Lý thuyết Xưng hô trong hội thoại Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất tinh tế, phong phú và giàu sắc thái biểu cảm Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp. (Người nói phải hết sức chú ý) Từ ngữ xưng hô trong Tiếng Việt rất phong phú, có các đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi, chúng ta…) Tiếng Việt còn sử dụng các danh từ chỉ quan hệ họ hàng, ruột thịt (bố, mẹ, anh, chị, cô, dì, ...); các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (sếp, thủ trưởng, bác sĩ, giáo viên, ...); và cả tên riêng để xưng hô Biết lựa chọn từ ngữ xưng hô một cách thích hợp để thể hiện một cách văn hóa, lịch sự. Vi dụ: Chúng ta là những người bạn tốt
Liên kết câu và liên kết đoạn văn Lý thuyết Các câu trong đoạn văn cũng như đoạn văn trong một văn bản phải liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức - Liên kết nội dung bao gồm + Liên kết chủ đề: các câu phải hướng tới chủ đề chung của đoạn văn, các đoạn văn phải hướng tới chủ đề chung của văn bản + Liên kết logic: Các câu, các đoạn văn phải được sắp xếp hợp lý, phù hợp với trình tự triển khai chủ đề của đoạn văn, của văn bản - Liên kết hình thức + Phép lặp từ ngữ: lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước đó Ví dụ: Trời xanh thăm thẳm, biển cũng xanh thăm thẳm như dâng cao, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịtt nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giậ n dữ. (Vũ Tú Nam) + Phép thế: sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước đó Ví dụ: Tên trộm lẻn vào nhà ăn cắp, tôi phát hiện ra, hắn đã chạy. + Phép nối: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước đó Ví dụ: Bác Hồ đã dạy cán bộ phải liêm chính, chí công, vô tư nhưng vẫn có nhiều cán bộ không thực hiện được điều đó. + Phép trái nghĩa, đồng nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước. Ví dụ: “Tôi là cô gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tố n, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dài, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm” (Lê Minh Khuê) Lưu ý: - Liên kết câu và liên kết đoạn cùng sư dụng phương tiện liên kết (phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng…) - Tất cả các phương tiện liên kết phải nằm ở các câu khác nhau, nếu nội tại trong câu thì không phải là phép liên kết - Đối với liên kết đoạn, ngoài việc sử dụng từ ngữ liên kết còn sử dụng câu liên kết. Câu dùng để liên kết gọi là câu nối. Câu nói thường được viết như sau: + Như chúng ta đã biết…sau đây… + Ở trên…phần tiếp theo… + Trên đây…dưới đây… + Trở lên trên…còn phần sau đây
Giải thích nhan đề bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nhan đề bài thơ dài nhưng độc đáo, ấn tượng, viết về đề tài người mẹ. - Khúc hát ru: là một âm hưởng quen thuộc gợi ngọt ngào sâu lắng trong tâm hồn bạn đọc. Khúc hát gợi lên sự dịu êm của tình mẹ. - Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ rất thực (gợi ra hình ảnh những bà mẹ vùng cao các dân tộc thiểu số thường địu con khi lao động hay làm bất cứ việc gì) gợi ý nghĩa sâu xa, lớn lao về sự vĩ đại của người mẹ. Từ đó, ca ngợi người mẹ miền núi nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung, bình dị nhưng vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống chống Mĩ cứu nước.
Chỉ ra những từ láy được sử dụng trong khổ thơ và cho biết tác dụng của các từ láy này trong việc thể hiện mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình? Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng chư là đồng là bể như là sông là rừng... Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình. Các từ láy: rưng rưng, phăng phắc, vành vạnh. - Tác dụng: + “Rưng rưng”: gợi cảm xúc nghẹn ngào, muốn khóc mà không thể khóc, diễn tả tâm trạng con người khi đối diện với trăng. + “Vành vạnh”: gợi tả dáng vẻ tròn đều và đầy đặn, biểu tượng cho sự trọn vẹn, thủy chung quá khứ nghĩa tình của thiên nhiên + “Phăng phắc”: nhấn mạn h trạng thái im lặng đến mức không có một tiếng động dù là nhỏ nhất, gợi liên tưởng đến cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của trăng - người bạn thủy chung, tri kỉ và quá khứ ân tình. - Tác giả: nhìn nhận sự việc sâu sắc, từ câu chuyện riêng nâng lên thành triết lý trong cuộc sống: Chúng ta cần biết trân trọng quá khứ và người cùng bên mình khi gian khổ, khó khăn. Đoạn thơ thuộc hình thức độc thoại nội tâm vì: đây là những lời tâm sự trong lòng tác giả, không đượ c phát ra thành lời - Tác dụng: cho thấy những day dứt, trăn trở của người thi nhân khi đối mặt với vầng trăng. Nhận ra sự bội bạc của mình với quá khứ thủy chung và tình nghĩa.
Hình ảnh trăng trong bài thơ Ánh trăng Hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa như thế nào? Vì sao khổ cuối nhà thơ lại sử dụng ánh trăng chứ không phải vầng trăng? Cách thay đổi hình ảnh trong thơ như vậy còn được bắt gặp trong bài thơ nào? Của ai? - Ý nghĩa của hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa rất sâu sắc: + Là biểu tượng cho thiên nhiên quê hương đất nước hồn nhiên tươi mát và bình yên + Là người bạn (đồng đội, đồng bào) luôn đồng hành chia sẻ khi gian nan, thử thách + Là quá khứ nghĩa tình vẹn nguyê n không thay đổi + Là nhân chứng lịch sử vừa nghiêm khắc nhưng bao dung, độ lượng Khổ cuối sử dụng "ánh trăng" chứ không phải "vầng trăng" để nhấn mạnh vào ánh sáng tỏa ra từ vầng trăng có khả năng soi rọi vào tâm hồn người, khiến con người thức tỉnh... - Cách thay đổi hình ảnh như vậy em còn bắt gặp: Bếp Lửa –Bằng Việt (bếp lửa- ngọn lửa)
Song góc nhớ thương đó không làm cho người lính mềm lòng, nhụt chí mà nó còn thôi thúc, động viên người lính vững chí, cầm chắc tay súng để dành lại tự do cho dân tộc. Tình cảm đồng chí, đồng đội đặc biệt thể hiện ở tinh thần vượt khó, vượt khổ trong những câu thơ tiếp theo: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn ta y. Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, địa hình hiểm trở, cùng với sự thiếu thốn về vật chất. Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính và nghệ thuật sóng đôi đã khắc họa tới từng chi tiết khó khăn, gian khổ, đói rét, bệnh tật hoành hành. Có những người lính đã phải bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc bởi cơn sốt rét hành hạ mà không có một viên thuốc bên mình. Gian khổ là vậy, các anh đói, rét, chân không giày, đầu không mũ, áo phong phanh, quần rách, đêm nằm trên lá khô và chịu những cơn ớn lạnh của núi rừng Việt Bắc. Mặc dù vậy, nhưng các anh vẫn nở nụ cười trong buốt giá, nụ cười như cất lên tiếng ngợi ca tình đồng chí xoa đi cái lạnh giá của mùa đông, cái gian khổ trong kháng chiến chống Pháp. Viết lên những dòng thơ này, Chính Hữu không phải định kể khổ để làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Câu thơ nhẹ nhàng, giản dị, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến nhịp thơ như lắng lại. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự xót xa, cảm thông cho nhau. Chính trong tâm thế đó, những người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay thắm thiết, thân mật, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua sự giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần lời hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai người, khiến họ nở một nụ cười, dù là “buốt giá”. Chính nhà thơ Chính Hữu từng tâm sự: “Tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ sự gắn bó tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhớ lại tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động bồi hồi”. Cuộc chiến đấu trường kỳ, ác liệt, gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, sự đồng cảm giai cấp là nền tảng, là cơ sở duy nhất để tồn tại, tiếp sức cho nhau tiếp tục chiến đấu hướng đến thắng lợi cuối cùng Ba câu thơ tiếp theo cũng là câu kết thúc bài thơ đã khắc họa một bức chân dung của người lính trong đêm canh gác ở rừng. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Hai câu thơ đầu là hình ảnh thực của người lính trên chiến hào truy kích giặc, câu thơ đã thể hiện tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách và gian lao với phông nền “rừng hoang sướng muối” đầy khắc nghiệt của thiên nhiên. Hình ảnh đôi bạn chiến đấu "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" tạo nên tư thế vững chãi nương tựa vào nhau. Song giữa họ còn có người bạn thứ ba đồng hàn h trong những đêm phục kích, đó là trăng. Hình ảnh trăng bát ngát, chông chênh trên nền trời, rồi trăng cứ xuống thấp dần soi sáng tình đồng chí của người lính và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm như thế, vầng trăng đối với người lính như một người bạn tri kỉ. Suốt bài thơ là bút pháp tả thực nhưng đến câu kết hiện thực đã pha chút lãng mạn, thơ mộng giữa cảnh vật và tâm hồn. Tâm hồn người lính không khô khan trước chiến tranh khốc liệt mà vẫn thấy rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên. Vì thế, súng và trăng, thực và mộng, thi sĩ và chiến sĩ đã hòa quyện tạo nên nét đẹp thơ mộng, tạo nên tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng giữa cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” là biểu tưởng cho lửa đạn chiến tranh, cho sự khốc liệt mà con người không muốn nghĩ đến. Còn “trăng” biểu tượng thiên nhiên cho sự hòa bình mà con người luôn khao khát. “Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ độc đáo, bất ngờ và hay nhất là điểm nhấn cho đoạn thơ, là điểm sáng cho toàn bài thơ. Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí của người lính, là biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ trong gian đoạn kháng chiến đầy gian khổ. Kết bài: Hình tượng người lính trong tác phẩm hiện lên qua bài thơ thật giản dị, chân thực và giàu sức biểu cảm. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tự nhiên, bình dị, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên mộc mạc, thi vị, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những câu văn sóng đôi, những hình ảnh biểu trưng, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí, đồng đội. Lịch sử chiến tranh đã đi vào dĩ vãng nhưng bài thơ về tình đồng chí có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai và mãi mãi về sau. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 1
