Các nhân vật phụ khác Người nông dân Trong thế giới nghệ thuật kịch của Molière, ống kính sân khấu đã dừng lại ở cảnh diễn ra ở nông thôn, bên bờ biển (hồi II), nơi có những người nông dân nam nữ sinh sống. Molière đã thể hiện sự gần gũi với tầng lớp nhân dân lao động, hiểu được tính cách, tâm lí, thái độ và cách ứng xử của họ trước cuộc đời. Anh chàng Pierrol là chàng nông dân chất phác, mộc mạc. Điều ấy được thể hiện qua cách nói chuyện sỗ sàng, dân dã nhưng thành thực của anh dành cho Charlotte. Không những vậy, anh còn là người giàu lòng tự trọng trước sự quay lưng của Charlotte. Từ việc xưng hô “tớ - cậu” đầy tình tứ ở hồi II, lớp 1 sang lớp 2 đã có sự thay đổi, lời nói thì quả quyết “Dù mày có trả gấp đôi tiền, tao cũng không bao giờ mang đến đâu”. Không chỉ bày tỏ thái độ trước việc người con gái sắp thành vợ mình nay tuyên bố có người chồng khác mà còn là sự bất bình trước việc người nữ nông dân nhẹ dạ nghe theo tầng lớp quý tộc vô liêm sỉ. Dường như, Molière cũng đã gửi gắm khát vọng đổi thay số phận của những người nông dân khi đặt tên cho chàng là Pierrol. Đây vốn là cái tên của viên quận công trong các vở kịch về Don Juan trước đó, trong khi quận công trong vở của Molière không có tên. Người đã cứu mạng Don Juan cũng chính là Pierrol. Vậy mà để trả ơn cho ân nhân, Don Juan không những coi thường mà còn sử dụng bạo lực. Trước thái độ và hành động bỉ ổi của Don Juan, Pierrol đã rất bất bình. Trong vở kịch, đó chỉ là sự bất bình của một người với một người, nhưng thực chất, đó là sự bất bình của cả tầng lớp nhân dân lao động dành cho giai cấp quý tộc tàn ác, xấu xa. Qua nhân vật nam nông dân Pierrol, ta thấy được mầm mống của ý thức phản khảng trước những thế lực gò bó, chà đạp lên quyền sống của con người. Từ những vẻ đẹp trên, Pierrol như điển hình đẹp đẽ của quần chúng lao động với sự nhanh nhẹn và khỏe khoắn. Trong vở kịch của mình, Molière xây dựng những cảnh có sự xuất hiện và đối thoại giữa Don Juan và những người nông dân như để tạo thế đối trọng giữa giai cấp quý tộc và giai cấp nông dân. Mà đó là một trong những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội Pháp thế kỉ XVII. Nhân dân trong tác phẩm không chỉ là những người nông dân lao động mà còn là người đầy tớ như Xganagen. Họ là những người láu lỉnh, thông minh, có tình, có nghĩa. Với những cách ứng xử khác nhau của người nông dân, ta cũng sẽ thấy được thực trạng xã hội đương thời. Don Louis Don Louis là cha của Don Juan, cũng thuộc vào hàng ngũ tầng lớp quý tộc. Ông là một người cha đức hạnh đồng thời là một nhà quý tộc chân chính. Có thể nói, nhân vật Don Louis đại diện cho triết học tự nhiên, cho lý trí chống lại mọi giả tạo đè nén lên con người. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan phần 7
Những người phụ nữ Done Elvire Đầu tác phẩm, Done Elvire hiện lên là một người phụ nữ ngây thơ, hiền lành và cả tin đến mức sẵn sàng bỏ tất cả để đi theo người đàn ông bội bạc. Sau khi bị ruồng bỏ, nàng vẫn cố chấp cho rằng “muôn vàn ảo tưởng nực cười muốn tô vẽ cho chàng là kẻ có tội”. Nàng nhận mình là cao thượng khi hành xử như vậy với một kẻ phản bội. Nàng ấp ủ cuộc trả thù thay vì biểu lộ cơn giận bằng những lời trách móc, thóa mạ. Và rồi, dần dần, Done Elvire không còn yếu đuối như ban đầu nữa, lời nói của nàng càng trở nên khảng khái, quyết liệt dữ dội. Charlotte và Mathurine Hai nhân vật nữ Charlotte và Mathurine mặc dù được khắc họa là những nàng thiếu nữ xinh đẹp nhưng lại nhẹ dạ, ngây thơ đến thảm hại. Vì một tên quý tộc đểu cáng mà hai cô vốn là bạn nay cãi cự nhau. Người nữ nông dân Charlotte được xây dựng rõ nét hơn cả. Trong cuộc đối thoại với Pierrol, Charlotte tỏ ra là một cô gái lạnh lùng, không biết bày tỏ tình cảm, nhưng khi biết đến Don Juan, Charlotte đã thể hiện ngay tâm lí của một người thiếu nữ. Cô mơ mộng khi hỏi chính người chồng sắp cưới của mình rằng“có phải có một anh chàng đẹp giai hơn bọn kia không?”, “dễ thương quá nhỉ”. Điều làm cô nàng quan tâm không phải là một tấm lòng chân thành mà lại là cái đẹp hình thức. Trong cuộc đối thoại với Don Juan, Charlotte không còn lạnh lùng mà trở nên e thẹn, xấu hổ trước những lời ngon ngọt của Don Juan. Sự ngây thơ đã khiến cô dễ bị dụ dỗ đến mức chỉ bằng vài lời hứa hẹn, cô đã trao thân gửi phận cho người ta. Mặc dù vậy, cô vẫn giữ một sự trong sáng, ngay thẳng của người con gái nông thôn chân chất “em là một cô gái quê nghèo khổ, nhưng em lại biết giữ danh dự của mình và thà em chết đi còn hơn là sống mà chịu ô nhục”. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan phần 6
Don Carlos Don Carlos là nhân vật phụ, anh ta cũng thuộc vào tầng lớp quý tộc như Don Juan. Trong Don Juan của Molière, Don Carlos là anh trai của Done Elvire - vợ Don Juan. Don Carlos cùng người anh khác là Don Alonse đi tìm Don Juan để trả thù cho em gái. Don Carlos ở thế thù địch với Don Juan, tạo ra mâu thuẫn, xung đột cho câu chuyện khi hai nhân vật gặp nhau ở tình huống bất ngờ. Molière đã tạo ra một tình huống trớ trêu: Don Carlos vốn có thù với Don Juan nhưng đến hồi III, lớp 3 lại thành kẻ mang ơn cứu mạng. Don Juan đã cứu Don Carlos thoát chết khỏi tay bọn cướp. Điều đáng nói là Don Carlos không hề biết mặt Don Juan. Lúc này, Don Carlos đối xử với Don Juan như một người mang ơn. Don Carlos ứng xử đầy lễ độ, lịch thiệp với lối xưng hô “tôi - ngài”, trên tay cầm kiếm như đại diện cho tầng lớp quý tộc. Don Carlos rất cảm kích và coi việc Don Juan “ra tay cứu độ” là một hành động hào hiệp. Là một nhà quý tộc, nhưng anh ta lại tuyên bố tình cảnh của giai cấp mình là “khốn khổ”. Bởi lẽ tầng lớp quý tộc khi ấy rất coi trọng danh dự của bản thân và gia đình, việc giải quyết ân oán phải được thực hiện bằng cuộc đấu kiếm. Nhưng hồi đó có lệnh cấm đấu kiếm, dù thắng hay thua đều có những tai hại: thua thì mất mạng, thắng thì cũng bị truy nã phải trốn sang nước ngoài. Anh ta coi thận trọng và lương thiện là hai phẩm chất tốt đẹp của người quý tộc. Nhưng có lẽ danh dự là điều thiêng liêng hơn cả, cao hơn cả tính mạng nên dù phải chết cũng quyết tâm để rửa nhục. Những câu nói của Don Carlos cho thấy anh ta là một nhà quý tộc “chính hiệu”. Đến khi nghe Don Juan nói anh ta là bạn của người đã quyến rũ em gái mình, Don Carlos vẫn giữ một thái độ hòa nhã, chừng mực như cách để tỏ lòng biết ơn và mong muốn Don Juan đồng tình với những hành động báo thù của mình. Anh ta đến mức còn cảm thấy đau đớn khi nghĩ rằng Don Juan sẽ phải tham dự vào cuộc đấu kiếm trả thù vì theo tục lệ của tầng lớp quý tộc, bạn thân của hai phe cũng phải góp mặt. Cứ ngỡ tưởng rằng việc mang ơn một người bạn của kẻ thù đã là điều khắc nghiệt, cho đến khi Don Carlos biết rằng người vừa cứu mình lại là chính kẻ tử thù thì đó còn là điều khó xử hơn nữa. Don Carlos phải đứng giữa hai bên: ân hay oán, người cứu giúp hay kẻ tử thù. Trước đó, khi còn chưa biết mặt mũi Don Juan, mới chỉ được anh trai miêu tả lại, trong lòng Don Carlos đã mang một mối thù sâu sắc. Anh ta coi Don Juan là “tên láo xược”, coi hành động của Don Juan là “điều sỉ nhục” và tuyên bố “nhất định phải chết để rửa nhục” (III, 3). Thế nhưng, khi biết con người thật của Don Juan, Don Carlos vẫn đối xử với Don Juan như một người chịu ơn. Don Carlos đã xin anh cho mình hoãn lại việc trả thù để đền ơn cứu mạng với Don Juan. Một người quý tộc như Don Carlos hiểu rằng “lòng biết ơn không thể xóa mờ được ý chí phục thù” (III, 3) nhưng vẫn quyết “van” Don Alonse đến mức tuyên bố “không chịu để cho ai xâm phạm tính mạng” Don Juan. Don Carlos đã thể hiện một ý chí sáng suốt cùng tấm lòng nhân đạo cao cả - điều ngỡ tưởng như không thể nào có ở giai cấp quý tộc qua lời nhắc nhở anh “cần phải làm chủ tình cảm của mình, phải có lòng dũng cảm mà không đi đến tàn nhẫn, một lòng dũng cảm cả lý trí chế ngự chứ không phải là tuân theo sự tức giận mù quáng” (III, 3). Với danh nghĩa là người mang ơn là vậy. Khi Don Carlos nói Don Juan với tư cách kẻ thù, anh ta cũng không dùng những lời lẽ lăng nhục, thô thiển mà cảnh cáo đầy dứt khoát “tôi cũng sẽ trả món nợ của tôi với nhiệt tình như vậy, rằng tôi sẽ nghiêm chỉnh trả thù anh như tôi trả ơn anh vậy” (III, 3). Nhân vật Don Carlos trở lại vào hồi V, lớp 3 của vở kịch khi gặp lại Don Juan ở cửa ô thành phố. Ơn đã trả xong nhưng sự báo thù không dẫn đến cuộc đấu kiếm khốc liệt nào. Với thái độ hết sức thiện chí, Don Carlos muốn khuyên Don Juan quyết định mọi việc trong sự trôi chảy và êm đẹp, đó là xác nhận một cách công khai rằng Done Elvire là vợ mình. Nghe Don Juan nói, Don Carlos nhận ra đó chỉ là những lời “lòe bịp”, những lời “bào chữa hoa mỹ” nhưng vẫn giữ thái độ chừng mực để hướng anh ta đến con đường đúng đắn. Trước những luận điệu xảo trá, đạo đức giả của Don Juan, Don Carlos không thể chấp nhận được nữa và tuyên bố sẽ không trừng trị Don Juan ở đây vì không thích hợp nhưng sẽ tìm được anh ta trong thời gian sớm. Ngỡ tưởng rằng, Molière sẽ để Don Carlos trừng phạt thích đáng Don Juan nhưng không phải. Molière đã tạm hoãn mọi cuộc trừng phạt có thể xảy ra với Don Juan để chuẩn bị cho sự trừng phạt đau đớn nhất ở cuối tác phẩm. Molière xây dựng nhân vật Don Carlos như một điểm sáng của giai cấp quý tộc với lý trí và tình cảm tốt đẹp, đúng đắn. Chính Don Juan cũng phải khẳng định rằng Don Carlos là “một người khác hào hiệp”, “xử sự đúng đắn” (III, 5). Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan phần 5
Biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière được biểu hiện trong toàn bộ tác phẩm Don Juan. Tuy nhiên, yếu tố thể hiện tập trung nhất là qua cách miêu tả các nhân vật. Cụ thể cho cách miêu tả nhân vật là cách đặt tên, cách miêu tả ngoại hình, cách miêu tả hành động, cách miêu tả ngôn ngữ,… Người đầy tớ của Don Juan Trong những vở kịch khác, đã có nhiều tên dành cho người hầu của Don Juan: Catalinông (vở của Tirso), Paxarinô, Bơrighen hay là Philip. Molière đặt tên cho người hầu này là Xganaren (Sganrelle). Hầu cận cho người quý tộc nhưng thực chất anh ta cũng chỉ là người lao động bình thường, xuất thân từ tầng lớp nông dân. Nét tính cách cơ bản của nhân vật này được Molière khắc họa là một người hầu có sự bất bình với lối sống phóng túng, trụy lạc của ông chủ nhưng cuối cùng vẫn chịu chấp nhận phục tùng anh ta. Mặc dù có sự cẩn trọng, nhún nhường và kinh sợ trước người chủ của mình nhưng cũng đã có những lúc người đầy tớ này dám nói lên suy nghĩ của mình. Anh ta hay nhắc đến Chúa và có những nỗi sợ “rất Người” - biết sợ trước thế lực vô hình nên khi Don Juan sai bảo đến mời pho tượng, anh ta rất cẩn trọng và lo sợ. So với các vở kịch Ý, Molière đã giản lược đi rất nhiều những trò ảo thuật, trò hề và yếu tố thần kì của nhân vật Xganaren. So với sự xuất hiện của nhân vật Lêpôrellô của Pushkin, nhân vật Xganaren xuất hiện với mật độ dày đặc hơn hẳn với tỉ lệ 26/27 lớp kịch (trừ hồi II lớp 1 là cảnh trò chuyện giữa Charlotte và Pierrol). Xganaren xứng đáng là nhân vật chính song hành cùng Don Juan. Và sự thật rằng, gần như mọi lớp kịch có Don Juan đều có sự xuất hiện của Xganaren (trừ hồi I lớp 1 là cảnh trò chuyện giữa Xganaren và Gusman). Cũng chính nhờ sự xuất hiện thường xuyên này, Xganaren có cơ hội để có nhiều lời nói hơn, đưa ra những nhận xét, đánh giá, bình phẩm của mình về những vấn đề trong cuộc sống hay về chính người chủ của mình. Don Juan và Xganaren sóng đôi cùng nhau trong vở kịch tạo thành cặp nhân vật tương phản, đối lập. Họ đại diện cho những quan điểm, cách ứng xử khác nhau trước các vấn đề trong cuộc sống. Họ như những tấm gương soi chiếu cho nhau, đứng cạnh nhau để làm nổi bật tính cách, phẩm chất của người còn lại. Xganaren vốn được coi là nhân vật tên hề cổ truyền, nửa hề nửa đầy tớ. Những lời đầu tiên trong hồi I đã cho thấy Xganaren là một người có phần ngốc nghếch và giản đơn. Anh ta nhắc đến Arixtôt (Aristoteles, 384 – 322 TCN) - nhà triết gia Hy Lạp cổ đại trong lời nói của mình dù chẳng liên quan gì đến nội dung. Anh ta chỉ nghĩ đơn giản nhà triết gia ấy tượng trưng cho tư tưởng bảo thủ. Xganaren đem Arixtôt và cả khoa triết học để so sánh không bằng thuốc lá và coi rằng hút thuốc lá là cái thú của người phong nhã. Theo quan niệm của anh ta, thuốc lá gắn bó, có vai trò quan trọng với người phong nhã đến mức “thuốc lá hướng dẫn tâm hồn theo con đường đạo đức và nhờ hút thuốc lá mà người ta học tập để trở thành phong nhã”; “khói thuốc gợi cho người hút những ý nghĩ về danh dự và đạo đức” (I, 1). Phải chăng ngay từ đầu tác phẩm, Molière đã đưa ra những chi tiết hạ bệ đầu tiên tầng lớp quý tộc phong lưu với những thú vui không lành mạnh? Xganaren có lối nói suồng sã và dông dài khi anh trình bày về bất kì một vấn đề gì. Thế nhưng khi nói về tư cách và đạo đức của ông chủ, Xganaren lại có khả năng tóm tắt chúng trong một công thức vừa gọn gàng vừa thâu tóm đủ tất cả ý nghĩa - “đại lãnh chúa tàn ác” hay “tên chủ ghê tởm” và cũng có những câu nói thật chân thành “tao sợ cô ta yêu mà chẳng được yêu đâu” (I, 1). Xganaren thường xuyên nhắc đến Chúa: “chỉ mong một ngày nào đó Chúa nổi cơn thịnh nộ và trừng phạt lão”; “hừ! Lạy chúa!”; “giễu cợt Trời là một lối giễu cợt ác độc và những kẻ phóng đãng không bao giờ chết êm đẹp đâu”; “xin Chúa chứng dám cho con!”; “lẽ ra phải cảm ơn Thượng đế…”; “lạy Chúa chưa ai có thể tự hào là đã dạy cho con điều gì”; “Ôi! Lạy Đức Mẹ!”. Điều đó cho thấy Xganaren có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của Chúa, của thần linh. Nó như sự đối chọi lại với quan niệm vô thần của Don Juan. Mang trong mình niềm kính trọng với Chúa như vậy, nhưng vì thân phận hèn mọn trước chủ nên đôi khi anh ta phải hùa theo báng bổ Chúa “bọn chúng tôi coi thường cái đó lắm”. Một chi tiết nhỏ nhưng cũng đủ cho thấy thực trạng khi tầng lớp hèn mọn trong xã hội bị bó buộc, kìm kẹp, họ không dám ra mặt bảo vệ những điều mà bản thân cho là thiêng liêng. Xganaren rất hiểu chủ của mình. Có lẽ vì càng hiểu nên Xganaren càng bất bình hơn với con người này. Nhưng nỗi sợ tầng lớp trên cao đã khiến anh ta phải cẩn trọng trước những lời nói với chủ mình. Nhưng khi nào chủ cho phép thì rất thành thật “không tán thành lối sống của ông và con thấy ông yêu đương lung tung như vậy thì thật là xấu xa quá”. Nhiều lần, Xganaren thể hiện thái độ thật sự của mình với ông chủ nhưng cũng chỉ dám “nói riêng”, “nói một mình”. Xganaren vẫn phải nhẫn nhịn và nịnh hót Don Juan. Xganaren chỉ dám nói thật về con người của chủ khi hắn ta không có mặt ở đó hoặc thông qua những lời mượn cớ. Nhưng con người Xganaren không phải không có sự thay đổi, tiến triển. Lúc đầu, anh ta vẫn giữ thái độ nhẫn nhịn, xu nịnh nhưng rồi trước những hành vi và suy nghĩ lệch lạc của Don Juan, anh ta đã tiến dần từ việc bày tỏ gián tiếp qua những lời mượn cớ đến việc bày tỏ trực tiếp với người chủ của mình. Và dường như trong con người ở tầng lớp thấp kém này, sự hèn nhát đến đáng thương trùm lấp lấy anh ta: từ việc sợ hãi trước chủ đến việc hai lần trốn chạy khi gặp bọn cướp và khi bức tượng đến. Và dù có bất bình trước cách sống của Don Juan đến đâu thì khi chủ bị trừng phạt, anh ta không thực sự cảm thấy hả hê khi cái xấu bị đánh bại mà chỉ quan tâm đến “Ôi! Tiền công của tôi!” (V, 6). Tiếng kêu la ầm ĩ được lặp lại đến bốn lần của Xganaren như làm giảm bớt đi ý nghĩa thiêng liêng ở sự trừng phạt cuối cùng của Thượng đế. Cái nhìn hạn hẹp của tầng lớp dưới dường như vẫn chưa đủ để làm nên những đột phá. Chi tiết Xganaren mặc quần áo giả làm thầy thuốc đã phản ánh được chân thực thực tế đời sống y học thế kỉ XVII với những vị thầy thuốc dốt nát, cứng nhắc, hoặc là kê đơn theo những phương thuốc dân gian hoặc là bằng những thuật ngữ chuyên môn khó hiểu. Trước hết, chi tiết ấy có ý nghĩa đả kịch hàng thầy thuốc dởm. Nghề thầy thuốc vốn là một nghề thiêng liêng, có thể cứu sống mạng người nên chăng bộ quần áo cũng phải thật xứng đáng. Vậy mà bộ quần áo của thầy thuốc lại được miêu tả là “bộ quần áo lố lăng”. Đâu chỉ vậy, trang phục đặc thù chỉ dành riêng cho người làm thầy thuốc vậy mà cũng bị đem đi cầm ở hiệu, chỉ cần có tiền là mua được. Giờ đây, chỉ một bộ quần áo mà có thể thay đổi được cả bản chất bên trong “được vị nể, người ta chào… xin thăm bênh…”. Đỉnh điểm của việc báng bổ y học được thể hiện qua lời nói hồn nhiên đến xót xa của Xganaren khi kể về một người 6 ngày chưa chết nhưng dùng thuốc là có thể chết ngay. Dù không phải là thầy thuốc thực thụ nhưng Xganaren vẫn kê bừa một đơn thuốc viết loằng ngoằng cho bệnh nhân. Tiếng cười bật ra nhưng đó là tiếng cười chua xót. Không chỉ đả kích một bộ phận thầy thuốc dởm, Molière còn đả kích cả nền y học lạc hậu của xã hội lúc bấy giờ vì đã ngó lơ những phát minh khoa học tiến bộ. Trong tác phẩm, Xganaren chính là người đối thoại thường xuyên nhất với nhân vật chính Don Juan. Người nhân dân – đầy tớ này là nhân vật lém lỉnh nhất, được Molière sử dụng nhiều thủ pháp trào lộng để bóc trần thói xấu của ông chủ. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan phần 4
Khái quát quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan Hệ thống nhân vật trong vở kịch Don Juan gồm 19 nhân vật. Nhân vật trung tâm là Don Juan - nhân vật góp phần thể hiện tập trung nhất quan niệm nghệ thuật về con người thuộc tầng lớp quý tộc của Molière. Xung quanh Don Juan là các nhân vật khác như người đầy tớ của anh ta, Don Carlos và pho tượng, Done Elvire (vợ Don Juan), Gusman (kị sĩ của Elvire), Don Alonse (anh của Elvire), Don Louis (cha Don Juan), Charlotte, Mathurine (nữ nông dân), Pierrol (nam nông dân), La Violette, Ragotin (đầy tớ của Don Juan), M. Dimanche (ông lái buôn), La Ramée (kiếm khách), một người nghèo đều góp phần thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả. Trong tác phẩm còn có sự xuất hiện của nhiều nhân vật phụ là tùy tòng của Don Juan, Don Carlos, Don Alonse như muốn khắc họa đậm nét hơn quan niệm của Molière về bản chất của giai cấp quý tộc. Đặc biệt, bên cạnh nhân vật kì ảo - pho tượng quận công, Molière còn đưa vào vở kịch của mình một bóng ma. Dù hệ thống nhân vật của Molière phong phú nhưng đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung về con người. Ông cho rằng một con người sẽ có một nét tính cách điển hình (tính cách chủ đạo) như tính học đòi, tính hà tiện hay tính đạo đức giả… Molière chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý nên ông cho rằng bản chất con người là vĩnh hằng bất biến, không phụ thuộc vào không gian và thời gian nên tính cách ấy sẽ không phát triển. Khi đi sâu tìm hiểu về một con người, tính cách là đối tượng trung tâm được tập trung cao độ để ông nghiên cứu, mô tả, làm rõ. Ông luôn liên tục quan sát để thấu hiểu đến cặn kẽ tâm can con người, từ đó tái tạo bức họa với chiều sâu là những tính cách đa dạng, những sự khác