùng với đó là điệp từ “nhóm” đặc biệt được sử dụng ở cuối bài thơ. Nhưng quan trọng hơn tất cả là cảm xúc chân thành và lòng yêu mến vô bờ của nhà thơ đối với người bà kín h yêu của mình. Đọc và cảm nhận tình yêu thương chan chứa tron g bài thơ “Bếp lửa”, chúng ta thấy yêu hơn, trân trọng hơn “ngọn lửa” trong gia đình và những người thân yêu bên cạnh chúng ta.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 11/10/2023 0 bình luận

Ý nghĩa nhan đề bài thơ Bếp lửa Bếp lửa là cái tên mang đề tài của bài thơ, hàm chứa chủ đề tư tưởng trong toàn tác phẩm. Bếp lửa là hình ảnh thực gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, về tuổi thơ của nhân vật trong tác phẩm, ngoài ra bếp lửa còn mang ý nghĩa biểu tượng mang ý nghĩa lớn lao về cội nguồn về người nhóm lửa, giữa lửa và truyền lửa, ngọn lửa của sự ấm áp và niềm tin cho thế hệ mai sau. Đó là lòng kính yêu, biết ơn sâu sắc của người cháu đối với bà với gia đình, quê hương và đất nước

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/10/2023 0 bình luận

Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Huy Cận hay nhất Mở bài:  Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào của ông và mang những nét đẹp riêng. Sau cách mạng thơ của Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống và mang hơi thở của sự phát triển xã hội chủ nghĩa. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông sáng tác ở Quảng Ninh năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ là một bức tranh đẹp đẽ là bản hùng ca ca ngợi người dân lao động khi đất nước chuyển mình.  Thân bài:                Mở đầu bài thơ là khung cảnh vô cùng huy hoàng, tráng lệ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống; Mặt trời xuốn g biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đán h cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùn g gió khơi. Hai câu đầu tác giả khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp và tráng lệ của thiên nhiên. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt mà nó như hòn lửa rực đỏ khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả, vũ trụ bao la như nồng ấm lên và như một ngôi nhà khổng lồ của người dân đánh cá. Biển lúc này được ví như con người biết tắt lửa, cài then, sập cửa. Tác giả đã sử dụng đồng thời ba biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để tô lên vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ và đầy sức sống của biển cả mênh mông chứ không đìu hiu, ảm đạm như lối thơ cổ. Màn đêm như tấm cửa khổng lồ đóng lại để chuẩn bị nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nhưng ở đây thì không, đối với người dân chài  lại là lúc họ ra khơi đánh cá, cất tiếng hát và căng buồm cùng gió, thiên nhiên vũ trụ là phông nền cho con người xuất hiện. Đoàn thuyền đánh cá lạ i ra khơi Câu hát căng buồm cùn g gió khơi.         Đoàn thuyền lại ra khơi theo tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc và hoạt động hàng ngày, thường xuyên của những ngư dân vùng biển. Mỗi chuyến đi là niềm vui sự hào hứng và tràn đầy hy vọng. Họ vui vì ra khơi mang theo câu hát, tiếng hát khỏe khoắn, bay cao, bay xa hòa cùng gió trời, gió biển, thổi căng cánh buồm.Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng của biện pháp ẩn dụ diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế của người dân vùng biển khi ra khơi, chinh phục biển cả.        Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng hát phấn khởi làm nổi bật tâm hồn của con người dân chài, tiếng hát cất lên cầu mong cho những điều may mắn, thuận lợi: “ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồn g sáng, Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Như bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, mỗi khi đi đánh cá là người dân lại mong ước trời yên, biển lặng để có một ngày bội thu thì trong tác phẩm này, tác giả cũng nói lên niềm mong ước ấy để thể hiện tấm lòng hồn hậu của ngư dân chất phác, thật thà nơi vùng biển. Giọng thơ ngọt ngào, trong trẻo ngân dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về người dân lao động của Huy Cận.       Khác với hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng là vũ trụ bao la, rợn ngợp trong “nỗi sầu trăm ngả” thì nay lại hết sức gần gũi, thơ mộng. Tác giả đã nhìn đoàn thuyền như một bộ phận của vũ trụ bao la nơi biển cả: “Thuyền ta lái gió với buồm trăn g Lướt giữa mây cao với biển bằng” Con thuyền vốn nhỏ bé nhưng qua lắng kính của nhà thơ thì thuyền trở nên lớn lao và kì vĩ. Hình ảnh con thuyền được đặt song song và hài hòa với thiên nhiên như gió, trăng, trời, biển. Hơn thế, con thuyền lại lái gió với buồm trăng đang lướt đi trên biển và như bay trên tầng không gian, trên thì có mây cao dưới thì có “biển bằng” mênh mông sông nước. Con thuyền đó đang lướt sóng giữa không gian bao la vô tận của vu trụ để chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Thật ra, đây là cách nói đảo ngược của tác giả, thưc tế là gió lái thuyền và làm cho cánh buồm căng gió còn  ánh trăng chiếu vào cánh buồm nhìn xa  xa như là “buồm trăng”. Những hình đó mà nhà thơ tạo nên qua góc nhìn của mình đã cho người đọc thấy một hinh ảnh về con thuyền đẹp đẽ- vẻ đẹp khỏe khoắn, đầy sức sống là hiện thân cho con người lao động vùng biển Quảng Ninh. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăn g” Giữa bát ngát trăng sao, trời biển con người không hề nhỏ bé, ngược lại họ hiện lên là những con người ngang tầm với thiên nhiên với tư thế của người chiến thắng, họ ra dặm xa dò bụng biển để bủa lưới vây giăng. Họ làm việc bằng sự hăng say và lòng dũng cảm cùng một tâm hồn phơi phới trước sóng nước mênh mông. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái thư giãn, nghỉ ngơi “mặt trời xuống biển”,”sóng đã cài then”,”đêm sập cửa” thì ở đây, người lao động đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Những hình ảnh đó tạo nên một bức tranh giữa con người và thiên nhiên tươi tuyệt dẹp và đầy sức sống.       Ở khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã tô điểm thêm bức tranh thiên nhiên cùng với hình ảnh chân thật nhưng đầy bất ngờ, độc đáo: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê với sự phối hợp màu sắc hài hòa, uyển chuyển như “đen hồng, vàng chóe” đã tạo nên một bức tranh biển đầy sắc màu và ánh sáng. Mỗi loại cá có kiểu dáng, màu sắc khác nhau làm nên sự đa dạng và giàu đẹp của biển cả quê hương. Cái đuôi em quẫy dưới ánh trăng đã làm cảnh biển thêm sống động và rực rỡ lên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống mà không mất đi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, tác giả gọi cá bằng em, một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gũi với ngư dân. Nhìn bầy cá bơi lội với những sắc màu phong phú, đa dạng nhà thơ đã lắng nghe tiếng sóng rì rầm với ánh mắt nhìn về xa. Câu thơ tiếp theo huyền ảo, lung linh: “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long” như đưa người đọc vào thế giới thần tiên trong truyện cổ tích. Bằng nghệ thuật ẩn dụ và nhân hóa tác giả đã biến biển cả bao la như một thực thể sống, tiếng sóng vỗ rì rầm được ví như nhịp thở trong đêm của biển. “Đêm thở, sao lùa” là hình ảnh độc đáo, sáng tạo và mới lạ trong nghệ thuật của Huy Cận. Có thể thể nói, tác giả phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết lên những vần thơ tuyệt bút và thơ mộng đến như vậy.        Với bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng sáng tạo, Huy Cận đã tạo nên những hình ảnh đẹp về vũ trụ bao la khiến công việc lao động nặng nhọc của người dân chài trở thành bài ca đầy niềm vui và sự tự hào. Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăn g cao. Biển cho ta cá như lòn g mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Hành động “gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá nhưng cái hay ở đây là trăng được tác giả nhân hóa như con người tham gia lao động và hòa cùng sóng biển. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Hơn thế tác giả đã so sánh ngang bằng biển như lòng mẹ dể nói lên sự bao dung, độ lượng và sự cần thiết, quan trọng của biển cả đối với người dân chài, đồng thời thể hiện lòng tự hào, lời cám ơn  đối với quê hương nơi đã nuôi ta lớn.       Một đêm trôi qua với tinh thần lao động hào hứng, hăng say thì trên bầu trời sao đã thưa và mờ dần chỉ còn lại cảnh kéo lưới là vẫn đông vui, tấp nập. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, Lưới xếp buồn lên đón nắng hồng” Đây là chi tiết cụ thể về hình ảnh con người lao động hiện lên trong sớm mai thật đẹp, đó là hình ảnh khỏe mạnh, tươi tắn mà người dân làm trong lúc gặt hái được thành quả. “Kéo xoăn tay” là hành động mạnh, dồn hết sức lực để kéo cá từ biển lên với những chùm cá trĩu nặng. Thành quả mà ngư dân thu được là “vẩy bạc, đuôi vàng” trong sớm mai là hình ảnh vừa thực vừa mang nghĩa ẩn dụ, những con cá được ẩn dụ quí giá như vàng, như bạc mà biển cả bao la dành tặng cho người dân. Và rồi những khoang thuyền đầy ắp cá cũng là lúc bình minh vừa chớm nắng hồng, ánh nắng làm cho cảnh biển thêm đẹp và nhiều khởi sắc cho một ngày tươi mới, tràn đầy sức sống. Đọc tiếp : Nhân vật Vũ Nương       Trình tự theo thời gian đã được Huy Cận miêu tả rất tài tình và nhiều đặc sắc, ở khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về với khí thế vui mừng và hoành tráng: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặ m phơi. Ở khổ đầu là câu hát căng buồn cùng gió khơi để đưa thuyền ra biển lớn, còn khổ 5 là tiếng hát gọi cá vào thì ở khổ này vẫn là tiếng hát nhưng đây là tiếng hát trở về với sự bội thu, thắng lợi và sức mạnh bởi họ đã thu được những khoang cá đầy ắp thuyền mà biển cả đã dành tặng. Đoàn thuyền trở về đất liền với tư thế nhanh, gấp gáp “chạy đua cùng mặt trời” tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa và nói quá để diễn tả cuộc đua giữa con người và thiên nhiên, cuộc đua không cân sức nhưng con người đã chiến thắng và đáp chân xuống đất liền khi mặt trời vừa nhô khỏi biển. Một màu của bình minh, màu của sức sống  đã tạo nên một bức tranh biển kì vĩ, bao la nhưng chứa đựng nhiều nét thơ mộng. Ở câu thơ cuối “Mắt cá huy hoàng“ là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cuộc sống tươi mới, nhưng ngày tốt đẹp đang đón chờ ngư dân và con người trong thời kì đất nước chuyển mình. Đó là một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình yên mà tác giả muốn gửi gắm trong câu thơ của mình.      Kết bài:              Qua thơ Huy Cận chúng ta như đươc sống những đêm trăng đẹp trên biển Quảng Ninh cùng ngư dân làng chài. Cảnh đánh cá được miêu tả với cảm hứng lãng mạn cùng sự hăng say và niềm tự hào đã cho chúng ta những bài học về sự hi sinh, đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân. Thật vậy, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay đã để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng độc giả về con người và vũ trụ bao la rộng lớn.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 02/10/2023 0 bình luận