Mở bài: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm - Giới thiệu vấn đề nghị luận Hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp là đề tài được nhiều thi nhân và văn nhân quan tâm. Đó là những anh hùng áo vải, sẵn sàng hi sinh tính mạng cho sự nghiệp của Tổ quốc. Trong những thi nhân đó ta phải kể đến nhà thơ Chính Hữu với tác phẩm nổi tiếng là Đồng Chí. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về đề tài người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc Thân bài: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948 - thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị để giới thiệu về xuất thân của người lính, họ hiện lên là những người có chung hoàn cảnh vất vả, khó khăn. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn que n nhau Chính Hữu tuy không chỉ đích danh, quê quán nơi cư trú từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất xuất thân của người lính, câu thơ cũng giống như lời giãi bày tâm sự. Họ là những người đến từ mọi miền tổ quốc từ đồng bằng ven biển ngập mặn cho đến vùng trung du miền núi với đất đá khô cằn. Quê hương xa cách nhau mỗi người một nơi nhưng cùng chung một cái nghèo, cái lam lũ, khó nhọc của người dân thời kháng chiến. Những nét tương đồng đó đã khiến họ từ xa lạ đã gắn kết, xích lại gần nhau, họ đã trở thành bạn bè thân thiết và cùng hàng ngũ cách mạng có chung lí tưởng. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” được tác giả sử dụng điệp từ và hoán dụ đã diển tả đầy đủ và trọn vẹn sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ. Hình ảnh “súng bên súng” đã diễn tả những người lính có cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ cách mạng vì sự nghiệp giải phóng cho quê hương, dất nước. Còn hình ảnh “đầu bên đầu” là cách nói hoán dụ tượng trưng cho sự gắn bó, kề vai sát cánh, sống chết có nhau. Khi màn đêm buông xuống cái rét của đêm rừng Việt Bắc đã cho thấy sự sẻ chia, đồng cảm của tình đồng đội, họ cùng đắp một tấm chăn mỏng để xoa đi cái lạnh buốt giá, cái khó khăn, gian khổ của núi rừng. Tấm chăn mỏng đã sưởi ấm tinh bạn, tình đồng chí và họ đã trở thành tri kỉ. Đồng chí! Một câu kết thúc đoạn rất đặc biệt cùng với dấu chấm cảm như một lời khẳng định tình đồng chí thật thiêng liêng và cao quí. Và tất cả sự sẻ chia, đặc biệt ấy là cơ sở cho tình đồng đội, đồng chí của toàn bài thơ, đồng thời nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc. Những câu thơ tiếp theo tác giả đã tiếp tục mở ra những biểu hiện cụ thể và cảm động về tình đồng chí giữa những người lính trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, từ đồng cảnh họ thành đồng cảm. “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Nếu chiến tranh không xảy ra thì họ vẫn là nhũng người nông dân “chân lấm tay bùn” nhưng khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc, họ lên đường theo tiếng gọi của non sông và họ đã trở thành người cách mạng. Ruộng nương, nhà cửa gửi lại hậu phương là những người bạn ở nhà. Hình ảnh “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” gây xúc động đến nao lòng. Nhà trống, không tài sản, xiêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó đến tận cùng của người lính. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người dân quê chất phác vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, mạnh mẽ, dứt khoát vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng ra đường hi sinh cho dân tộc. Họ lên đường vì nghĩa lớn nhưng quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Nói quê hương nhớ người lính là hình ảnh nhân hóa nhưng thực chất là người đi lính nhớ nhà, nhất là gốc đa, giếng nước, mái đình, nơi hò hẹn mỗi mùa trăng về, nơi chứng kiến cuộc chia ly buổi lên đường... những kỉ niệm ấy luôn neo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau, đồng cảm niềm vui, nỗi buồn. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 2
Thơ hiện đại Việt Nam STT Tên văn bản Tác giả Nội dung Nghệ thuật 1 Đồng chí (1948) Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh - 1947, ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về chiến tranh và người lính với ngôn ngữ cô đọng, cảm xúc dồn nén Thể hiện tình đồng chí cao đẹp của những người lính dựa trên cở sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thât tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh. Góp phần tạo nên sức mạnh vè vẻ đẹp tinh thần người cách mạng. Những hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Biện pháp đối ngữ, sóng đôi được sử dụng rất thành công. 2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ của ông thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính Khắc họa nổii bật hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn thời kì chống Mĩ với tinh thần dũng cảm, tư thế hiên ngang và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Hình ảnh độc đáo, giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên. Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ làm giọng thơ sinh động. 3 Đoàn thuyền đánh cá (1958) Huy Cận (1919- 2005) tên là Cù Huy Cận, quê Hà Tĩnh. Ông nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập "Lửa thiêng". Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đạ i Việt Nam Bài thở là bức tranh rộng lớn, tráng lệ về thiên nhiên, vũ trụ và con người lao động trên biển cả. Nhà thơ bộc lộ cảm xúc, niềm vui, niềm tự hào trước cuộc sồng mới Nhiều hình ảnh sáng tạo và có sự liên tưởng, tưởng tượng Âm thanh khỏe khoắn, lạc quan 4 Bếp lửa (1963) Bằng Việt sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất, Hà Tây. Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ Những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành về những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng với gia đình, quê hương, đất nước -Biểu cảm kết hợp với tự sự, miêu tả và bình luận -Giọng điệu tâm tình, thiết tha, chân thành, tự nhiên. -Hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng 5 Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (1971) Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, trong một gia đình trí thức cách mạng, quê xã Thủy An, thành phố Huế. Ông thuộc nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc Tình yêu thương con của người mẹ dân tộc Tà- ôi gắn liền với tinh yêu nước và tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên. -Giọng thơ tha thiết, ngọt ngào, trìu mến Bố cục được đan xe thơ và lời hát ru tạo khúc hát ru tâm tình, sâu lắng 6 Ánh trăng (1978) Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh 1948, quê ở tỉnh Thanh Hóa. Ông là gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thờ i chống Mĩ cứu nước. Lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Nhắc nhở độc giả về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” Giọng điệu tự nhiên, tâm tình, hình ảnh giàu tính biểu cảm 7 Con cò (1962) Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định. Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam ở thế kỷ XX Bài thơ khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru, nhà thơ ca ngợi tinh mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống. Vận dụng ca dao vào bài thơ rất sáng tạo. Câu thơ mang tính cô đúc mang triết lí sâu sắc 8 Mùa xuân nho nhỏ (1980) Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành được góp mùa xuân nho nhỏ cua mình vào mùa xuân lớn của dân tộc Lời thơ trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp giản dị, gợi cảm những so sánh và ẩn dụ sáng tạo. 9 Viếng lăng Bác (1976) Viễn Phương (1928-2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác Giọng thơ trang trọng và tha thiết nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ bình dị và cô đúc. 10 Sang thu (1977) Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Cảm nhận của nhà trước sự chuyển mình của thiên nhiên cuối hạ sang thu Thể thơ năm chữ giàu sắc thái trữ tình, tự sự. Sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ tăng sức gợi cảm cho bài thơ 11 Nói với con (sau 1975) Y Phương (1948-2022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày; quê ở Trùng Khánh, Cao Bằng Bài thơ thể hiện tình cảm ấm cúng gia đình, ca ngợi truyền hống quê hương, dân tộc, gợi nhắc tình cảm gắn bó và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Ngôn ngữ mang sắc thái của người dân tộc vừa cụ thể, giàu hình ảnh, mang tính gợi cảm vừa giàu ý nghĩa sâu xa.