biệt giữa các giai tầng xã hội. Đó là lí do vì sao các tác phẩm kịch của Molière nói chung và tác phẩm Don Juan nói riêng được xếp vào hài kịch tính cách. Các nhân vật trong Don Juan là các nhân vật kịch mang tính chất xác định của tính cách. Để xây dựng hình tượng nhân vật kịch, nhà văn đã sử dụng lời thoại và giọng nói của các nhân vật – chất liệu quan trọng nhất. Trong kịch không thể xuất hiện nhân vật người kể chuyện có nhiệm vụ giới thiệu tính cách, tâm tư của nhân vật mà chính các nhân vật phải tự cất lên tiếng nói biểu hiện cảm xúc, tâm trạng và động cơ của mình qua lời đối thoại cũng như độc thoại. Thế giới nội tâm của nhân vật kịch không phải là thế giới tự đóng kín trong bản thân mà nó được chuyển thành hành động kịch khi trong một môi trường đối thoại, các lời nói tác động qua lại với nhau. Và chính hành động kịch ấy là sự biểu hiện trực tiếp của động cơ, ý chí, tức là thành sự can dự ra ngoài của chủ thể. Vì vậy, nhân vật kịch không chỉ là chủ thể tự bộc lộ mà còn là khách thể có thể được quan sát bằng những điểm nhìn từ bên ngoài. Bằng những chất liệu riêng của sân khấu biểu diễn như lời thoại, giọng nói, trang phục của diễn viên hay cách trang trí sân khấu, nhân vật kịch không thể miêu tả chi tiết đặc điểm xã hội, mà chỉ có thể tập trung làm nổi bật một nét tính cách chủ yếu, một dục vọng cơ bản nào đó của con người. Tính xác định cao độ về tính cách của nhân vật kịch nằm ở chỗ đó. Những nét tính cách ấy đều là sản phẩm của xã hội đương thời. Mỗi nhân vật, họ đại diện cho những quan điểm, cách ứng xử khác nhau trước các vấn đề trong cuộc sống. Họ như những tấm gương soi chiếu cho nhau, đứng cạnh nhau để làm nổi bật tính cách, phẩm chất của người còn lại. Ví dụ: Tính cách sa đọa, phóng đãng, xảo trá, đạo đức giả của Don Juan mang tính chất đại diện cho giai cấp quý tộc trụy lạc, vô liêm sỉ của triều đình Pháp thế kỉ XVII lúc bấy giờ để rồi trở thành điển hình của chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa cá nhân ích kỉ, hèn hạ với con mắt khinh miệt mọi thứ trên đời. Thông qua nhân vật, Molière đả phá những tệ nạn xã hội, đả kích những thói xấu, mặt trái trong tâm lí, tính cách con người và hơn hết là “sửa chữa phong hóa bằng tiếng cười”. Cũng thuộc về tầng lớp quý tộc như Don Juan, nhưng Don Carlos lại mang nét tính cách hòa nhã, chừng mực, hào hiệp; Don Louis đức hạnh. Molière xây dựng các nhân vật này như những điểm sáng của giai cấp quý tộc chân chính với lý trí và tình cảm tốt đẹp, đúng đắn. Hay như tính cách giản đơn, an phận, cảm thấy bất bình với lối sống phóng túng, trụy lạc của ông chủ Don Juan nhưng cuối cùng vẫn chịu chấp nhận phục tùng anh ta của người đầy tớ Xganaren lại mang tính chất đại diện cho tầng lớp nông dân biết phân biệt phải- trái, đúng-sai nhưng lại hèn nhát, không đủ dũng cảm để đấu tranh. Cũng thuộc về tầng lớp nông dân như Xganaren, nhưng Pierrol lại hiện lên với mầm mống của ý thức phản khảng trước những thế lực gò bó, chà đạp lên quyền sống của con người. Và nhân vật nam nông dân Pierrol như điển hình đẹp đẽ của quần chúng lao động với sự nhanh nhẹn và khỏe khoắn. Bên cạnh đó, tính cách của mỗi nhân vật đều tồn tại cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tuy Don Juan có những phẩm chất xấu xa, nhưng bên cạnh đó, anh ta cũng có những phẩm chất tốt như dũng cảm và lịch sự. Xganaren mặc dù có sự cẩn trọng, nhún nhường và kinh sợ trước người chủ của mình nhưng cũng đã có những anh dám nói lên suy nghĩ của mình. Bởi theo Molière, không có gì trái ngược nếu một người nực cười ở phương diện này nhưng ở phương diện khác lại trở nên lịch thiệp. Hai mặt tốt – xấu trên xen kẽ với nhau chi phối nhân vật Don Juan cũng như các nhân vật khác khiến hình tượng trở nên sinh động, phong phú. Không chỉ hướng ngòi bút của mình đến với tầng lớp phong kiến quý tộc - những kẻ đại diện cho tầng lớp thống trị nhưng đã lỗi thời, đang trên bước đường đến với bi kịch tàn vong, Molière còn hướng ngòi bút ăm ắp tinh thần nhân đạo của mình đến những nguyện vọng của người nông dân bên bờ biển như Pierrol, Charlotte hay Mathurine… - đại diện cho ước mơ của quần chúng lao động Pháp thế kỉ XVII: ước mơ hạnh phúc đôi lứa, ước mơ công bằng xã hội, … Đây cũng là một trong những yếu tố làm nên sức sống cho tác phẩm của Molière vì tác giả đã dũng cảm đứng về phía không chỉ của quần chúng lao động mà còn của tầng lớp tư sản tiến bộ, sử dụng điểm nhìn của họ để chế giễu tầng lớp quý tộc và bộ phận tư sản lạc hậu đương thời. Chỉ khi có cái nhìn của nhân dân lao động, của bộ phận giai cấp tư sản tiến bộ, Molière mới có thể chỉ ra được những mâu thuẫn, những kệch cỡm đáng cười ẩn náu dưới vẻ bề ngoài của xã hội tường chừng như ổn định nhưng thực chất đã lồi thời để giã từ chúng vào quá khứ. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan phần 3
Tóm tắt: Dù hệ thống nhân vật trong vở kịch Don Juan của Molière phong phú nhưng đều chịu sự chi phối của một quan niệm chung về con người. Ông cho rằng một con người sẽ có một nét tính cách điển hình (tính cách chủ đạo) như tính học đòi, tính hà tiện hay tính đạo đức giả… Molière chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý nên ông cho rằng bản chất con người là vĩnh hằng bất biến, không phụ thuộc vào không gian và thời gian nên tính cách ấy sẽ không phát triển. Khi đi sâu tìm hiểu về một con người, tính cách là đối tượng trung tâm được tập trung cao độ để ông nghiên cứu, mô tả, làm rõ. Ông luôn liên tục quan sát để thấu hiểu đến cặn kẽ tâm can con người, từ đó tái tạo bức họa với chiều sâu là những tính cách đa dạng, những sự khác biệt giữa các giai tầng xã hội. Cũng theo Molière, không có gì trái ngược nếu một người nực cười ở phương diện này nhưng ở phương diện khác lại trở nên lịch thiệp. Không chỉ hướng đến với tầng lớp phong kiến quý tộc, Molière còn hướng ngòi bút của mình đến những nguyện vọng của người nông dân. Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière được biểu hiện trong toàn bộ tác phẩm Don Juan. Tuy nhiên, yếu tố thể hiện tập trung nhất là qua cách miêu tả các nhân vật. Cụ thể cho cách miêu tả nhân vật là cách đặt tên, cách miêu tả ngoại hình, cách miêu tả hành động, cách miêu tả ngôn ngữ,… Từ khóa: Quan niệm nghệ thuật về con người, Molière, vở kịch Don Juan Đặt vấn đề Kịch là một loại hình nghệ thuật độc đáo, nơi bức tranh đời sống có thể hiện diện sinh động trước mắt khán giả, khiến họ có thể cùng vui, cùng buồn, cùng đồng cảm hay cùng phẫn nộ với nhân vật. Ở phương Tây, nhắc đến kịch của chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỉ XVII, bên cạnh P. Corneille và J. Racine thiên về bi kịch thì không thể không nhắc đến tên tuổi của Molière – người nghệ sĩ vô cùng thành công trong thể loại hài kịch. Molière được Goethe (1749 – 1832) đánh giá “vĩ đại đến nỗi mỗi lần đọc lại văn ông ta, lại cảm thấy một sự ngạc nhiên mới. Đó là một con người độc nhất vô nhị…”. Mỗi tác giả đều có những cách cắt nghĩa, cách lí giải, cách cảm nhận khác nhau về con người trong tác phẩm nghệ thuật của mình, Molière không phải là ngoại lệ. Việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của Molière góp phần làm nổi bật vai trò chủ thể của một tác giả tiêu biểu như Molière, qua đó, ta có thể đánh giá được vị trí, tài năng và sự đóng góp của ông. Không chỉ vậy, ta còn có thể đánh giá tính nhân văn của chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỉ XVII và thấy được sự đổi mới của nó so với giai đoạn văn học trước. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người của Molière trong vở kịch Don Juan phần 2
Với một số người ở xóm Giếng Chùa này, người ta còn tin rằng tín ngưỡng sẽ giúp họ đạt được những mục đích nào đó. Vì mối thù gia truyề n với họ nhà Vũ Phúc, ông Hàm quyết “lấy âm trị dương. Phen này tôi sẽ yểm cho cả họ nhà nó không ngóc lên được”. Trong thực tế, đã có không ít câu chuyện đồn đại về chuyện dùng bùa chú, ma thuật thần bí thường được dùng để trù ếm hại người. Có lẽ ông Hàm cũng biết được chuyện này, ông ta tin tưởng rằng hành động quật mả lật sấp thi thể, những lời khấn vái của cụ Cố sẽ giúp ông ta trả thù được cho dòng họ, gia đình ông Phúc sẽ lâm vào cảnh bại vong, bần cùng. Hay chị Bé, người làm thuê cho nhà ông Hàm, với quyết tâm một bước lên làm bà chủ nhà ông Hàm, chị ta giả vờ lên cơn đồng nhập trong buổi cúng cơm sau khi bà Son chết được ba ngày. Tất nhiên, chị ta đã thành công, thậm chí được Thủ và ông Hàm nhìn bằng con mắt khác, coi trọn g hơn khi chị ta tự đề nghị tiếp tục lên cơn đồng nhập trong đám tang cô Thống để “nói vài câu phán truyền có lợi cho hai ông!... lời lúc ấy là lời thánh, thánh đã cản thì người ta không dám coi nhờn đâu ạ!”