       Đọc và trả lời câu hỏi từ câu a đến d         Không có kính, rồi xe kh ông có đèn        Không có mui xe, thù ng xe có xước       Xe vẫn chạy vì m iền Nam phía trước:       Chỉ cần tron g xe có một trái tim.         Câu hỏi:        a . Hai câu đầu tác giả sử dụng nghệ thuật gì? Nêu tác dụng?         b  Qua hình ảnh chiếc xe trong khổ thơ đã nói lên h iện thực của cuộc kháng chiến chống Mĩ như thế nào?         c. Biện pháp tu từ nào được sử dụng ở câu thơ cuối c ủa khổ thơ? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó?          d.Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phươ ng thức quy nạp nêu cảm nhận về khổ thơ cuối bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".      Hướng dẫn trả lời:  a. Trong hai câu thơ đầu, tác giả sử dụng nghệ thuật điệp ngữ: Không có và liệt kê: không có kính, không có đèn, không có mui xe. Tác dụng: Gợi lên hình ảnh chiếc xe không đầy đủ, thiếu thốn đủ thứ nhằm nhấn mạnh sự biến dạng, hư hỏng nặng nề của những chiếc xe do bom đạn của Mĩ tàn phá. Ngoài ra xét toàn khổ thơ điệp ngữ “không có” còn đối sánh với “có” (một trái tim) giữa sự thiếu thốn khó khăn về điều kiện nhưng tinh thần và ý chí luôn đầy ắp trong tim. b.Hiện thực của chiến tranh lúc bấy giờ rất khốc liệt, dữ dội bom đạm làm cho những chiếc xe của quân đội ta biến dạng không còn nguyên vẹn. Sự khó khăn chồng chất khó khăn nhưng những người lính lái xe vẫn không lùi bước mà vẫn một lòng vì Miền Nam ruôt thịt. c. - Câu thơ cuối sử dụng biện pháp hoán dụ: từ “trái tim” được dùng theo nghĩa chuyển trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn, khó khăn trên xe, trái tim áy là sự lạc quan, yêu đời và tinh thần anh dũng của chiến sĩ lái xe không sự hiểm nguy.       Ngoài ra trái tim còn hiểu theo nghĩa ẩn dụ: trái tim tượng trưng cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. - Trái tim chứa đựng ý chí, bản lĩnh và tinh thần yêu nước tất cả vì miền Nam ruột thịt vì sự thống nhất của dân tộc. - Trái tim trở thành nhãn tự cho toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc. d. Học sinh đạt yêu cầu về dung lượng và hình thức đoạn văn theo phương pháp qui nạp, câu chủ đề nằm ở cuối đoạn - Khổ thơ cuối thể hiện ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường trường Sơn. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thể hiện ý chí kiên cường vì Tổ quốc, đó là sức mạnh  phi thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của đế quốc Mĩ + Biện pháp liệt kê, điệp ngữ được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ác liệt của chiến tranh và sự thiếu thốn, mất mát ngày càng lớn. Mọi thứ trên xe bị bom đạn tàn phá không còn nguyên vẹn nhưng các chiến sĩ vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời - Điều kì diệu và đặc biệt đó là không gì cản trở, làm lùi bước được ý chí của những chiến sĩ  “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”.  Đó chính là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên mọi gian khổ, ác liệt của chiến tranh  và đó còn là sức mạnh của tinh thần yêu nước. - Đối lập với những cái “không có” ở trên là một cái “có”,  đó là sức m ạnh từ trái tim có thể chiến thắng bom đạn kẻ thù. Những chiếc xe vận tải chạy b ằng sức mạnh của trái tim, sức mạnh của ý chí giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. - Trái tim là hình ảnh hoán dụ cũng là hình ảnh ẩn dụ nói vẻ đẹp về tâm hồn và phẩm chất của người lính lái xe. Trái tim nhiệt huyết một lẽ sống cao đẹp: vì miền Nam, vì sự thống nhất đất nước. Hình ảnh những người lính chiến đấu với lý tưởng độc lập, tự do  giải phóng đất nước gắn với chủ nghĩa xã hội đã t hể hiện thế hệ anh hùng, mạnh mẽ, hiên ngang mà thế hệ hôm nay, mai sau còn khắc ghi mãi mãi.        