So sánh hình ánh trăng trong câu thơ “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu với hình ảnh trăng trong câu thơ “trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy. - Những nét giống nhau: + Đều là vẻ đẹp của thiên nhiên. + Gắn với hình tượng người lính trong kháng chiến, mang ý nghĩa biể u tượng (ẩn dụ) - Những nét khác nhau: + Hình ảnh “trăng treo” của Chính Hữu gợi mối liên tưởng đến giây phút bình yên nơi và hoang vắng nơi chiến trường, tượng trưng cho hòa bình mà con người đang khao khát trong tương lai; + “Trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy mang biểu trưng cho sự tròn đầy, thủy chung, nghĩa tình và sự bất tiện không bao giờ đổi thay.
Những chuyển biến trong không gian nghệ thuật Mặc dù đã trải qua nhiều sự đổi thay từ thiên nhiên và sự tác động của con người nhưng mọi thứ vẫn giữ nguyên kết cấu. Đường Cây Sồi chính là nơi chứng kiến mọi diễn biến và cuộc sống của con người nơi đây. Trong suốt tác phẩm, sự thay đổi của không gian của Đường Cây Sồi thường đi kèm sự thay đổi trong cuộc sống của các thế hệ tiếp nối. Sự biến đổi trong không gian của Đường Cây Sồi cũng có thể phản ánh sự biến đổi địa lý và môi trường xã hội. Nói cách khác, Đường Cây Sồi là minh chứng lịch sử đã in dấu hàng trăm năm mà không ai có thể thay đổi được. Tóm lại, thi pháp học có thể cung cấp một góc nhìn sâu sắc và đa chiều về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết "Đường Cây Sồi," giúp ta hiểu rõ hơn về sự phát triển của nhân vật và ý nghĩa của câu chuyện. KẾT LUẬN Với tinh thần lí tính mạnh mẽ Trương Vỹ đã hòa mình vào hình tượng văn học và không gian nghệ thuật, vì vậy không gian trong tiểu thuyết của ông mang tính ẩn dụ và biểu trưng đáng để chúng ta nghiền ngẫm. Không gian trong toàn bộ tác phẩm này luôn được mở rộng, không chỉ mở ra chân trời mới cho nhân vật tôi và các nhân vật khác chinh phục, khám phá, phát triển bản thân để thực hiện ước mơ của mình mà còn tạo nên vô vàn bi ẩn cho độc giả suy ngẫm và phán đoán. Theo dõi hành trình khám phá của nhân vật tôi, chúng ta đã hiểu rõ hơn không gian thượng lưu Đường Cây Sồi và những cuộc đời ám ảnh khổ đau mà xuyên suốt trong chuyện đều nhắc đến. Nhưng sự trưởng thành và trải nghiệm của nhân vật tôi đã đánh dấu không gian đa chiều trong nghệ thuật Trương Vỹ. Chính không gian nghệ thuật đa chiều và độc đáo đựợc tái hiện một cách đa dạng đã để lại dấu ấn riêng lòng bạn đọc. Tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” xứng đáng trường tồn theo thời gian. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 1
Đường Cây Sồi- biểu tượng nghệ thuật đặc sắc Các nhân vật có cuộc sống được phản ánh trong không gian phải kể đến là những thanh niên con nhà giàu, ăn chơi trác táng và những thanh niên ngoài thành phố bị lôi kéo vào những cuộc ăn chơi xa đọa đầy tính dục. Bên cạnh những nhân vật này, ta không thể bỏ qua nhân vật Trang Chu, một thanh niên tuấn tú, có học thức và không xa ngã vào tệ nạn xã hội, anh mang trong mình nhân cách của một con người tri thức và thượng lưu mà nhiều cô gái phải say đắm. Nhưng rồi tất cả lại có những bị kịch trong cuộc sống mà đám thanh niên kia đã biết lí do còn Trang Chu lại là một bí ấn. Sâu sắc hơn, Trương Vỹ đã tạo nên một không gian nghệ thuật rất riêng đó là không gian trong tòa lâu đài cổ kính. Không gian này được phân định ranh giới rõ ràng đó là những tên canh cổng to cao và khổng lồ. Phía trong lâu đài là một cuộc sống đầy bí ẩn nơi những kẻ có quyền lực sống xa hoa và hưởng lạc. Ở thời kì trước đó người quyền lực nhất trong lâu đài là con quái vật khổng lồ có nhiều “dị tướng” cũng chính tên “quái vật” đó là biểu tượng của sự bí ẩn và kì lạ tạo nên một không gian đầy huyền bí và ám ảnh. Quái vật hưởng thụ bao nhiêu thì những kẻ hầu người hạ trong lâu đài đó càng đau khổ và bất hạnh bấy nhiêu. Không gian trong tòa lâu đài biểu trưng cho những bí mật và những kí ức đen tối mà những số phận nghèo khổ kia phải gánh chịu. Chính không gian ấy là cả một thế giới huyền bí, nếu như “Đường Cây Sồi” chứa yếu tố huyền bí thì con quái vật chính là một phần của thế giới này. Nó đại diện cho thế lực siêu nhiên hoặc một phần của cuộc phưu lưu chứa đầy sự kì bí. Cũng chính nó là sự hấp dẫn để mọi người và nhân vật tôi khám phá. Sau khi tiêu diệt được tên quái vật- đại diện cho sự dã man và tàn ác cùng sự quyền lực thì thay vào dó lại là những thế lực và quyền lực khác của giới thượng lưu, một cuộc sống bí ẩn mới lại bắt đầu. 200 năm nay, luôn có những nhân vật đặc biệt sống ở Đường Cây Sồi, thế hệ này thay thế thế hệ khác, nhóm người này đuổi nhóm người khác. Nhóm nào cũng sống chết không chịu đi, đến nỗi có lúc không thể không động súng động pháo đuổi họ. Có thể nói, muốn sống ở nơi này thật không dễ dàng, phải trả giá bằng máu. Những trường hợp sống chết đấu đá, được ghi lại quá nhiều trong lịch sử, có thể nói là chất cao đến nóc nhà. Khu Đường cây Sồi dành cho những người hưởng “đặc quyền đặc lợi” và có những nét đặc trưng riêng, chính vì vậy Lão Môn Nhi đã xây dựng, mô phỏng nó ở chỗ khác nhưng không thể mô phỏng được, đó chính là thời gian. Không gian mà tác giả xây dựng thêm nhiều chiều kích mới nhưng vẫn phản ánh lối sống của giới thượng lưu, những người con của gia đình danh giá và quyền lực họ ăn chơi, xa đọa trong chính căn lâu đài với những sự việc “kinh khủng” và “quái dị”. Không gian bí ẩn, hấp dẫn trong tòa lâu đài đã lôi kéo và thu hút được nhiều bạn trẻ nơi khác về tụ hội và hưởng lạc, thỏa mã nhu cầu dục vọng của chính họ. Mặc dù sống trong sự xa hoa và tiện nghi, nhưng có thể họ có cảm giác cô đơn và trống trải trong chính tòa lâu đài. Họ có thể thiếu sự kết nối xã hội thực sự và không cảm thấy hạnh phúc hoặc an yên trong cuộc sống của mình, dù họ có tất cả những tiện nghi và dịch vụ trong tòa lâu đài khang trang đó. Và rồi họ đã mất chính mình đánh mất cơ hội làm lại cuộc đời mà nhân vật điển hình là chàng trai xanh xao bị kết án tử hình và cô gái mắt sâu bị cải tạo 20 năm. Tóm lại, không gian Đường Cây Sồi biểu trưng cho giới thượng lưu và cuộc sống xa hoa của họ nhưng trong chính không gian ấy lại có sự đối lập giữa không gian bên trong và không gian bên ngoài. Không gian đó có sự pha trộn giữa sự xa hoa nhưng đầy áp lực và cô đơn bên trong của tòa lâu đài bí ẩn. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 5