. Tín ngưỡng bây giờ không còn là nét đẹp văn hóa đơn thuần nữa, nó đã trở thành một “thứ vũ khí vô hình” để những người như chị Son hay ông Hàm dùng làm công cụ phục vụ cho những âm mưu của mình, lợi dụng việc “ở đây người ta vẫn trọng luật âm lắm” để dễ dàng đổi trắng thay đen, giành lấy quyền lợi về tay mình. Nguyễn Khắc Trường đã đem vào “Mảnh đất lắm người nhiều ma” bức tranh tín ngưỡng dân gian hết sức đa dạng, đồng thời, qua việc chỉ ra cái saii của người dân trong việc mê tín dị đoan đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về hệ quả của hủ tục: nếu con người cứ tiếp tục làm biến tướng, méo mó phong tục truyền thống thì nó sẽ có nguy cơ mất dần vai trò làm chỗ dựa tinh thần, trái lại sẽ gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho chúng ta. Kết luận Với bút pháp hiện thực, tỉnh táo, Nguyễn Khắc Trường đã thể hiện một cách chân thực đời sống của những người nông dân sau chiến tranh, nhà văn mạnh dạn phơi bày ra những mặt xấu, mặt ác, những tệ nạn hủ tục ở nông thôn nước ta ra trước luồng ánh sáng dư luận. Từ đó ta thấy được cái ác, cái xấu... giờ đây được bao che, ngụy trang dưới nhiều vỏ bọc hình thức khác nhau. Nó len lỏi vào từng ngóc ngách của đời sống. Tái hiện lại cuộc sống đó, Nguyễn Khắc Trường đã thể hiện rõ hơn quan niệm nghệ thuật của ông về con người. Từ đó vừa cảnh báo, vừa hướng con người đến những giá trị chân – thiện – mỹ đích thực của cuộc sống. Có thể thấy, Nguyễn Khắc Trường thể hiện rõ quan niệm của ông về con người, nói cách khác, qua văn xuôi, ông đã xác lập một quan niệm rõ rệt về con người vốn là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là điểm tựa của sáng tác văn học và tiếp nhận văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là hướng tiếp cận hợp lí để tìm hiểu, đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học, là cơ sở cho người tiếp nhận có những lí giải đúng đắn về sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong sáng tạo văn học. Trong cái nhìn cảnh báo, phê phán, Nguyễn Khắc Trường đã phát hiện ra kiểu con người mưu mô, thủ đoạn; con người bản năng tính dục. Trong các kiểu con người đó, ông rất thành công trong việc phát hiện ra loại con người tha hóa đầy mưu mô, thủ đoạn ở nông thôn thời đổi mới như một sự cản trở cho sự phát triển của xã hội hôm nay. Với những thành tựu đã đạt được bằng sự sáng tạo không mệt mỏi và bằng trách nhiệm công dân của một nhà văn quân đội, Nguyễn Khắc Trường xứng đáng được ghi nhận là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma phần 1
Con người lạc hậu, mê tín Hoạt động tín ngưỡng, phong tục là những sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người nhất là ở nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên đôi khi, tín ngưỡng dân gian bị biến tướng, con người trở nên cuồng tín. Trong “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, hủ tục thể hiện qua việc người dân tin vào thế giới tâm linh đến nỗi thành mê tín, những mưu toan lợi dụng tín ngưỡng cho mục đích nào đó. Mặc dù không xuất hiện nhiều tron g tác phẩm nhưng nhân vật cô Thống Biệu có thể xem như là một biểu tượng cho tín ngưỡng ở Giếng Chùa. Từ ngoại hình đến hành động lẫn những câu nói của cô đều toát lên cái vẻ gì đó thần thánh, ma mị. Cô có tài nhìn được ma, và tự cô cũng dự báo trước cái chết của mình, dọn dẹp những món đồ thờ cúng trước khi ra đi. Tín ngưỡng dân gian còn thể hiện qua câu chuyện về ma núi Ông Bụt, những bóng ma lúc đàn ông khi đàn bà thường hiện ra trêu chọc người sống. Những giai thoại rợn người, bí ẩn như thế, chính là một phần trong đời sống dân gian ở nông thôn. Người ta tin vào những chuyện li kì ấy đến mức, những sự việc vốn dễ dàng có thể lí giải bằng một câu trả lời thực tế, lại bị gán cho là bị ma trêu, bị quỷ bắt, mà cuộc đời của lão Quềnh là một ví dụ. Anh thanh niên Quỳnh thật thà, khỏe mạnh trở nên ngơ ngơ ngẩn ngẩn, và người ta cho rằng do ma nữ hớp hồn; bố của Quỳnh nghe người ta chỉ mải miết đi tìm con cuốc về trị “bệnh” cho anh đến mức “mặt mũi cứ nhớn nhác như người hóa dở” rồi chết. Đến khi lão Quềnh (tức Quỳnh) chết sau một trận đau bụng, người ta tiếp tục gán cái chết của ông là vì đã mạo phạm đến ma núi. Những đám tang vừa cho thấy được tập tục thờ cúng ở vùng đất này, vừa vạch trần tục lệ cổ hủ, lạc hậu. Trước hết là đám tang của cụ Cố chi họ Vũ Đình, mà thông qua đám tang này ta thấy được bộ mặt nhố nhăng của những kẻ lợi dụng phong tục tín ngưỡng để trục lợi, để khoa trương thanh thế. Chỉ qua cách sắp đặt của ông Phúc trưởng họ đã có thể tượng tượng ra đám tang này long trọng như thế nào, thật đúng là cách tổ chức của gia đình có tiền có quyền thế: hòm đóng bằng gỗ dổi chứ không thể dùng gỗ tạp, chia đội kèn làm hai nhóm một ở cạnh linh cữu một để thổi rước các đoàn thể của làng xã vào nhà, giết con lợn hơn một tạ để đãi khách, buổi tối có lễ cầu hồn “vui lắm, có trống có kèn như đêm hát đêm nhạc”. Nói về buổi cầu hồn, nghi thức này chẳng khác nào là cơ hội cho ông trưởng phường bát âm cùng đội kèn kiếm tiền từ chủ nhà “Tiền đang bay như bươm bướm vào lòng thuyền, và hình như toàn những tờ bạc kha khá cả? Trưởng phường bát âm liếc nhìn lòng càng phấn chấn”. Những câu văn vừa chua chát vừa mỉa mai, đám tang vốn là nơi đầy bi ai nhưng ở đây sao lại giống ngày hội đến thế, nơi có những bóng ma lợi dụng tín ngưỡng, phong tục để giương oai, để thu lợi. Trái với đám tang long trọng của cụ Cố, thì đám tang của bà Son hay lão Quềnh lại đơn giản đến đáng thương. Với cái cớ nực cười “chết đâu chôn đấy. Làm thế là chiều theo ý các ngài dưới đó, để các ngài khỏi quấy quả”, Quàng quấn xác anh mình trong bó chiếu rồi chôn ở hố đồi ông Bụt “nơi xưa nay không ai đặt mộ, vì ở đây rất nhiều mối”. Còn bà Son sau khi chết được hưởng cái đám tang gọn gàng, nhanh nhẹn “người chết bất đắc kỳ tử ở ngoài nhà thì không được đưa vào khỏi giọt gianh để tránh trùng họa”. Ba cái tang, ba người chết, thật đúng với câu “Chỉ có người chết là thiệt thôi”, tưởng đâu nằm xuống mồ là đã rũ sạch vướng bận trần gian, song họ vẫn chịu bó buộc không ít từ cái gọi là tục lệ truyền thống, từ suy nghĩ tư lợi của người còn sống. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma phần 6
Con người bản năng tính dục Nói đến con người bản năng là ta nghĩ đến nhu cầu cho sự tồn tại như việc ăn, ngủ, đi lại, công việc..., đến những nhu cầu tinh thần như ý chí, tình yêu, những khát khao mơ ước hướng tới những chuẩn mực đạo đức, cái đẹp, chân lý...Sự tồn tại của những nhu cầu, sự phát triển về tinh thần, về năng lực sáng tạo của cá nhân trong mọi biểu hiện của nó bao giờ cũng gắn với sự tồn tại của những cá tính, những tư chất riêng, năng lực phẩm chất riêng, tính cách riêng để khẳng định sự hiện hữu của chính cá nhân đó. Ở đây, tác giả đã thể hiện vấn đề tính dục thông qua các mối quan hệ giữa ông Hàm với bà Son, giữa ông Hàm với người đàn bà làm thuê; và mối tình giữa trung tá Chỉnh với cô Lạc. Nhưng tiêu biểu và tập trung hơn cả là mối quan hệ xoay quanh nhân vật Trịnh Bá Hàm. Với mối tình của ông Hàm và bà Son, người đọc nhận thấy đây là một cuộc tình đơn phương mà ông Hàm dành cho bà. Bởi vậy, ngay trong đêm tân hôn, khi mà các thủ túc cần thiết của một đám hỉ được hoàn tất, đã diễn ra cuộc tra hỏi mà ông Hàm giành cho bà Son. Bởi lúc này đây, cơn ghen tuông kia khiến cho ông Hàm không làm chủ được mình, nổi cơn thịnh nộ lôi đình vì ông ta biết rõ rằng mình chỉ là kẻ đến sau bởi “cái trái cấm kia đã có kẻ bóc trước rồi”. Hàm đã đánh bà Son và sỉ nhục bà. Chắc chắn nếu không có lời nói phản kháng lại của bà Son “Anh im lặng thì tôi nguyện làm con hầu con hạ cho anh suốt đời...Rồi tôi sẽ báo oán, sẽ vật anh chết theo” [2, tr 81] thì hẳn ông Hàm đã không dừng lại. Sau lời nói của bà Son đã dẫn đến hành động điên cuồng của ông ta “nhảy tới nằm phủ lên người Son như phủ một con mồi. Tình yêu của kẻ ghen tột cùng đến thành rồ dại”[2, tr. 81] mà không cần để ý đến cảm xúc của người vợ. Trong quan hệ vợ chồng ông Hàm và bà Son, thấm thoát thời gian cũng trôi qua đi. Đi liền với đó là những đứa con được sinh ra như sự minh chứng của cuộc hôn nhân này. Đời sống tình dục của hai vợ chồng này được thể hiện qua cái nhìn của tác giả “Theo lệ ngầm giữa hai người từ rất lâu rồi, từ ngày con cái đã khôn lớn, vợ chồng bà không ngủ chung giường. Nhưng hễ đang ngủ, bà Son bỗng thấy có bàn tay rờ rờ lần tìm, rồi hai ngón tay thô ráp bấu vào cổ chân mình, lay lay, thế là bà biết bóng người lờ mờ đang lẹt xẹt đi ra giường ngoài kia là ai, và đang cần gì ở bà” [2, tr.220]. Với ông Hàm, với tất cả những lần gọi bà Son, ông “luôn hăm hở mà vẫn lặng lẽ không một lời mơn trớn, tấm thân to ngang rắn chắc của ông đã phủ lên người bà” [2, tr.221]. Và trong một lần, sau khi bà Son nghe lời Trịnh Bá Thủ, em trai ông Hàm đến gặp Vũ Đình Phúc, đã giúp ông Hàm được giải nguy, tránh cho họ nhà Trịnh Bá bị mất danh dự, đổi lại bà Son chỉ nhận được những lời tra hỏi, đi liền với đó là sự nhiếc móc thậm tệ đã khiến bà Son phải nước mắt tuôn rơi lã chã, cùng với đó là sự mệt mỏi, uất ức ở trong lòng nên bà đã đi về buồng để nghỉ. Trong tiểu thuyết này, con người bản năng tính dục không chỉ thể hiện trong mối qua hệ giữa hai vợ chồng ông Hàm mà nó còn được thể hiện giữa ông Hàm với người đàn bà làm thuê trong nhà. Ngay sau sự ra đi của bà Son ở bờ sông chỗ Vai Cày, người đàn bà này đã dùng mưu bị nhập đồng- nhập vào giả làm bà Son để căn dặn mọi người, hòng chiếm được một vị trí chắc chắn ở trong nhà- buộc Đào có muốn cũng không dám đuổi bà ta đi. Sự việc này đã không qua được sự soi xét của ông Hàm, bởi vậy ngay tối hôm ấy ông Hàm đã đi xuống buồng nơi người phụ nữ làm thuê đang ngủ và nói cho chị ta biết một sự thật rằng “Đồng nhập chỉ nhập vào những người cùng huyết thống” [2, tr.290]. Buộc chị ta phải thừa nhận hành động giả dối của mình. Đứng trước tình thế này, người phụ nữ kia đã nói rõ mục đích của việc đồng nhập là “muốn được ở lại hầu hạ ông, nên cháu mới dại dột nghĩ ra như thế...nên cháu phải đội lốt ma, đội lốt bà nhà để gia đình đừng đuổi cháu