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 05/09/2023 0 bình luận

Phân tích nhân vật Vũ Nương           Người phụ nữ là đề tài quen thuộc mà nhiều nhà văn, nhà thơ lấy đó làm chủ đề cho mạch cảm xúc của mình, dặc biệt là trong văn học thời trung đại. Hồ Xuân Hương đã thành công với bài thơ “Bánh trôi nước”. Với Nguyễn Dữ thành công  đó là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Qua nhân vật trong tác phẩm ông đã tô cáo, lên án xã hội phong kiến đầy bất công nhất là với những người phụ nữ phẩm hạnh nhưng khổ đau, oan trái. Chuyện người con gái Nam Xương được trích trong truyền kì mạn lục, ghi chép tản mạn những câu chuyện có thật và đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm. Văn bản này có nguồn gốc từ câu chuyện “Vợ chàng Trương” cả hai tác phẩm đều nói về người phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến. Mở đầu tác phẩm đã giới thiệu rất rõ về ngoại hình cũng như phẩm chất của nhân vật Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” đây là câu giới thiệu hàm ẩn mọi tố chất của người phu nữ, công- dung- ngôn-hạnh. Nhưng phẩm chất tốt đẹp bao nhiêu thì lại oan nghiệt bấy nhiêu. Ngay ở đoạn đầu tác giả đã cho ta thấy rất rõ một cuộc hôn nhân bất bình đẳng của nàng. Nàng xuất thân con nhà nghèo nhưng vì Trương Sinh mến dung hạnh nên xin mẹ trăm lạng vàng cưới về. Nhân vật Trương Sinh được tác giả giới thiệu hoàn toàn trái ngược với Vũ Nương, Trương Sinh xuất thân con nhà hào phúng nhưng ít học, tính hay đa nghi và đề phòng vợ quá mức. Chứng tỏ một điều rằng sự bất công về con người trong xã hội càng hiện lên rõ nét. Xét về góc độ khách quan thì một người phụ nữ xinh đẹp,tài giỏi như Vũ Nương thì xứng đáng được một cuộc sống hạnh phúc, viên mãn nhưng ở câu chuyện này thì hoàn toàn khác, nàng không được tự do yêu thương, không được quyền chọn lựa. Trương Sinh lấy nàng về như một hình thức mua bán mà chính Trương Sinh cũng không yêu thương gì nàng mà chỉ lấy nàng vì “mến”.           Mặc dù vậy nhưng Vũ Nương hết lòng yêu thương chồng, biết chồng đa nghi nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình phải thất hòa. Cuộc sống bên chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Nàng bịn rịn tiễn dặn chồng và khoogn mong muốn gì ngoài sự “bình yên” của chồng. Bên cạnh đó nàng còn thấu hiểu nỗi vất vả của chồng sắp phải chịu. Những chi tiết đó đã chứng tỏ nàng là người phụ nữ  vì gia đình “nghi gia nghi thất” phẩm hanh ấy càng được bộc lộ rõ hơn khi ở với mẹ chồng.           Sau khi chàng đi được một tuần thì nàng sinh con, đặt tên là bé Đản. Vì nhớ con trai nên mẹ chồng đã sinh ốm. Lúc này, nàng vừa làm con, vừa làm mẹ, vừa làm cha, một mình nàng gánh vác mọi công việc của gia đình chồng.           Đối với mẹ chồng, Vũ Nương là người con hiếu thảo, ngoan hiền. Trong lúc chồng đi xa, nàng vừa chăm sóc mẹ già đau ốm vừa nuôi con nhỏ. “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật mà lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơi”. Phẩm chất ấy của nàng đã được chính người mẹ chồng đánh giá cao khi bà ở phút lâm chung. Đó là sự đánh giá xác đáng và  khách quan. Khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không chỉ vì trách nhiệm của một nàng dâu mà còn thể hiện tình yêu thương hết lòng đối với chồng ngoài mặt trận. Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật sự yêu mến,trân trọng qua từng hành động,cử chỉ qua đó khắc họa rõ nét phẩm chất người phụ nữ.           Đối với đứa con bé bỏng của mình thì nàng hết mực yêu thương và tìm cách lấp đi cái thiếu thốn phải xa cha mà con mình đã chịu thiệt thòi. Nàng đã lấy “cái bóng” của mình để dỗ dành con, nói với con đó là cha để làm vơi bớt nỗi nhớ chồng và xoa dịu sự thiếu thốn khi vắng cha của bé Đản. Và rồi “cái bóng” đã trở thành người cha trong tâm trí của một đứa trẻ ngây thơ mới 3 tuổi.   Sau ba năm xa cách, khi trở về cứ nghĩ rằng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tai họa ập đến cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây ngô của trẻ con: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi đêm nào cũng đến.., làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ thất tiết. Dù Vũ Nương có hết lời phân trần, có tha thiết giãi bày để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can, biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa mà chỉ một mực nghi oan cho vợ.           Chính chi tiết, và phân đoạn này càng cho chúng ta thất rõ sự vô học của Trương Sinh. Nếu Trương Sinh có học thức thì sẽ không xử lý như vậy. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào tế bào mỗi cá nhân đã dung túng, cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Như vậy một lần nữa cái quyền tự bảo vệ mình và được người khác bảo vệ cũng không có.  Hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Một hành động tưởng chừng như ngu xuẩn nhưng đặt ở vị trí ngày đó, xã hội đó, người chồng đó thì không có cách nào khác là phải tìm đến cái chết.           Chúng ta đặt ra một gỉa thiết; Nếu Vũ Nương không chết thì biết đâu đó chính Trương Sinh cũng hành hạ nàng đến chết, khi này nàng sống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần mà nỗi oan ức không được giãi bày?Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Và rồi, một hôm bé Đản gọi bóng Trương Sinh là cha, lúc này Trương Sinh mới biết mình nghi oan cho vơ. Chàng đã lập đàn giải oan nhưng Vũ Nương chỉ hiện về trong chốc lát rồi biến mất. Qua tác phẩm ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần phải trải qua khó khăn, cực nhọc trong cuộc sống nhưng vẫn vượt lên số phận nhưng càng cố gắng thì sự oan nghiệt càng đến gần, nàng vẫn là nạn nhân của chế độ nam quyền đầy bất công và thối nát. Nàng chính là nạn nhân của xã hội phong kiến cũng là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa.           Qua văn bản này Nguyễn Dữ đã ca ngơi người phụ nữ dung hạnh nhưng đầy bất hạnh.Dồng thời cũng tố cáo, lên án xã hội đầy bất công thời phong kiến, một xã hội bất bình đẳng, chà đạp lên tinh thần và thể xác người phụ nữ. Đọc tác phẩm ta càng thấy ngòi bút sắc bén của tác giả và những giá trị nhân văn sâu sắc mà ông muốn gửi gắm cho bạn đọc.  

Đọc tiếp
zalo

Đăng ký sách

Mật khẩu của bạn được mã hóa. Ngoại trừ bạn, không ai có thể biết được mật khẩu của bạn.

Đăng ký khóa học

messenger
08985 888 22