Đường Cây Sồi - không gian xây dựng thế giới nghệ thuật đặc thù Không gian tự nhiên của Đường Cây Sồi là nơi nổi bật nhất, không thể ngờ được nhất trong một thành phố, nó đẹp đến mức khiến người ta nghi hoặc, khiến người ta thắt tim. Khu “kì dị” này đã có từ hơn 200 năm trước, hồi đó thuộc về người nước ngoài, gọi là “tô giới”. Sau đó lại chuyển qua tay vài người khác, địa bàn cũng đã mở rộng gấp đôi nhưng phong cách của quần thể kiến trúc lại không thay đổi nhiều. 200 năm đã qua cây sồi to oai phong lẫm liệt, từ lâu đã không còn nhiều như trước nữa mà đã xen vào không ít những cây khác. Bên trong đường cây sồi là những tòa lâu đài cổ kính, uy nghi , cổng lớn một ngày có 24 giờ vệ binh canh giữ. Bên trong tuần cảnh đi lại ngày đêm, bộ dạng và trang phục của họ ngày đêm thay đổi, có lúc là trang phục màu đen, trên mũ rộng vành còn quấn một vòng khăn trắng, có lúc lại là trang phục màu vàng, trên đầu vai có đính quân hàm, cổ từ vai đến ngực còn có bông lúa. Có giai đoạn đã đổi thành nhân vật quái hơn, tuần cảnh là người phương Tây đen thui một màu, họ mặc áo trắng, đầu quấn vải nhiều lóp như cái đấu gỗ liễu. Không gian ở ngoài lâu đài, Chim nhỏ trên cây cực kỳ nhiều, chúng cũng tìm thấy lạc viên ở đây, kêu lích chính lích chích hát ca, rộn ràng không biết thấy u sầu. Nếu như chúng dừng lại, nơi đây liền trở thành một vùng yến tĩnh. Bất luận là đường nhựa thẳng tắp hay uốn cong thì đều phẳng như một tấm gương đen, xe con đi bên trên đều không phát ra tiếng động. Không dám xả khói cũng không dám phát ra tiếng còi to. Dòng người hỗn loạn, tiếng rao bán hàng ở khu phố khác căn bản không thấy ở nơi này. Không gian này cho thấy, cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người trong khu phố sống cuộc đời hưởng thụ họ không bị xô bồ bởi những bon chen của khu phố chật hẹp ngoài kia. Không gian được sắp xếp hài hòa và tinh tế, từ việc lựa chọn khung cảnh thiên nhiên cho đến việc bố trí các kiến trúc của tòa lâu đài khiến cho không gian trở nên đẹp mắt đến lạ thường, đồng thời cũng chấm phá không gian sống đầy màu sắc của giới thượng lưu. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 4
NỘI DUNG Không gian nghệ thuật Thi pháp học xem xét không gian là hình thức tồn tại quan trọng nhất của tác phẩm nghệ thuật. Tuy rằng nó không tồn tại trong không gian đời sống nhưng nó là môi trường sinh tồn và hiện hữu của nhân vật, chứng kiến những biến chuyển trong cảm nhận, góc nhìn về thế giới – rộng mở hay thu vén, hỗn độn hay trật tự, hạnh phúc – khổ đau, bình an hay bất an. Do đó, thuộc nó trải nghiệm trong việc kiến tạo mô hình thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, dựng nên trong mối quan hệ với cốt truyện, thời gian, không gian, nhân vật, điểm nhìn... Nói cách khác, nhờ hiện diện con người, không gian trở nên sinh động, không chấp nhận một đơn nghĩa duy nhất. Trong tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” tác giả Trương Vỹ sẽ đưa độc giả qua nhiều không gian khác nhau tương ứng với những biểu trưng và xúc cảm khác nhau. Không gian trong tiểu thuyết là không gian rộng lớn, trải dài theo chuyến đi, những cuộc tìm kiếm, những suy tư về quá khứ, hiện tại và hiện thực của nhân vật tôi. Không gian - nơi mà nhân vật tôi sinh sống trước khi tìm thấy Đường Cây Sồi là một vùng quê, vùng nông thôn và thành phố đông đúc hay nói cách khác chính là khu cư dân nghèo khổ và thấp cấp và điều kiện không mấy thuận lợi, nơi ấy còn ồn ào, chó sủa, khói bụi và bùn đất, chua xót và chật hẹp…Chính những điều đó đã khiến nhân vật tôi bước chân trên hành trình tìm kiếm thế giới mới, và rồi anh phát hiện ra nơi tuyệt đẹp và không gian khác với nơi anh đã sống và đi qua, đó chính là “Đường Cây Sồi”. Đường Cây Sồi là một lâu đài giống đồng thoại được người các quốc gia khác nhau bỏ ra 200 năm nối tiếp nhau xây dựng, một kì tích, mỗi gốc cỏ mỗi thân cây đều được tưới bằng máu tươi. Tòa lâu đài không hề được ngăn cách bằng khu phố khác bằng tường bao quanh cao to, mặc dù trước kia có. Có người nói 60, 70 năm trước tức là thời kì đen tối, tường bao quanh ở đây cao đến 3,3 trượng, đỉnh tường còn cắm chi chít mảnh thủy tinh và lưới sắt. Như vậy, ranh giới giữa Đường Cây Sồi nay không còn nhưng nó được đánh dấu chính bằng những tòa lâu đài, tiểu lầu nóc nhọn, đại thụ đen thui thui và bãi cỏ xanh mướt cùng sự uy nghi, vĩ đại trong tòa lâu đài đó. Đường Cây Sồi, bộ phận hạt nhân của nó, luôn giống như một hạt minh châu phát sáng lấp lánh giấu kín không lộ của thành phố này, khiến người ta ngưỡng mộ, khiến người ta sản sinh mộng tưởng. Cái nơi khiến cho cuộc trinh thám của nhân vật góp phần tạo sự vận động, phát triển của toàn bộ không gian trong tiểu thuyết, khám phá bản chất và quy luật của thế giới nghệ thuật đa chiều hơn, qua đó tái hiện thế giới trong tính toàn vẹn, bao quát hơn. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 3
KHÔNG GIAN “ĐƯỜNG CÂY SỒI” TRONG TÁC PHẢM CÙNG TÊN CỦA TRƯƠNG VỸ Tóm tắt: Không gian nghệ thuật là một phạm trù thi pháp học quan trọng. Trong tiểu thuyết Đường Cây Sồi của Trương Vỹ, không gian nghệ thuật khá đặc sắc. Bài viết này sẽ phân tích, diễn giải tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” từ loại hình không gian nghệ thuật. Qua đó, thể hiện tính trải nghiệm của con người suốt hành trình tìm kiếm và suy tư về quá khứ, hiện tại và tương tai.Tất cả không gian đã nói lên giá trị của cõi sống đầy bí ẩn và bão giông mà hầu như ai ai cũng phải trải qua trong cuộc đời. Đồng thời gợi cho người đọc về một không gian tưởng chừng hữu hạn nhưng thực chất nó vô hạn trong mỗi tầng lớp xã hội khi nhắc đến Đường Cây Sồi. Từ khóa: Không gian nghệ thuật, hành trình tìm kiếm, Đường Cây Sồi, Trương Vỹ. MỞ ĐẦU Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Trương Vỹ là nhà văn đương đại Trung Quốc nổi tiếng, Đường Cây Sồi thuộc một trong mười cuốn tiểu thuyết của Trương Vỹ được viết năm 2010. Cuốn tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như Anh, Pháp, Nhật, Đức, Thụy Điển… Tác phẩm Đường Cây Sồi đã xây dựng được những không gian nghệ thuật đặc sắc, trong đó có không gian Đường Cây Sồi. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu không gian Đường Cây Sồi để làm rõ một số vấn đề, không gian như một phương tiện để xây dựng thế giới nghệ thuật, không gian như một biểu trưng gửi gắm quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Một miền đất không bao giờ chỉ tồn tại như một không gian địa lý thông thường như chúng ta thấy nó trên bản đồ, mà nó được phản ánh và khắc họa của nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong mỗi tác phẩm là sản phẩm sáng tạo của người nghệ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Văn học nghệ thuật đã chứng kiến những tiến trình không gian của con người trong suốt chiều dài lịch sử: đến và đi, xa lạ và gần gũi, quê ta và quê người, riêng tư và công cộng, …Hướng tiếp cận không gian như một phạm trù nghệ thuật từ góc độ thi pháp học có thể xem là phương pháp nghiên cứu có nhiều điểm tối ưu, mở ra những kiến giải đa chiều đối với thế giới nghệ thuật đặc biệt với nền Văn học. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một không gian nghệ thuật riêng của mình mang tính đặc thù của phong cách. Nhà văn Trương Vỹ cũng như bao nhiêu nghệ sĩ khác, cũng vẽ cho mình một không gian nghệ thuật riêng bao trọn trong tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” để bóc tách không gian của giới thượng lưu với không gian hoang giã và không gian tâm lí- những ám ảnh số phận. Lấy góc nhìn từ nhân vật tôi- một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp đại học, ông đã mở thêm những con đường mới những không gian bao la, vô tận được soi chiếu qua nhiều vùng đất tương ứng với những cảnh đời khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn “Không gian biểu trưng cho giới thượng lưu- Đường Cây Sồi” để phản tư về cảm thức cũng như sự “kì bí” của những con người nơi đây. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 2