đi”[2, tr.290]. Không dừng lại ở lời nói, nhận thấy ông Hàm đã siêu lòng, cùng với ý thức phải tồn tại, bằng mọi giá phải ở lại đây nếu không sẽ đối mặt với cái đói đang treo lơ lửng trên đầu, chị ta đã chủ động “nhoai người lên ôm chặt lấy thắt lưng ông Hàm...Tức thì cả nửa người trên của người đàn bà ép chặt vào lòng ông, cọ sát vào những giá quan nhạy bén đang nóng ran trên da thịt ông...Chị ta đang ép trên bụng ông. Toàn thân chị ta đã trần trụi không còn một mảnh vải! Hai bầu vú nở căng, ấm mềm trùm kín cả mặt ông Hàm. Bàn tay chị ta rối rít lần tìm trên bụng ông” [2, tr.290,291]. Như vậy, có thể nhận thấy, tính dục, bản năng tự nhiên của con người được thể hiện trong mối quan hệ giữa ông Hàm với bà Son và giữa ông Hàm với người phụ nữ làm thuê là hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu như trong quan hệ gia đình giữa ông Hàm và bà Son là mối quan hệ vợ chồng thì theo lẽ thường, tính giao giữa hai người phải thoả mãn, người này đem lại hạnh phúc sung sướng và niềm hoan lạc ái ân cho người kia và ngược lại. Nhưng ở đây, ông Hàm dường như chỉ chiếm được phần xác mà không chiếm được phần hồn, chỉ chiếm được phần con mà không chiếm được phần người vì những lần ái ân đều là do ông chủ động và bà Son dù không thích nhưng nhiều lần vẫn phải hoàn thành trách nhiệm của một người làm vợ. Đối lập với mối quan hệ trên, là quan hệ của ông Hàm với người phụ nữ làm thuê. Trên phương diện xã hội, thì ông là chủ, có quyền, tiếng nói có trọng lượng với người làm thuê, nhưng trong mối quan hệ ái tình này, phần chủ động lại thiên về người đàn bà làm thuê. Cả phần chủ động lẫn tư thế đều do chị ta làm chủ, ở đấy ông Hàm “cứ nằm đườn người một cách cao giá và tỏ ra thích thú khi được chị nâng niu hướng dẫn kiểu của một gã trai tơ lọt vào tay một ả nạ dòng” [2, tr.336]. Trong mối quan hệ ái tình này, quả thực với sự chủ động của người phụ nữ làm thuê đã giúp cho ông Hàm có được những cảm xúc, những khoái lạc thăng hoa mà với bà Son ông chưa từng được biết đến hay nếu có được cũng chỉ là những ảo giác do chính ông tự mình đem lại. Tóm lại, với việc thể hiện con người bản năng tính dục, Nguyễn Khắc Trường đã giúp người đọc nhìn thấy lộ diện hơn về con người nông dân trong đời sống đương đại. Trong bao nhiêu năm, con người ta lo đấu tranh giành độc lập, dân tộc, những vấn đề của làng xóm, tông tộc hầu như bị chìm khuất, bỏ quên. Giờ đây khi đất nước hoà bình, con người đang sống trong bầu không khí đổi mới thì cuộc sống đời thường, những vấn đề tạo nên mối quan hệ liên kết từ bao đời nay, từ nhiều thế hệ của người Việt bỗng cựa mình thức dậy. Với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường đã không ngần ngại khi phơi bày một hiện trạng tiêu cực, xấu xa của con người đang lừa miếng, đấu đá, thù hằn bởi chính mối quan hệ gia tộc. Qua đây nhà văn đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự khánh kiệt nhân cách con người chỉ vì mối quan hệ họ tộc ở nông thôn nước ta thời hậu chiến. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma phần 5
Con người mưu mô, thủ đoạn Trong cuộc xung đột, tranh giành giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình mà nổi bật là cuộc đụng độ đầy kịch tính giữa Hàm và Thủ, Phúc, mỗi con người đều có những toan tính, mưu mô, thủ đoạn riêng. Họ nhân danh sự trung thực, tinh thần đấu tranh, tính đảng để hầm hè, đấu đá, giành giật chỗ ngồi. Tưởng như họ hiền lành vì công lý nhưng thực chất là cuộc đấu tranh của những con quỷ hiện lên trong cuộc sống ở làng quê Việt Nam thời hậu chiến. Ở nhân vật Vũ Đình Phúc ta thấy được sự mưu mô thủ đoạn đến ghê người. Chỉ vì hai chữ chức quyền mà con người ta đã đánh mất đi cả đạo đức, sẵn sàng làm cả những chuyện bất nhân. Phúc đã quyết liệt, hùng hổ đứng lên đấu tố cha mình ở giữa làng để chứng tỏ lòng mình không bị địa chủ nhuộm đen. Phúc là một con người lắm mưu, nhiều kế, biết tính toán bằng mọi cách để có lợi cho bản thân, cho gia tộc nhà mình. Ông đã từng đưa ra quan điểm cho riêng mình khi đề cập đến vấn đề muốn lên chức vị ở thôn xóm: “Muốn có chỗ đứng thì phải biết lựa, chân dù nhún nhưng lòng vẫn khinh. Nhún với mấy thằng xằng để giữ cái lớn hơn, cái lâu dài. Bấy giờ không thế thì làm gì còn Đảng. Mà không có cái chân đảng viên thì cả họ nhà này chúng nó cho ăn bùn. Chân trắng thì làm gì chen được cái chân chủ nhiệm Hợp tác xã sáu, bảy năm trời? Mấy đứa trong họ nhà này được vào Đảng là nhờ ai? Tôi không ngồi đấy thì có mà mục thất” [2, tr.24]. Cũng trên mối xung đột quan hệ dòng họ, ở ông Hàm – một vị trưởng tộc dòng họ Trịnh Bá – lại là một người có lòng thù oán, căm tức dòng họ Vũ Đình một cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn vì nó gắn liền với những thứ quan trọng nhất trong cuộc đời ông. Đó là hình ảnh người bố với lời trăn trối trước khi nhắm mắt xuôi tay và chuyện tình của vợ ông với Phúc. Lòng thù hận ấy luôn dồn nén, tích tụ trong ông. Ông luôn khắc sâu trong tâm can lời dặn dò của người bố với bao nỗi uất ức, sâu cay: “Trịnh Bá Hoành dặn Hàm sống ở làng này phải biết bố con Đại – Phúc là ai? Là người không thể đi chung đường, ngồi chung chiếu. Không bao giờ nó muốn ta ngóc đầu lên được” [2, tr.62]. Sau khi đọc đi đọc lại những điều bí mật của người cha quá cố để lại được cất giữ kỹ càng trong cái tráp bằng gỗ nghiến nhỏ là phương cách trả thù dòng họ Vũ Đình. Lòng ông Hàm dấy lên một sự quyết tâm trả thù và ông đã xác định được mình phải làm gì lúc này: “Thì phen này ông sẽ cho cả họ nhà mày ăn bùn! Ăn bùn” [2, tr.64]. Sự thù hằn giữa hai dòng họ Trịnh Bá – Vũ Đình ngấm trong máu ông Hàm ngày càng mãnh liệt, trào dâng không bao giờ nguội lạnh. Nguyễn Khắc Trường cũng rất thành công khi thể hiện nhân vật Thủ, một nhân mẫu lớn ở nông thôn, với quyền chức trong tay, bề ngoài nhũn nhặn, mềm mỏng, luôn sống vì dân, vì nước, nhưng thực chất lại thâm độc, thủ đoạn, xảo quyệt, tàn bạo. Mỗi lời nói, suy nghĩ, hành động của Thủ là một toan tính kỹ càng, lươn lẹo, khéo léo khiến cho mọi người thấy được mà không thể phơi bày, lên án được ông. Bởi vì ông biết lôi kéo đối phương, biết xoay chuyển tình thế và quan trọng hơn là biết lấy lòng người. Là một bí thư – quyền cao nhất trong xã, nhưng làm việc gì Thủ cũng nghĩ đến việc tư, nghĩ đến gia tộc mình. Trong lòng Thủ đa mưu, láu lỉnh như đi guốc trong bụng người khác nên ông biết khi nào cần tiến, khi nào cần lui để thu phục lòng người. Con người của Thủ ít để ra sơ hở, điểm yếu của mình nên mọi người khó nắm bắt, quy tội được Thủ tuy trong lòng họ rất ấm ức, bực mình. Với nhân vật Thủ, người đọc nhận thấy ở nhân vật này là con người nham hiểm, mưu mô và đầy thủ đoạn. Vì lòng đố kị, ghen ghét cùng với đó là mối thù hận giữa hai dòng họ, với chức danh bí thư xã, đeo mác đảng viên trên người, Thủ đã lợi dụng những thứ này như những công cụ, phương tiện hỗ trợ đắc lực cho mình trong việc thực hiện những toan tính trên. Thực nguy hiểm biết bao khi con người với chức trách đảng viên kia đã không đem tài năng, trí lực của mình để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng ở quê hương, làng xã. Chính những con người như Thủ đã gián tiếp góp phần đưa tới một cuộc sống trì trệ, bảo thủ, làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của làng xã nông thôn Việt Nam xưa mà xóm Giếng Chùa là hình ảnh tiêu biểu. Như vậy, qua những nhân vật trong Mảnh đất lắm người nhiều ma, chúng ta nhận thấy Nguyễn Khắc Trường đã đi sâu vào một trong những vấn đề phức tạp và rắc rối nhất ở nông thôn nước ta thời hậu chiến là qua n hệ dòng tộc. Tác phẩm đã phơi bày hiện thực mâu thuẫn, gay gắt dâng lên thành những đỉnh điểm, cao trào với những màn đấu trí, đấu lực dựa trên lòng thù hận. Tác giả đã khắc họa về sự biến chất, tha hoá của những người có chức có quyền ở nông thôn trong giai đoạn chuyển tiếp. Ở đó quan hệ người với người có lúc còn tàn bạo hơn cả loài thú vật và nguy hiểm hơn là nó còn nhân danh Đảng, chính quyền để hạ bệ nhau, rửa thù hận bằng những mưu mô thủ đoạn độc ác một cách tàn bạo, trắng trợn. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma phần 4