Kết luận “Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi…” – Trịnh Công Sơn Tiếp cận truyện ngắn “Mãi không tới núi” của Nguyễn Việt Hà từ góc độ không gian nghệ thuật, chúng tôi đã nỗ lực diễn giải những lớp trải nghiệm đa chiều, chồng chéo mà điểm hội tụ sau cùng chính là căn-tính-người. Đô thị và rừng núi trở thành xa lạ với những kẻ đánh mất bản dạng trong nỗi cô đơn và phân rã. Với phong cách giễu nhại và tỉnh táo, Nguyễn Việt Hà đã phơi trải trên trang viết những khoảng trống gợi “độ ngân”, những ăm ắp nhân tình để không chỉ về Hà Nội mà còn là tất cả những nơi chốn thuộc về và ta qua. “Mãi không tới núi” và đa phần truyện ngắn của nhà văn đã xây dựng những mô hình thế giới vượt ra khỏi dung lượng thể loại, tiến sâu hơn vào bức tranh rộng lớn để không ngừng nảy nở, sinh sôi bao ngẫm ngợi thế thái. Do vậy, nó vẫn cứ là một không gian mời gọi những thể nghiệm nhiều chiều, dù là diễn giải theo yếu tố không gian hay đi từ các phạm trù nghệ thuật cốt yếu khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Việt Hà; buổi chiều ngồi hát – tập truyện ngắn tinh tuyển và mới nhất; Nhà xuất bản Trẻ; 2016. 2. Trần Đình Sử; Dẫn luận Thi pháp học; NXB Đại học Sư phạm Hà Nội; 2017. 3. Nguyễn Khải; Hà Nội trong mắt tôi: Tập truyện ngắn; NXB Văn hóa thông tin; 2014. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 1
Trải nghiệm loay hoay kiếm tìm không gian Sự thật là, hành trình ấy vẫn đang tiếp diễn mà việc đi vào núi là căn cớ thúc đẩy. Vọng đã hơn một lần loay hoay đi tìm “cách sẽ đi vào núi như thế nào”: “Vọng loay hoay đi tìm”, “Loay hoay mất công rồi cũng chỉ đẩy vào những cánh cửa đã mở sẵn”. Có thật là mất công không thì hẵng vội kết luận, bởi trên chặng khám phá tưởng chỉ làm được một việc quay trở lại xuất phát ban đầu, nhân vật mới “vỡ” ra những phản tỉnh về một “cánh cửa đã mở” khác đã-không-được-bước-vào-trước-đây: ấy là bản thể Vọng với tất cả những khiếm khuyết, chấn thương toang hoác chưa được đắp rịt mà trở nên mưng mủ. Loay hoay cũng là cách đối diện và nỗ lực chữa lành đổ vỡ. Lời nói bên trong của Vọng “Chắc là Vọng đi đúng đường rồi” lẫn hành trình kiếm tìm nhắc nhớ đến truyện ngắn “Làng gần nhất” của Kafka khi nhân vật rốt cuộc không đến được cái làng ngay trước mặt. Cái phi lý của nhân sinh nằm tại những phi lý bám chấp của chính con người, là lực cản trở truy tìm tự do thực sự: “Xa xôi khuất sau nhà thổ chìm trong chịu đựng thường là có nhà thờ hoặc nhà chùa”. Đến cuối cùng, chiếc xe Mercedes chín chỗ cùng những đại diện văn minh vẫn cứ trở đi trở lại, không thể ruồng bỏ hoàn toàn (“thịt và cá hộp”, “tổng giá tiền kèm chữ ký nháy của bà kế toán trưởng răng vẩu mà Vọng rất ghét”, “môbai dang rung những vệt sáng có tín hiệu đến”); đi cùng với đó là núi rừng cứ không ngừng khác đi (“không thấy con suối lần trước Vọng đã lội qua, chỉ lác đác vài trảng cỏ ua úa nửa xanh nửa vàng vì thiếu mưa”) cứ như thể nó đã ở đó và cho dù thế nào cũng sẽ vĩnh viễn không buông tha cho con người. “Nụ cười nhàn nhạt” hay “mêu mếu cười” của anh là sự phản tỉnh cay đắng và đầy giễu nhại về cuộc đời nhiều uẩn khúc mà có lẽ, anh chỉ có thể chấp nhận nó thay vì ngông cuồng chối bỏ. Thay vì đi vào đi ra, bước lên bước xuống, hướng trái hướng phải – lựa chọn mang tính vật lý giờ đây không còn là mối bận tâm quá lớn, nhân vật hơn ai hết hiểu mình cần chọn không gian cho tồn tại căn tính. Vậy, có không gian nào lý tưởng cho tồn tại hay chăng? Ernest Hemingway trong truyện ngắn “Một nơi sạch sẽ và sáng sủa” (A clean and well lighted place, 1933) đã để cho những nhân vật của mình khát khao một nơi chốn có bóng lá, sáng sủa và trật tự ngăn nắp, dù sau cuối, họ hoặc lạc lõng bước ra bóng tối hoặc trở về chiếc giường ngủ trước ba giờ sáng như những kẻ khác. Nhưng còn loay hoay, còn chấp nhận thực tế mình không dễ yên ổn với tồn tại lại chính là mấu chốt thúc đẩy một cuộc đời đáng sống – cuộc đời không rút kiệt vào mục đích “đổi đời”. Để làm người, quan trọng là không dừng lại trên hành trình vươn mình tìm đến và bù đắp phẩm chất người. Nếu có một điểm tựa nào đó cho Vọng hay con người nói chung trên chặng đấu tranh không ngừng ấy thì không gì khác ngoài niềm tin. Ta loay hoay bằng niềm tin vào giá trị cốt lõi, dẫu cho kết cục của tất cả là Hư vô (Na đa). Chẳng phải vì không cần dựa vào Chúa mà trở nên kiêu hãnh, chớ đánh tráo khái niệm với những điều giả ngụy, ta có thể vin vào Chúa trong sự phóng chiếu với phẩm giá chính mình để cứ dần dần khám phá ra được “con đường đi vào núi”. Tin vào bên trong để biết Im lặng: “Khi đi ngang qua hang đá Đức Mẹ, thằng bé cởi balô quì xuống mấy lần cầm đọc Kinh Kính Mừng”. Im lặng để chí ít không đánh mất những “vương vấn dằn vặt” hiện thân cho tính người, “khinh ghét đám đông” nhiều xô bồ tha hóa. Đặc biệt, con mắt vô tư và nguyên ủy, cách ngăn với hàng hàng lớp lớp những đặt định chính là “báu vật” của nơi chốn, của phẩm tính con người – điều mà tận sâu bên trong là khao khát của Vọng: “Khi đi qua cầu Chương Dương buông mắt nhìn sông Hồng ngầu đỏ, Vọng khe khẽ lẩm nhẩm ca từ bài Phôi pha của Trịnh Công Sơn, bài tủ của Vọng lúc uống say ngồi giữa đám cave ở nhà hàng Hương Cảng phố Thi Sách. Vọng mang máng tự biết rằng suốt một trăm năm nay sau Tam Nguyên Yên Đổ thì Vọng hình như là người duy nhất dám treo ấn từ quan”. Trong tác phẩm “Người mẹ”, Grazia Deledda đã để cho nhân vật tự vấn thế này: “Con người có thể sống mà không cần tin được sao?”. Xét cho cùng, ai cũng có quyền tin và được tin, bởi nếu không thế, con người sẽ dần xa lạ với bản ngã như nguyên, khước từ những giải phóng lưu đày vã mãi trốn chạy hèn nhát giữa các không gian. Cái nhìn “đùng đục nhìn Vọng bằng đôi mắt đẫm rượu” của viên trợ lý cùng lời khẳng định “Tại vì tôi không có đức tin” là chỗ đánh dấu cho những rạn vỡ không dừng lại được của anh ta trên mọi bước đường sống. Vọng có thể không cần “quỳ xưng tội” như cái cách trước nay anh vẫn thường nhưng ta hi vọng vào khát vọng được “cô đơn như núi mà hòa nhập vào thiên nhiên” vẫn cứ đeo đẳng cùng nhân vật. Thằng bé vác đồ dẫu “mất dạy” nhưng nó có “đạo” của riêng mình. “Vọng” – tên gọi của nhân vật trải nghiệm – đã hé mở cho lựa chọn hướng vọng về căn tính cốt lõi. Đây hẳn cũng là câu trả lời cho những hoài nghi và bề bộn đời sống. Lần thứ nhất, Vọng nhớ đến “gã họa sĩ trẻ đứng thút thít ở cổng triển lãm tranh nghệ thuật khỏa thân đầu tay của gã khi nhìn người Hà Nội ồn ào rủ nhau đi xem phim khiêu dâm” và hình ảnh ấy một lần nữa trở lại như là biểu trưng cho những khát khao cần được cất tiếng của mình: “Vọng nhớ lại cái cảnh gã họa sĩ trẻ sụt sịt khóc ở cổng triển lãm”. Trước những biến thiên thời cuộc, điều níu giữ cuối cùng chính là nỗ lực nuôi dưỡng tiếng nói bên trong, “độ trong” của bản thể - dẫu khuất lấp và vô hình - như cách mà Nguyễn Khải nói về bà Hiền (“Một người Hà Nội”): “Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng”. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 8
Trải nghiệm chối bỏ trước ngưỡng của những không gian “Vọng vội vã như trôi xuống cầu thang, đi dọc hành lang đi qua thư viện đi qua nhà nguyện và chắc cũng đã đi qua phòng xưng tội. Vọng đóng cửa phòng mình ngửa cả biđông mà tu rượu. Đám thạch sùng xám bám trên tường giương mắt lồi nhìn vọng. Vọng nhớ ra rồi, anh có gặp thằng bé ở phòng lễ tân của trung tâm mátxa Gốc tre xanh…thâm niên rất sành…Chính nó lúc gần sáng đã gọi cô bé nằm cùng phòng với Vọng ra mắng. Có tiếng chuông từ nhà nguyện. Vọng sụp xuống chân giường lỗ chỗ mối, tuyệt vọng xấu hổ lẫn tức giận. Vọng lẩy bẩy siết chặt con dao ăn giắt ở cạnh balô. Hình như Vọng đã đi ra cửa rồi Vọng lại trở vào”. Phân đoạn gần cuối tác phẩm với dày đặc hành động được trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật mở ra một khả năng mới: kẻ đồng hành bội phản vô tình trở thành người dẫn lối theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Vọng buộc phải chấp nhận một sự thật: Anh chẳng thuộc về thành phố và càng không chung sống được nơi rừng núi xa lạ. Anh đứng tại ngưỡng của các không gian, được chúng tôi cấu trúc lại như sau: “hành lang” “thư viện” “nhà nguyện” (tiếng chuông) “phòng xưng tội” “Vọng nhớ ra rồi” “đóng cửa phòng”(“tuyệt vọng xẩu hổ lẫn tức giận”, “lẩy bẩy siết chặt”) Không gian cứu chuộc vô can trước đổ vỡ Bước ngoặt nhận thức Không gian lạc lõng chứng kiến đổ vỡ Lần đầu tiên, Vọng chủ động tiến tới chối bỏ, và ngay lúc “vội vã” nhất lại cũng là khi điềm tĩnh tỉnh táo lựa chọn nhất. Nhân vật chấp nhận lạc lõng nhưng chưa bao giờ anh ta thấm thía tình cảnh xung đột không gian rõ rệt như hiện tại. Có cảm tưởng Vọng như con quay quăng mình từ phía này đến phía khác mà nếu tiếp tục trì hoãn, chắc chắn sẽ còn thê thảm hơn hình ảnh Chúa Giêsu đóng đinh trên cây thập tự. Bao giờ anh mới thôi mắc kẹt, mới thôi “đi ra cửa rồi lại trở vào”? Không có câu trả lời tuyệt đối. Chỉ biết nhân vật thực hiện theo cách: đi vào núi là lựa chọn chủ động đầu tiên và chối bỏ núi là lựa chọn chủ động cuối cùng. Đi từ tin tưởng chờ đợi đến hoài nghi và cuối cùng là chối bỏ. Chúng tôi tiến hành cụ thể mối tương quan giữa không gian cứu chuộc và không gian lạc lõng ở trên thành một cấu trúc nới rộng đường biên khi kết hợp với các tín hiệu trong tác phẩm: - Dẫn lối bằng im lặng (“im lìm không có tiếng đáp”, “không hỏi gầy gò nhìn”, “vẫn không nói gì ken két khép cửa lại”, “suốt dọc hành lang hun hút vắng vào giờ nguyện không thấy một bóng người.”…) - Hứa hẹn cứu chuộc tội lỗi (“chỉnh tề ngồi giữa mịt mù khói thuốc”, “vài tu sĩ có tuổi trầm ngâm quỳ suy niệm”) - Bệ đỡ giải phóng con người (“cái nhìn hiền từ của vị linh mục tóc bạc”, “muốn giãi bày với ông cha già”) Phản tỉnh - Đổ vỡ niềm tin: Chúa không dẫn lối (“Vọng run rẩy đã kêu lên một trong nhiều tên của Đấng thượng đế”, “Tại sao người ta lại phải quì dưới chân Chúa?”, “Tôn giáo rõ ràng là mơ hồ làm cho Vọng vừa không ưa vừa sờ sợ”, “Phòng xưng tội quả thật rất khó tìm.”) - Nhân vật mang tội (cả trong ý thức và vô thức: “vô thức lùi lại một bước suýt nữa anh quỳ sụp xuống mà xưng rằng, lạy cha con là kẻ có tội.”) - Tiếp tục chịu đày ải (“Rất nhiều lần Vọng sâu sắc thấy mình vừa hi sinh vừa cao thượng khi lưỡng lự không kí vào đơn li dị vợ.”) “cứ gõ là cửa mở” – vấn đề không phải là đóng lại hay mở ra. Cũng như tính chất ngưỡng, ta tự hỏi trung gian của tất cả những mắc kẹt là chính con người – họ là ai và trở-thành thế nào sau tất cả? Truyện ngắn để lại những khoảng trống theo cách đối thoại với người đọc, khiến họ buộc phải đối diện với chuyến hành trình tìm kiếm căn tính nhân vật: khởi đầu với “Anh đã đau khổ, đang sám hối và tự mình đi tìm Đạo trong một sự thanh tẩy”, ngập ngừng quãng giữa qua câu hỏi mang sắc thái tự vấn “Cháu có biết tại sao chú vào đây không?” và cuối cùng bơ vơ lạc loài giữa “hoàng hôn chiều bảng lảng của rừng, tuyệt không thấy núi”. Rốt cuộc, Vọng vẫn loay hoay ở ngã ba đường, vẫn bị động với những chỉ dấu của số phận. Nó đánh dấu kết thúc hay chỉ mới bắt đầu một hành trình khác? Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 7
Trải nghiệm lưu đày kí ức về Hà Nội “It’s a trap” – Bẫy đấy. Đến nơi chốn mới, tưởng đầy hứa hẹn về một viễn cảnh giải phóng bản thể của một cư dân bị vây chặt với ràng buộc đô thị, Vọng tiếp tục bị lưu đày. Mạch vận động phát triển của cốt truyện luân phiên tạo ra những khoảng không gian đặt nhân vật vãn hồi về Hà Nội, thậm chí khác với phần trước, những mô tả về Hà Nội trở nê dày đặc hơn. Nói cách khác, ngay khi nhân vật có trải nghiệm nơi núi rừng thì lập tức ký ức anh ta liên tục phóng chiếu đến những-điều-đã-trải nơi thành phố vừa rời bỏ cách đây không lâu. Tâm trí Vọng đã không thể thả lỏng mà ngược lại, níu chấp để sự thuộc về rừng núi là bất khả. Vậy ra, ngoài nhận thức luận về tính chất vật lý, không gian sống còn đậm đặc tính bản thể và rõ ràng không thể bứt lìa hoàn toàn khi con người vắng mặt khỏi nó, vẫn cứ bao bọc, đay đả và thậm chí cầm tù. Khảo sát cốt truyện, chúng tôi nhận thấy có ba tác động đưa đẩy tình trạng bị lưu đày trong cảm thức về Hà Nội của nhân vật, được cụ thể hóa qua mô hình sau đây: Hãy bắt đầu với sự tồn tại có tính xâm lấn của của các vật thể đặc trưng cho văn minh đô thị: “ca ra ô kê”, “mô bai”, “cạc mi ca”, “một cái lều giả gỗ xây bằng bê tông”, “pate Pháp và trứng cá Nga”, “biđông nửa lít bằng inox”. Chúng là hiện thân cho tính tiện nghi, có ích của xã hội hiện đại khi được tạo ra và quay ngược trở lại định hướng cho nhu cầu con người. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Việt Hà đa phần đi từ gốc từ tiếng Anh phiên âm sang tiếng Việt như là cách thức giễu nhại tính sẵn có của đời sống cung cầu – xã hội mà khi sống trong nó, tính chủ động của cư dân bị giảm thiểu đến mức tối đa, đưa họ vào vòng tròn khép kín thuộc về chuỗi lưu thông khổng lồ của nền kinh tế thị trường. Chính người vợ của Vọng hiện lên như một mắt xích thúc đẩy tiến trình ấy bành trướng trên diện rộng: “Vợ Vọng biết tính chồng, cẩn thận phiên nôm tên món bằng tiếng Việt dán giấy dính trên từng nắp hộp”. Con người do đó biến thành con rối của văn minh. Tiếp đến là không gian núi rừng xa lạ được xem như một yếu tố quyết định đến sự ly gián nhân vật với chính nó. Một loạt những đặc tả hiện thân cho không gian tu viện nơi núi rừng: “cái hố xí bệt”, “con thạch sùng màu xám nhạt luẩn quẩn quanh cả bốn bức tường”, “cái khóa gỉ”, “ngai ngái một mùi mốc không hơi người”, thậm chí đến cả “hệ thống điện” cũng đang “trục trặc”, không có sóng kết nối. Chưa hết, núi rừng xa lạ chứng kiến bao lần Vọng phải loay hoay tìm cách thích nghi: “lúng túng xắn quần lội suối”, “Cái im lặng của rừng và núi làm Vọng ghê ghê”, “Vọng đã ở đây sang ngày thứ tư và chật vật lắm vẫn không thể quen”, “Không có mùi của các món xào, chỉ nặng chịch một mùi rau luộc”,.... Anh cũng đã cố gắng bắt chước, mô phỏng những gì mình chứng kiến thuộc về thực hành tu viện: “Vọng nối vào người đi sau cùng”, “Vọng theo mọi người vào bàn vụng về làm dấu rồi cố trang nghiêm nghe tiếng ngân nga đọc kinh”, “Vọng sẽ phải cắn răng chịu đau”,…Nếu ở trên, những cung cấp từ Hà Nội cho Vọng một sự đảm bảo thì ở đây, nơi chốn buộc anh phải tìm cách loay hoay. Cũng ứng xử với tâm thế bị động nhưng rõ ràng có tính bất trắc cao hơn. Nó không buộc chặt để nhân vật trở thành một phần nơi chốn mà thay vào đó, đẩy những kẻ như Vọng và ngoài Vọng bật ra xa hơn. Không thấy đích đã đành, hành trình đi đến nó làm con người trở nên đơn độc. Một Hà Nội mà anh ta đã sống quen xung đột với một vùng núi lần đầu trải nghiệm đã đưa nhân vật trong vô thức liên tục hoài nhớ như một sự an ủi, thậm chí tiến hành thói quen của thành phố: “…vội ngần ngừ làm hai nắp bi đông của mỗi loại mồi vã với hộp thịt bò nấu sốt cay”, làm nhẹ hóa cảm giác khó chịu với “ba lô căng phồng” mà người vợ đã chuẩn bị từ thành phố cho chồng đi xa. Thứ ba, chúng tôi xét đến người đồng hành xuyên suốt hành trình “đi vào núi” của Vọng là thằng bé vác thuê tự nhận mình là “sinh ra ở vùng này nhưng chưa đi đâu xa”. Tuy nhiên đây chính là vai “đánh tráo” không gian lớn nhất trong truyện ngắn, dắt mũi được cả nhân vật và người đọc dù sau rốt, sự tráo giả đã không thể thành công. Nếu Judas khi xưa trong Kinh Thánh là kẻ phản chúa đáng phỉ báng thì thằng bé xa lạ này cũng là kẻ đi kèm có chủ đích (bội phản), từ đánh lừa đến gọi về những ám ảnh thành phố của Vọng. “Thế thì Vọng nhầm” ư? Không, anh đã chẳng sai khi liên tục nhìn – cảm cậu trong sự ngờ ngợ, soi xét. Chuyến đi của Vọng đã từ “không có kế hoạch” theo đinh ninh ban đầu hóa thành bị đưa đẩy và dẫn dắt. Và thế là, muốn quên mà không được phép, anh lần tìm về tội lỗi và sự tha hóa của chính mình. Nhân dạng “bờn bợt một màu đô thị hết hẳn vẻ sơn dã” và cử chỉ của thằng bé – vô tình hoặc cố ý – gợi liên tưởng đến “cô bé Thanh Hóa mười chín tuổi mới làm lễ tân ở văn phòng Vọng chưa đầy nửa năm rụt rè thông báo là mình có bầu”, ứng với đó là hành động gia nhập vào vòng quay buôn bán, tráo đổi thang bậc xã hội của môi sinh mà anh ta thuộc về: “Vọng đẩy dịch cái phong bì dày những tờ một trăm ngàn đồng ra góc bàn, anh khe khẽ cầm cả hai bàn tay cô bé gờn gợn chai áp nhẹ lên má mình”. Trên thực tế, thằng bé với màn diễn trò lố bịch tạo nên từ những dày đặc thói quen thành thị: “lại gần cái chỗ rơi cái điện thoại”; “hổn hển thở tháo hai cái balô ngót nghét chừng năm chục cân, lấy cả hai tay đấm mạnh cửa”; “sành điệu ngửa cổ hất trọn một trăm phần trăm”;…Đi kèm với đó là những phát ngôn đầy bất nhất: “- Chú đừng làm bẩn thế, bãi cứt trâu đấy”; “giọng nó không còn ề à sơn cước mà lanh lảnh ngữ điệu sành sỏi của bọn người đô thị”. Chúng tôi bằng việc bước đầu phân tích cả ba loại tác động trên, đi đến truy xuất về bản chất của kí ức không gian lưu đày như sau: Vọng và thằng bé vác đồ vừa khác lại vừa giống. Họ xa lạ lẫn nhau trong động cơ bắt đầu chuyến hành trình vào núi và vai trò: một kẻ dựa dẫm, một kẻ phụ trợ dẫn dắt. Tuy vậy, cả hai đều đồng lõa trong cảm thức thành phố xa lạ với núi rừng, đều tố cáo kẻ khác và chính mình từ trải nghiệm không gian. Họ cứ thế vùng vẫy trong những cọ xát của bản thể với thế giới. Nơi chốn mà nhân vật trôi dạt đến trở mình qua những xâm lấn, từ đó núi rừng mất đi “độ trong” cần thiết: “Trên đấy chắc chắn không có người bình thường ở, hoặc phải là tiên hoặc phải là yêu quái”. Cái nhìn về núi rạn vỡ với tính can thiệp của mơn trớn đô thị: “Men rượu chầm chậm ngấm và không hiểu sao Vọng thấy dáng núi có những nét gợi dục. Những đường cong thiếu nữ lồ lộ, đã bao lần Vọng vừa uống rượu vừa ngắm”. Con người dù đi đến bất cứ đâu đều luôn luôn vấp phải hình bóng nơi chốn thuộc về. Đó là cơ hội để họ cắm rễ sâu vào thực tại và đồng thời là rào cản lớn đem đến nguy cơ đánh mất chính mình. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 6
Trải nghiệm trôi dạt đến một không gian khác: Núi Truyện ngắn mở đầu với câu trần thuật ngắn gọn, khách quan: “VỌNG ĐI VÀO NÚI”. Sự kiện có tính chất chuyển dời này thông báo một thay đổi tất yếu, đánh dấu sự chủ động của nhân vật. Ngay trong đoạn sau, người đọc đã được cung cấp thông tin về nơi chốn xuất phát của Vọng: “Vọng bỏ Hà Nội”. Bỏ lại đằng sau một miền đất hứa với nhiều cơ hội để tiến về thiên nhiên rừng núi hé lộ những tự sự và căn cớ khác. Tại đây, bối cảnh của tác phẩm khả triển thành hai nửa đối lập, không ngừng luân phiên thay thế trong dòng trần thuật và để dễ bao quát, chúng tôi lập bảng sau đây về những chia tách giữa chúng, khơi lên thực chất mục đích của việc dứt bỏ và kiếm tìm: Không gian rừng núi Không gian Hà Nội Mở ra với con đường mòn và ngã ba đường, chia hai: “cuối đường bên trái” và “cuối đường bên phải”, ứng với “nhà thờ nóc nhà có cây thập tự trong đó có nhiều người mặc áo chùng đen” và “nhà chùa trong đó có ít người hơn, mặc áo gụ thâm.” (Đậm nét trong không gian là dấu ấn tín ngưỡng, tinh thần và tôn giáo) Vắng mặt trong trục đối chiếu “Núi hoang vu và cao”, “ngút ngàn hết tầm mắt” (Không gian rộng mở đưa đến trải nghiệm trực tiếp) “…phòng chật có máy điều hòa, muốn chạm vào thiên nhiên thì đành phải nhìn mưa.” (Không gian kiềm giữ đưa đến