Khái quát quan điểm nghệ thuật về con người trong tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường Nguyễn Khắc Trường là một trong những cây bút trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Nguyễn Khắc Trường đã khắc họa rõ nét hệ thống nhân vật cũng như thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm. Có thể thấy, quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học. Nó hướng chúng ta nhìn về đối tượng chủ yếu của văn học. Theo Trần Đình Sử “quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biệ n pháp, hình thức thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó”. Xuất phát từ nhãn quan nhân đạo chủ nghĩa, Nguyễn Khắc Trường đã chú trọng phát hiện và thể hiện số phận con người qua những cuộc đời cụ thể gắn với những nỗi niềm riêng tư sâu kín của họ vốn thường bị che khuất bởi các biến cố và sự kiện của thời đại. Đặc biệt với tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, việc lấy đời tư con người làm mảnh đất khám phá những quy luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản đã tạo nên được cái nhìn mới về con người. Nổi bật trong tác phẩm là con người suy tư, phản tính, tha hóa. Những quan điểm nghệ thuật về con người trong tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” Con người nghèo khổ, đói khát, tha hóa. Ngay từ những trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết, xóm Giếng Chùa đã hiện lên với bộ dạng tiêu điều, xác xơ. Vốn là “xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã”, với cổng làng to đứng sừng sững, những con đường trong làng lát gạch phẳng phiu, song nơi này cũng phải chịu thua khi cái đói quét qua, làm người khi ghé qua xem phải ngạc nhiên mà thốt lên “không dè”. Những bà đồ Ngật, ông Quản Ngư, những người ngày thường vốn là đại gia của xóm, “quen ăn trắng mắc trơn” “Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì”, bây giờ phải sờ đến cả những thứ như bánh ngô, cám mà thường ngày họ vẫn coi là thức ăn cho gà cho lợn. Với người nghèo thì cái khổ ngày thường của họ trong cái thời buổi này lại dâng lên gấp nhiều lần, tới độ họ dường như không còn sức để kêu cho sự khổ nữa. Đó là cáii chết hết sức đau đớn của lão Quềnh, một ông già “ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc quên”, chết vì cơn đau bụng sau khi ăn hết “một nồi ba cơm” của nhà vợ chồng lão làm mướn cho. Người ta cho rằng lão chết vì ma đồi Ông Bụt bắt, nhưng có lẽ không phải như vậy. Cái chết của lão gợi ta nhớ đến cái chết của bà lão trong “Một bữa no” của Nam Cao, chết vì quá no, chết sau khi được ăn một bữa cơm đẫy cái bụng đã trống rỗng quá lâu. Đó là anh Thó, vì kiếm ăn mà giả làm ma ăn trộm trong đám tang nhà người ta, vì kiếm ăn mà anh chấp nhận làm công việc bất lương là đi đào mộ người chết lên. Bên cạnh đó là người đàn bà lôi thôi đến từ cái vùng mà “vì đói quá mà đã có nhà bỏ thuốc trừ sâu vào nồi cháo để ăn rồi cùng chết cho rảnh nợ”, mang theo đứa con gái đã chết, chắc là cũng vì đói; chị dùng đủ chiêu trò để có thể leo lên làm bà chủ trong ngôi nhà mà bà chị làm mướn. Vậy đấy, cái đói đã nhào nặn con người ra chẳng khác nào những bóng ma, vậ t vờ và tha hóa. Những bóng ma đói khát ấy cùng những hành động thấp hèn của họ lại khiến người đọc thấy xót xa hơn là chê cười, bởi rốt cuộc thì họ cũng vì cuộc sống bần cùng mà ra cả thôi. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma phần 3
Tóm tắt: “Mảnh đất lắm người nhiều ma” là một trong những sáng tác tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khắc Trường. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện về làng Giếng Chùa những năm đói kém, nhiều hạng người, nhiều loại nhân vật bị cuốn cuộn vào các sự kiện dồn dập. Trong đó phảng phất sự u ám giữa những cuộc tranh giành của các dòng họ hay giữa những thế hệ cũ và tư tưởng bảo thủ tranh đấu nhằm mục tiêu loại trừ lẫn nhau. Quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã được bộc lộ rõ nét qua những trang viết về một vùng nông thôn với nhiều thay đổi qua các sự chuyển giao, xáo trộn, tranh đấu giữa các bên đối lập nhau, tranh chấp nhau giữa các thế hệ cũ như ông Thủ, ông Phúc rồi cho đến khi lớp người trẻ như Đào và Tùng họ bắt đầu tiếp cận với những đổi thay đã bắt đầu vén màn cho những tia sáng xóa tan lớp màn đêm u tối quấn lấy tư tưởng và cuộc sống của mỗi người dân nơi làng Giếng Chùa. Bên cạnh đó, không gian ma trong tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma”, đã cho thấy sự sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Khắc Trường. Đó cũng là một điểm nhấn giúp nhà văn thể hiện rõ cái nhìn nghệ thuật về con người trong giai đoạn lúc bấy giờ. Như vậy, việc khảo sát và tìm hiểu về tác phẩm không chỉ mang đến cho người đọc những khám phá, chiêm nghiệm về sự đổi thay từng ngày của vùng nông thôn Việt Nam mà còn làm sáng tỏ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Khắc Trường. Đặt vấn đề Văn học Việt Nam sau năm 1975 đã có sự biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc. Trong đó nổi bật là những vấn đề thế sự và đời sống hằng ngày. Có thể nói năm 1986 là một dấu mốc quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và đời sống văn học nghệ thuật nói riêng. Bởi đây là thời điểm ghi nhận sự đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn học. Với không khí cởi mở, dân chủ của đời sống văn học tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo với quan niệm mới về nhà văn, sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người hay sự thay đổi thi pháp thể loại của các thế hệ nhà văn Việt Nam, từ lớp nhà văn tiền chiến như Tô Hoài, Chế Lan Viên đến những cây bút hậu sinh. Có thể thấy Nguyễn Khắc Trường cũng là một nhà văn tiêu biểu và tạo được thành công trong giai đoạn đổi mới từ sau 1986 đến nay. Ông đã mang vào tác phẩm của mình cái nhìn toàn diện cùng những đánh giá sâu sắc về những cống hiến thầm lặng của những người lính trong và sau chiến tranh, cũng như những vỉa sâu tâm hồn đang dậy sóng trong con người ở thời kỳ đổi mới đất nước. Văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Khắc Trường nổi bật với những mảng đề tài viết về người anh hùng, người lính và đề tài nông dân. Với tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” chúng ta như bước vào một thế giới với những toan tính, thủ đoạn, sự tha hoá, biến chất của con người ở nông thôn trong thời hiện đại với những mâu thuẫn mới đang nảy sinh trong cuộc sống. Đặc biệt, mảng đề tài viết về nông thôn của nhà văn được người đọc và giới phê bình văn học quan tâm, ghi nhận và chú ý nhiều nhất. Bởi Khắc Trường là một trong những cây bút mạnh dạn xoáy sâu vào những vấn đề lưu cửu, nhức nhối đang diễn ra đau xót ở nông thôn nước ta trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế cũ sáng cơ chế mới. Bằng chính tâm hồn của một người nông dân chân chính, lại thêm có vốn hiểu biết cùng với tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Khắc Trường đưa được hiện thực nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới hướng ra ánh sáng, thức tỉnh lươn g tâm của mỗi con người để cuộc sống tốt đẹp hơn. Tóm lại, trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khắc Trường, tiêu biểu là tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” ta có thể nhận ra quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi của ông có tính định hướng và nhất quán ngay từ đầu. Đó là sự hướng đến những giá trị của chân thiện mỹ trong cuộc sống. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma phần 2
Ngôn ngữ trần thuật mang tính khẩu ngữ, đời thường Tính khẩu ngữ, đời thường thể hiện ngay từ lời kể chuyện với những tình thái từ, trợ từ và cách nói nước đôi, mơ hồ của người dẫn chuyện “Như mọi người đều biết”, “Lại cứ theo thế mà suy, sai cũng coi là cố nhiên”, “Nhưng, có điều, còn có một cái lẽ cố nhiên khác nữa, riêng nhỏ âm thầm”,…. Lối dẫn chuyện tự nhiên, phóng khoáng, tinh tế và đôi lúc giễu nhại phá vỡ hoàn toàn không khí trang nghiêm vốn có khi người đọc tiếp nhận những câu chuyện truyền thuyết. Đồng thời, cách kể gần gũi như kể những câu chuyện tầm phào khiến các nhân vật như trút bỏ lớp áo chức năng, trở thành những con người trần thế đa đoan, phức tạp, khó đoán biết. Cách kể này hỗ trợ tối đa cho cách dựng đối thoại và thay đổi hình tượng nhân vật từ mẫu gốc ở phần sau truyện. Không chỉ trong lời kể, tính khẩu ngữ thể hiện rõ trong những lời đối thoại của nhân vật. Sau bao nhiêu năm, Mị Nương trong một lần một mình về Phong Châu thăm vua cha thì gặp lại Thủy Tinh. Xét trên bình diện xã hội, Thủy Tinh và Mị Nương ở hai phe đối lập: một người là Thủy Tinh- người gây ra bao lũ lụt, thiên tai, mưa gió; một người là vợ của Sơn Tinh- đại diện cho sức mạnh chế ngự thiên tai. Nhưng ngay từ đầu, Thủy Tinh đã xác lập quan hệ thân mật, gần gũi bằng cách xưng hô “tôi”, “em” tình cảm và đắm say. Ở đoạn đầu của cuộc đối thoại, những câu hỏi dồn dập của Thủy Tinh “Mỵ Nương em có nhận ra tôi không?”, “Vậy thì tôi là ai? Em hãy gọi tên tôi. Hãy gọi tên tôi một lần.” thể hiện sự nhung nhớ, dè dặt mà tha thiết, cháy bỏng của người con trai luôn hướng về người mình yêu sau bao năm đằng đẵng. Cách xử lí đoạn hội thoại, sự lém lỉnh pha chút tinh quái của Thủy Tinh, sự bối rối của Mị Nương khiến ta liên tưởng đến cuộc đối thoại của những cặp đôi đang hờn dỗi chứ không phải 2 con người cổ xưa bị luật tục và định kiến ràng buộc. Trong những lời đối thoại ở lượt lời của Thủy Tinh, ta bắt gặp cả những lời độc thoại nội tâm “Và... ý nghĩ cuối cùng khiến tôi đành nén lòng nằm yên chờ sáng... "Biết đâu, em cũng đang ngủ rất ngon, rất say. Thực vô duyên nếu quấy rầy em, nếu làm em dở giấc", hay những đoạn tự trào “... Ô hô! Cuộc đời...” khiến cho lời thoại mang đậm tính cảm xúc và dấu ấn cá nhân. Hóa ra vị thần như Thủy Tinh cũng có những phút giây băn khoăn, xúc động, giằng xé, tinh tế và vị tha, đau đớn và giằng xé.Các đoạn hội thoại sử dụng tối đa dấu “…” để thể hiện sự ngập ngừng của Mị Nương, sự chua chát, nỗi đau khi hồi tưởng lại của Thủy Tinh. Giọng điệu trần thuật nhiều màu sắc Tính đa thanh của truyện ngắn thể hiện qua giọng kể với nhiều cung bậc, nhiều âm sắc. Có chất giọng khi thì sôi nổi, nồng nàn; khi thiết tha, khi trầm buồn của người tình Thuỷ Tinh. Đó là những lời bộc bạch về sự lỡ dở năm ấy, sự oan trái khi bị hiểu lầm sau này, sự tha thiết khi nhớ về những cảm xúc rạo rực ngày đến hỏi cưới, sự bao dung thấu hiểu lúc chia tay. Có giọng điệu ấm áp, trầm tĩnh của một Sơn Tinh trí tuệ và bao dung. Đó là khi chàng biết về sự trở lại của Thủy Tinh "Rõ ràng bên cạnh những việc lớn bộn bề ta phải có trách nhiệm, phải để ý đến vợ ta hơn. Nàng đi đâu, chạy đến đâu, làm gì, hãy để nàn g đi, nàng chạy, nàng làm, nhưng đừng để nàng thiếu ánh sáng chỉ có thể chiếu ra từ mắt ta, từ tâm não ta, ánh sáng chưa bao giờ vẩn đục, chưa một phút mờ ám. ánh sáng lúc nào cũng tinh khôi của núi, ánh sáng soi rọi mọi nẻo đường cho nàng, từ khi nàng về với ta", rồi sự âm trầm thấu hiểu khi nhìn ra mọi truyện “Chàng biết: người thường giao duyên với thần nhân lâu ngày thì đến lúc nào đó, hội với khát vọng, cũng đủ sức phân thân. Ngọn gió ấy chính là Mỵ Nương đấy!” Và cũng có giọng điệu vừa trẻ trung, thơ ngây, nũng nịu vừa đằm thắm của nàng công chúa nền nếp, đoan trang – biết mình yêu và được yêu. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫ n là giọng của người kể chuyện với tấm lòng trẻ thơ đã làm sống dậy những cảm xúc trong sáng, mơ mộng và tạo nên một thế giới cổ tích hoàn hảo. Kết luận “Sự tích những ngày đẹp trời” là một truyện ngắn với theo hơi hướng phản huyền thoại. Cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, lời kể đều được tác giả làm mới như một cách nhìn nhận lại những định kiến và gửi gắm vào đó hình ảnh con người hiện đại đa đoan. Việc sử dụng ngôn ngữ gần gũi, đậm tính khẩu ngữ, diễm tình, hư ảo chủ động xây dựng hội thoại để nhân vật tự nói lên tiếng lòng cùng sự đa dạng trong giọng điệu đã góp phần tạo nên nét đặc sắc cho câu chuyện. Đồng thời, nó đã góp phần tạo nên một bút pháp nghệ thuật độc đáo, riêng biệt của Hòa Vang trong dòng chảy văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đọc tiếp: Ngôn từ nghệ thuật trong Sự tích những ngày đẹp trời của Hòa Vang phần 1
Đặt vấn đề Hòa Vang là một tác giả có phong cách độc đáo trên văn đàn Việt Nam sau giai đoạn đổi mới. Nhiều truyện ngắn của ông như “Sự tích những ngày đẹp trời”, “Nhân sứ”, “Bụt mệt”, “Sự tích con lợn ống tiền”,… mang màu sắc huyền thoại, cổ tích đã góp phần tạo nên dòng văn học giải huyền thoại- một xu hướng sáng tác mới khi tác giả nhìn nhận lại và phản tư với những điều vẫn luôn được công nhận như chân lí. Bài viết này sẽ phân tích ngôn từ nghệ thuật của truyện ngắn được coi là thành công nhất của “hồn văn cổ tích” trong dòng văn học giải huyền thoại này- truyện ngắn “Sự tích những ngày đẹp trời”. Triển khai vấn đề Ngôn ngữ trần thuật mang tính trữ tình, diễm ảo “Sự tích những ngày đẹp trời” được phát triển từ truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh xoay quanh 3 nhân vật chính Sơn Tinh, Thủy Tinh và Mị Nương. Truyền thuyết gốc ban đầu tiết chế trong việc miêu tả nhân vật, tập trung chủ yếu vào những phân đoạn miêu tả cuộc giao tranh ác liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh để tái hiện sự dữ dội và sức tàn phá của thiên tai lũ lụt và công cuộc chế ngự thiên tai của nhân dân ta. Những phân đoạn miêu tả ngoại hình, hành động cũng chỉ để làm nổi bật chức năng của nhân vật, cũng bởi sự quy định của thi pháp nhân vật trong truyện dân gian- kiểu nhân vật chức năng. Đến truyện ngắn “Sự tích những ngày đẹp trời”, Hòa Vang khai thác câu chuyện trên phương diện mới- chủ đề tình yêu. Từ góc nhìn mới, Hoà Vang mang lại ánh sáng lung linh cho cốt truyện mới bằng lời kể giàu chất thơ, giàu cảm hứng lãng mạn. Ông không ngại ngần dùng lối nói du dương, những câu văn vần điệu có khả năng hồi sinh tư duy lãng mạn, hồn nhiên của người đọc, đưa họ về với tuổi hoa niên, yêu và xúc động trước “những lời có cánh” như mạch nước trong ngần, róc rách, mát lành... Nhiều câu văn, đoạn văn miêu tả đậm tính trữ tình, gợi cảm: “Mị Nương đã thầm lặng, riêng tư theo lời ấy. Và đó chính là nguồn gốc của những giọt mưa thu thánh thót ngoài hiên, đem cái se lạnh gợi nhớ để tôn thêm giá trị cái ấm áp của nhữn g ai đang trong khuôn cửa. Độ phong sương trong vắt của tiết giao mùa kề bên mái ấm, thế thôi”; “Biển mênh mông, xanh thắm đến tận mí trời, cợn lên những cụm hoa trắng muốt, trải đến tận bờ đón ngọn gió nhỏ. Những tiếng rì rào, khe khẽ, lặn vào tịch mịch vô biên”... Sự diễm ảo trong ngôn ngữ trần thuật còn đến từ những đoạn miêu tả ngoại hình Mị Nương gợi cảm: “Cái mát tinh khôi thấm vào da thịt”, “nước vờn liếm quanh bàn chân đỏ dậy của mình”, “Ngấn nước vừa chớm chạm ngực thì”,… Ngôn ngữ mạnh bạo, tự nhiên và mang màu sắc nhục cảm thể hiện sự đổi mới trong quan niệm về con người sau 1986. Hòa Vang nhìn nhận lại nhân vật của mình, dù là nhân vật trong truyền thuyết, bằng cái nhìn trần thế với đầy đủ cung bậc cảm xúc riêng tư và bản năng. Có những đoạn ông miêu tả cảnh Thủy Tinh hóa hình ôm Mị Nương trong lòng suối đầy say mê, cuồng nhiệt “dòng suối đang ôm xiết vuốt ve lấy thân thể nàng là một đôi tay cường tráng mà đắm đuối, dịu dàn g của một da thịt, một con người”. Sự diễm ảo còn được thể hiện qua những chi tiết kì ảo. Đó là sự biến hóa hình dạng mang màu sắc huyền thoại của Thủy Tinh khi gặp Mị Nương “Những giọt nước tí xíu vẫn đang trôi bịn rịn trên da thịt nàng, trước khi tuột hẳn, nhập lại vào dòng suối. Những giọt nước ấy ánh sắc hồng ngọc, dần tụ lại và đột khởi, trong không gian tĩnh lặng, như dội cả dòng suối lên. Nước suối cuộn sóng, dựng đứng lên, thành một chàng trai tuyệt vời đẹp và buồn.”. Đó cũng có thể là sự diễm ảo trong cách giao lưu tinh thần giữa Mị Nương và Thủy Tinh ở cuối truyện “Chỉ riêng Mỵ Nương nghe thấu tiếng sóng ngậm trong các thớ vách gỗ ấy.” và “Có một ngọn gió thơm mát, không từ ngoài trời thổi vào, mà vừa từ trong phòng riêng này cộn lên và bay qua cửa sổ, tung tăng bay đi, chạy đi” - ngọn gió ấy chính là Mị Nương đấy. Yếu tố huyền ảo được tận dụng để tạo nên một cái kết bất ngờ- như một sự bù đắp cho tình yêu nồng nhiệt, chân thành của Thủy Tinh và trái tim tươi trẻ khao khát yêu thương của Mị Nương. Đọc tiếp: Ngôn từ nghệ thuật trong Sự tích những ngày đẹp trời của Hòa Vang phần 2
Nhận xét và đánh giá về thời gian trong chùm ca dao than thân: + Thời gian thực ở hiện tại - tương lai: Cái hiện tại của thời gian ca dao thường được đánh đấu bằng các công thức, mô típ như: “bây giờ”, “hôm nay”, “nào khi”, “sáng ngày”, “trưa”, “chiều chiều”, “đêm”… mà khi chỉ cần nhắc tới khoảng thời gian đó, cụm từ đó thôi cũng đủ để người nghe phần nào thấy được nét tâm trạng của nhân vật trữ tình. Như khoảng thời gian “chiều chiều” trong ca dao đã nói hộ người con gái lấy chồng xa biết bao tình cảm, tâm tư về sự nhớ nhà, nhớ quê hương trong lòng ruột đau như cắt. “Chiều chiều ra đứng bờ sông/ Muốn về với mẹ mà không có đò.” Thời gian của tương lai được đối chiếu cùng hiện tại: “một mai”; “nay… mai” như “Thân em như rau muống dưới hồ/ Nay chìm mai nổi biết ngày mô cho thành?” gợi cảm giác mơ hồ, mông lung trước cuộc sống đầy bấp bênh của người phụ nữ. + Thời gian tâm lý mang tính tượng trưng, ước lệ, mang tính chủ quan của nhân vật tưởng tượng hư cấu mà nên. Trong bài ca dao: “Chiều chiều ra đứng bờ ao/ Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ…” Thời gian ước lệ “chiều chiều” đã vượt ra khỏi “cái lý thông thường” rằng chỉ có ban đêm mới có thể nhìn thấy sao “trông sao, sao mờ”. Thời gian ở đây ước chỉ “cái lý của lòng người”, “cái logic của tâm trạng” phần nào bộc bạch được tâm trạng của nhân vật trữ tình, nỗi nhớ khắc khoải trong tình yêu. Thời gian trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng thời gian của tác giả và thời gian của người diễn xướng và cả thời gian của người thưởng thức hòa làm một. Thời gian đó luôn luôn là thời gian hiện tại. Dấu hiệu biểu hiện qua các từ “hôm nay”, “bây giờ”, “chiều chiều”, “bữa nay”, “đêm đêm”, ...Thời gian trong ca dao là thời gian của quá khứ gần, của tâm tưởng. Các từ chỉ thường đứng đầu câu để làm trạng ngữ. Ca dao sử dụng hàng loạt cụm từ để chỉ thời gian: “hôm nay”, “bây giờ”, “chiều chiều”, “đêm đêm”, “hôm qua”,“ đêm qua”, “sáng ngày”, “khi xưa”…Nói chung thời gian nghệ thuật trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách qua n, lại vừa là thời gian của sự hư cấu, tưởng tượng, mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình. Khi thời gian không chỉ là một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, mà còn là một phương tiện nghệ thuật được mượn đến để làm phát lộ cảm xúc - tâm lí của nhân vật trữ tình thì thời gian hoàn toàn do chủ quan của nhân vật tưởng tượng hư cấu mà nên. Trong những trường hợp như thế, thời gian thường mang tính ước lệ, tượng trưng để có thể dùng chung cho nhiều người, ở nhiều thời điểm và địa điểm khác nhau. Tổng kết: Qua chùm ca dao than thân, thời gian nghệ thuật được khắc họa một cách đặc sắc và phong phú. Từ thời gian nghệ thuật, những tâm trạng và cảm xúc của con người trong ca dao được bộc lộ và thể hiện một cách chân thực nhất. Đặc biệt, thời gian trong ca dao than thân còn là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc thể hiện được những nỗi đau, niềm thương và sự xót xa cho số phận của con người. Con người trong ca dao luôn được nâng niu, cảm thông và đề cao dù họ có là phận gái bị khinh miệt trong xã hội. Chính vì thế, ca dao là cuốn tuyển tập sống động những giá trị, lời nói của nhân dân Việt Nam trong xã hội xưa. Thời gian nghệ thuật trong ca dao là một yếu tố quan trọng và đã trở thành những nền tảng đầu tiên cho thời gian trong thơ ca Việt Nam phát triển hơn. Qua đó, tìm hiểu và trân trọng những giá trị mà ca dao mang lại chính là trân trọng và nâng niu những giá trị quý báu của truyền thống dân tộc, đặc biệt hơn là của nền văn học dân gian của người Việt.