trải nghiệm li gián) “…anh đã lội qua một con suối rộng, cũng có thể gọi là sông và anh thanh thoát bước lên đến bờ bên kia”; “Vọng chọn chỗ không cỏ sát bờ suối, cúi xuống trân trọng hôn một ụ đất xanh xám màu ghi đậm, đất âm ẩm ngai ngái một mùi thanh sạch hoang dã rừng già.” (Không gian nâng con người, giúp sức đến đích) Không rõ đích đến ở đâu. “…khi Vọng đến trước cửa gỗ tu viện trời vẫn nhờ nhờ sáng.” (Không gian tỏ rõ) “Chiều của rừng không phải xuống quá nhanh như văn học mà người miền xuôi hay tả.” (Không gian tạo dựng mập mờ và định hình sai khác) “Vọng cố nhớ lại Kinh Lạy Cha mà xưa lắm Vọng cũng đã thuộc.” (Không gian an trú) “Vọng cố muốn quên cái cuộc họp gần đây nhất, không hiểu sao hôm ấy tất cả những người dự đều mặc áo ghi xám.” (Không gian bất an) “Rất nhiều những con thạch sùng màu xám nhạt luẩn quẩn quanh cả bốn bức tường. Lâu lắm rồi Vọng mới ngủ một mình trong khung cảnh kiểu như thế này.” (Không gian khổ ải) “Có một đêm Vọng cũng ngủ một mình giữa rừng sau bữa nhậu ở nhà một phó chủ tịch tỉnh mến khách làm rất nhiều món lạ…Đến gần sáng một cô gái thật trẻ tìm thấy Vọng, khẽ nhúc nhích không sành sỏi lắm cô bé chui vào chăn. Vọng thở dài tự biết khó giữ mình. Chiều tối qua, chủ nhà có giới thiệu, đám sơn nữ là món lạ nhất của bữa tiệc rừng.” (Không gian sung sướng chứng kiến tha hóa) “…trước chuông nhà nguyện chừng mười phút, anh ta nhè nhẹ gõ cửa, rất ngạc nhiên khi thấy Vọng quần áo chỉnh tề ngồi giữa mịt mù khói thuốc.” (Không gian của con chiên ngoan đạo) “Vọng nhấc tấm cạc mi ca đề chức danh của mình ra khỏi tập công văn anh đang kí dở, dưới sâu đám lộn xộn đó là một phong bì phồng căng.” (Không gian của kẻ mang tội) - Không gian tôn giáo với tu viện, phòng khách nhà dòng, gắn với hình tượng Cha bề trên (vai trò dẫn dắt) và Kinh Lạy Cha (giáo lý dẫn lối) - Nhân vật chiêm ngắm, ngưỡng vọng, “nao lòng”, “nghẹn ngào”, “ngây ngất” về một vùng đất chưa biết. - Để đến đích cần trải qua khổ ải. - Không gian đời thực trần trụi, biến loạn, mọi thứ đang rệu rã, gợi đến cảm quan mạt thế. - Nhân vật “kinh sợ”, “mỏi mệt”, tự giễu nhại chính không gian sống: “Nghệ thuật của đám thị dân gần đây hay bị ủng vì mưa.” Xét đến cùng, “VỌNG ĐI VÀO NÚI” như cách trốn chạy tình trạng bất an thuộc về trải nghiệm thành phố. Điều này chi phối đến lượng thông tin trần thuật xoay quanh rừng núi, tu viện chiếm ưu thế hơn trong phần đầu truyện ngắn và tất cả mô tả về Hà Nội chỉ được dựng lại qua hồi tưởng. Một phản tư xuất hiện: Hà Nội trong diễn ngôn thành phố vốn là nơi chốn đại diện cho bản sắc, được gắn nhãn “thủ đô” nhưng rõ ràng đến đây ta có quyền chất vấn: Liệu những định hình trong cộng đồng tưởng tượng đã đủ toàn vẹn và trong suốt? Thành phố không đứng yên, luôn giãn nở không ngừng, là sự hội tụ của nhiều luồng đối cực: thâm trầm – năng động, giải phóng – ràng buộc, khuôn mẫu – nổi loạn. Và như vậy, núi ngoài địa điểm “du lịch để thư giãn khuây khỏa” còn đưa đến triển vọng cứu rỗi tinh thần. Nó phóng chiếu đến hình ảnh của Phật buông bỏ quyền lực, dục vọng vào rừng sâu thực hành giác ngộ. Vọng lại tiếng chuông chùa cô tịch, bắt gặp những điểm tựa giáo lý và đấng dẫn dắt lặp đi lặp lại trong suốt chiều dài thiên truyện như là tín hiệu đầy hứa hẹn. Trôi dạt có lẽ để hội tụ đến đích. Tái trình hiện không gian như một trải nghiệm khác lạ ứng với mong mỏi của Vọng, nhưng liệu đây đã là nơi cần đến? “Sắp đến rồi” – câu khuyến khích của thằng bé vác thuê khi cả hai gần đến cửa tu viện – có phải vậy không? Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 5
Trải nghiệm không gian trong “Mãi không tới núi” (Nguyễn Việt Hà) Dù nhận diện Nguyễn Việt Hà như người kể chuyện thú vị về Hà Nội qua ngồn ngộn những tạp văn, nhà phê bình Trương Quý trong lời giới thiệu tập “buổi chiều ngồi hát” đã không thể không nhấn mạnh đặc điểm truyện ngắn của nhà văn như sau: “Ở đây, Truyện ngắn là cái áo vừa vặn của những nỗi bâng khuâng”. Như Sisyphus, các nhân vật của Nguyễn Việt Hà đè nặng trên vai những bi kịch số phận, luôn phải nhọc nhằn vần đẩy tảng đá lên ngọn núi cao, cứ thế và cứ thế. Cụ thể, họ loay hoay trong chính không gian sống của mình, tạo ra loại hình không gian nhân vật, trải qua những dời chuyển, kéo người đọc cùng nhập cuộc trên hành trình khám phá căn tính. Trong truyện ngắn “Mãi không tới núi”, nhà văn mở ra hai không gian chủ đạo: rừng núi và thành phố (Hà Nội). Chúng trở đi trở lại, không ngừng va đập vào nhau trong cảm nhận và góc nhìn của nhân vật Vọng, khiến thế giới tác phẩm không ngừng được giãn nở. Chúng tôi xin được khái quát hóa quá trình vận động của nhân vật ứng với hai nơi chốn như sau: Từ Hà Nội với văn phòng làm việc, bệnh viện, nhà khách,…; Vọng bỏ vào Núi, lựa chọn giữa ngã ba đường rồi trôi dạt đến một tu viện với các tiểu không gian như căn phòng, nhà ăn, hành lang, nơi xưng tội,…Câu chuyện gợi lại ý niệm về những cuộc chạy trốn đã từng được tiến hành trong văn học – đến đích hoặc không, thỏa mãn hay bất an. Mỗi không gian cho nhân vật chính những trải nghiệm cùng kẻ-khác-mình, bên cạnh các vật thể còn có sự phóng chiếu những kí ức, tâm lý và suy ngẫm. Trên hành trình chuyển dịch ấy, người kể chuyện trao điểm nhìn quan sát cho Vọng, cắt ghép phân cảnh đan xen giữa hiện tại và quá khứ tạo ấn tượng tựa một mê cung “bất đắc dĩ” mà anh ta phải tìm cách hoặc thích nghi hoặc thoát ra. Chúng tôi cho rằng thao tác sơ đồ hóa không gian tác phẩm khó đươc thực hiện tối ưu bởi nó không theo đường thẳng, cũng chẳng tăng tiến đi lên mà cứ “trùng trùng điệp điệp”: mở ra rồi đóng lại, chờ đợi và vỡ lẽ, vừa riêng tư lại vừa như bị dẫn dắt. Qua đây, chúng tôi hi vọng nhận diện được cảm thức nơi chốn, diễn giải cơ chế sống và chọn lựa của nhân vật trên mỗi chặng của mình. Vậy Hà Nội trước sau có phải là một “thủ đô tráng men”, trong suốt và tráng lệ trầm mặc như những định hình thành phố qua văn chương trước đây? Rừng núi tìm về có đưa con người trở lại bản thể thuần hậu như nhiên của mình? Vọng và ta thực sự thuộc về đâu trong kiếp sống ngắn ngủi và nhiều vật lộn? Chính Nguyễn Việt Hà có lần đã chia sẻ về “Mãi không tới núi”: “Thỉnh thoảng, có một vài truyện ngắn rất quan trọng với những người viết tiểu thuyết, đặc biệt là khi nó lại của chính mình. Đại loại, nó tạo ra một sinh lực một khát khao muốn viết dài hơn rộng hơn. Với riêng tôi, Mãi không tới núi là một thứ như vậy”. Và có lẽ, chính việc kết bện các không gian là bước đầu tiên để nhà văn mở ra những chiều kích phong phú cho tác phẩm, thế giới mà nhân vật của ông – từ đầu đến cuối chỉ có một mình - cần đối diện và chấp nhận hơn là chối từ. Những trải nghiệm bắt đầu. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 4