2 Không gian gắn với văn hóa miền biển Trong tác phẩm, nhà văn Sương Nguyệt Minh đã sáng tạo một hệ thống các địa danh gắn với các huyền thoại biển: Đồi Con Gái, vụng Đàn Bà, bãi cát Khỏa Trần, giếng Ngọc. Các địa danh này đều gắn với câu chuyện huyền thoại về người con gái và rất nhiều sự kiện kì bí diễn ra ở đảo Man. Những địa danh này cùng với miêu tả của tác giả về các miếu, các đình chùa thờ cúng đã tái hiện khung cảnh làng chài rất đặc trưng. “Các chú không biết chứ cái vụng biển này là vụng Đàn Bà, đồi kia là Đồi Con Gái, bãi cát đây là bãi cát Khỏa Trần. Cái tên Đàn Bà, Con Gái, Khoả Trần có từ bao giờ chẳng rõ…”, “Đàn Bà nguyên là cô gái trẻ cùng gia đình thuyền chài nào đó bị bọn hải tặc hiếp chết rồi quẳng xuống biển. Một buổi chiều tối, thân xác cô gái trôi dạt vào mỏm phía bắc đảo… Dân đảo chưa kịp chôn, sáng hôm sau mối đã đùn lên xác cô thành ngôi mộ hình người con gái khổng lồ.” [2] Bên cạnh đó, tác giả còn tái hiện không gian lễ hội của người dân vạn chài: được làm sống dậy qua lời kể của nhân vật lão Trần, không gian nàykhá đặc biệt bởi nó cho thấy rõ văn hóa và đời sống tâm linh của người dân biển qua ngòi bút Sương Nguyệt Minh. Đó là một thế hệ người dành long tôn kính của mình cho mẹ thiên nhiên, tin tưởng vào những lễ nghi, hi vọng vào sự sinh sôi nảy nở mà trời đất ban tặng cho mình. Bởi thế mà nước giếng Ngọc mới linh thiêng và khiến dân vạn chài thờ tụng đến như vậy. Ý nghĩa Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Đồi Con Gái được xây dựng mang màu sắc huyền bí, kì ảo. Không gian có ý nghĩa gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc đồng thời cũng là nơi để nhân vật thể hiện và ghi dấu ấn. Chính không gian rừng và biển đầy biến động và sâu thẳm đã khiến cho câu chuyện về cuộc đời lão Trần và người vợ thêm phần huyền ảo. Một con người kì dị, ban đêm kéo hồ ai oán, ban ngày đi lùng sục khắp các miếu, các hang động và giếng cổ khi được đặt trong không gian đảo nhỏ biệt lập với đất liền, trong những rì rào của biển đêm thì những bí ẩn trong số phận ấy mới càng lôi cuốn người đọc. Từ đó, tác giả cũng khắc họa số phận người phụ nữ miền biển, có thể nói đó là số phận đầy bi kịch khi luôn ngóng đợi tình yêu thương của đời mình, đánh cược hạnh phúc với biển khơi. Bên cạnh đó, không gian mang đậm màu sắc huyền thoại đã khắc hoạt đậm nét số phận của con người, cụ thể hơn là người dân miền biển: sống chết, hạnh phúc hay đau khổ đều phụ thuộc vào biển, vào rừng, vào tự nhiên. Đặc biệt, việc khắc họa không gian đảo Man và đời sống tâm linh, những niềm tin vào thần thoại đã thể hiện sự tìm tòi cũng như am hiểu của tác giả về đời sống của làng chài. Kết luận Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Đồi Con Gái được sáng tạo qua ngòi bút của Sương Nguyệt Minh đã tái hiện một không gian đảo nhỏ, hoang sơ, huyền bí và đặc biệt đã gợi dẫn đến những số phận người dân làng chài đầy lam lũ, vất vả. Dù là đàn ông hay đàn bà thì họ cũng đều mang những bất hạnh riêng. Điều đó thể hiện sự cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với thân phận người và sự am hiểu văn hóa bản địa. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Đồi Con Gái của Sương Nguyệt Minh phần 1
Tóm tắt: Không gian nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với một tác phẩm văn học. Tìm hiểu không gian nghệ thuật trong tác phẩm Đồi Con Gái sẽ giúp người đọc hiểu hơn về chất kì ảo, siêu thực trong văn chương Sương Nguyệt Minh, cũng như bối cảnh văn hóa của tác phẩm. Từ khóa: không gian nghệ thuật, Đồi Con Gái, Sương Nguyệt Minh Mở đầu Không gian nghệ thuật không chỉ là đơn giản là tái hiện không gian của hiện thực chúng ta đang sống mà còn là không gian qua lăng kính sáng tạo của nhà văn, thể hiện quan niệm không gian của con người, và rộng hơn nữa là của cả một nền văn hoá. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, có chức năng biểu nghĩa và có giá trị thẩm mĩ. Tìm hiểu không gian nghệ thuật là tìm hiểu vấn đề nội tại của tác phẩm nghệ thuật, từ đó hiểu được ý đồ nghệ thuật, quan điểm nghệ thuật cũng như phong cách sáng tác của tác giả. Việc phân tích không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Đồi Con Gái cũng phần nào giúp người đọc hiểu hơn về khuynh hướng sáng tác và phong cách nghệ thuật của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Nội dung Truyện ngắn Đồi Con Gái và nhà văn Sương Nguyệt Minh Nhà văn Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, ông xuất thân từ quân đội, là một nhà văn hiện đại và đang được biết đến rộng rãi hơn khi tác phẩm của ông được đưa vào chương trình Ngữ Văn 10. Ông nổi tiếng với những tác phẩm viết về đề tài hậu chiến như Người về bến sông Châu, Mười ba bến nước,... Các tác phẩm của Sương Nguyệt Minh chủ yếu viết về bi kịch của con người thời hiện đại, từ nỗi đau của số phận bước ra từ chiến tranh đến những số phận con người thành thị với những nỗi cô đơn trống rỗng trong dòng chảy của đời sống. Văn chương Sương Nguyệt Minh được đánh giá là “đầy chất trào lộng, châm biếm, dí dỏm mà cũng thật chua cay...” [1] Truyện ngắn Đồi Con Gái được sáng tác vào cuối năm 2007, sau khi nhà văn có chuyến công tác lên vùng Đông Bắc và ghé qua Quan Lạn. Chính Sương Nguyệt Minh đã chia sẻ rằng ông rất ấn tượng với vẻ đẹp hoang sơ kì bí, với những câu chuyện thần thoại ở nơi đây. Từ đó, ông đã sáng tác truyện ngắn Đồi Con Gái, vừa thể hiện vẻ đẹp của hòn đảo vừa gửi gắm những suy ngẫm về số phận con người. Không chỉ vậy, truyện ngắn Đồi Con Gái còn là sự chuyển mình rõ nét của nhà văn, từ những câu chuyện thế sự đời tư sang khuynh hướng kì ảo nhưng vẫn tập trung vào khắc họa số phận bi kịch của con người dưới nhãn quan giới. Truyện ngắn Đồi Con Gái có nhiều điểm ấn tượng và bài viết này tập trung phân tích không gian nghệ thuật trong tác phẩm. Không gian trong tác phẩm Không gian đảo Man được tác giả khắc họa tương đối rõ nét trong tác phẩm. Không gian nghệ thuật này được sáng tạo qua ngòi bút của Sương Nguyệt Minh, vừa mang ý nghĩa văn hóa vừa có ý đồ sáng tạo nghệ thuật. Vậy không gian nghệ thuật trong Đồi Con Gái được xây dựng và thể hiện như thế nào? 1 Không gian như một gợi dẫn về số phận con người Ngay từ mở đầu truyện ngắn, tác giả đã miêu tả rất chi tiết về không gian của đảo: “Tôi ra đảo Man. Hòn đảo nhỏ nhoi giữa trùng khơi vịnh Bái Tử Long. Rừng nguyên sinh nhiệt đới ẩm ướt, rậm rạp nhiều tầng, cây cổ thụ, cây tạp và dây leo nhằng nhịt... Dân vạn chài lập miếu cô hồn, thổ địa, đền thờ thần linh... ở nhiều nơi trên đảo. Mấy năm nay, luồng gió kinh tế thị trường thổi tràn ra đảo Man; vẫn chưa đủ mạnh để đảo hết hoang sơ, âm u, huyền hoặc, bí ẩn”. [2] Đây là không gian thiên nhiên rất hoang sơ, kì vĩ nhưng cũng ẩn chứa nhiều bí mật. Đó không chỉ là sự kì bí của thế giới tự nhiên mà còn là sự bí ẩn của số phận con người. Không gian nghệ thuật bao trùm là không gian đảo nhỏ và trong đó, được nhắc đến nhiều nhất là không gian rừng và biển. Đây cũng là không gian đặc trưng của miền biển khi một bên là biển một bên là những cánh rừng phi lao chắn sóng biển. Trước hết, đó là không gian rừng. Không gian rừng được miêu tả hoang sơ, rậm rạp, cổ kính và đều là khung cảnh rừng đêm. Đặt nhân vật vào không gian này tác giả đã khắc họa phần nào sự bí ẩn khi nhân vật nhà văn liên tục đi xuyên qua những cánh rừng đêm, vừa thể hiện tâm thế sợ hãi trước sự hoang sơ đảo nhỏ, vừa gợi đến việc nhân vật đang đi tìm những “sự thật” của hòn đảo này. Bên cạnh đó, tác giả xây dựng không gian biển, cũng tương tự với không gian rừng, biển chủ yếu được miêu tả ở trạng thái đêm với ánh trăng, những ngôi sao xa và đặc biệt nhấn mạnh ở sự bao la mênh mông của biển. Không gian biển vốn gợi lên cảm giác bấp bênh vô định, và trong truyện ngắn này những biến cố trong cuộc đời con người cũng gắn liền với không gian biển. Đó là ngày lão Trần bị bão biển đánh tan con thuyền và ông cũng nghi ngờ sự chung thủy của người vợ ở nhà. Đó cũng là ngày con thuyền của lão Trần và vợ lênh đênh trên biển săn cá mõm lợn và chính cuộc đi săn này kết thúc cuộc đời vợ lão Trần, lão Trần cũng bỏ nghề đánh cá từ đó. Có thể thấy, cuộc sống trên biển rất lênh đênh, vô định, biển cho người dân cuộc sống nhưng cũng chính biển đã chứng kiến những bi kịch của người dân vạn chài. Như vậy, có thể thấy, việc xây dựng không gian đảo Man với rừng, biển và gắn với thời gian đêm tối đã thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả, đó là khắc họa không gian kì bí, huyền hoặc, không gian này rất phù hợp với thể loại truyện kì ảo. Chính trong không gian này, tác giả đã đặt những nhân vật “kì dị” như lão Trần hay nhân vật “kì ảo” như người phụ nữ liên tục xuất hiện trong giấc mơ của nhân vật nhà văn. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Đồi con gái của Sương Nguyệt Minh phần 2
Tính lạ hóa và lệch chuẩn Có lẽ, sẽ không quá lời khi nhận xét rằng nhà văn Vũ Bằng quả là “bậc thầy ngôn từ trữ tình”. Tính lạ hóa và lệch chuẩn trong ngôn từ của nhà văn được thể hiện qua những từ ngữ phá cách, tưởng chừng như không thể kết hợp lại với nhau. Nhưng khi ghép lại giải nghĩa ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa bên trong. Những từ ngữ kì lạ và lệch chuẩn đó có thể kể đến như: “con tim có cánh”, “bầu không khí biêng biếc sầu”, “buổi tà huân”, “trời đất xuống màu”, “mây đỏ đòng đọc”, “buổi trưa tiền kiếp”,. Hay trong tập tùy bút “Thương nhớ Mười Hai”, nhà văn Vũ Bằng còn dùng những câu tiếng Việt không có chủ ngữ như: “Hỡi những người mày móc, đừng có bảo những đồng bào ấy là những người hưởng lạc. Bị kẹt trong một cái thế hết xâm lăng nọ đến quân cướp nước kia, với những tài nguyên chưa có bao giờ khai thác, họ, những người phương Bắc, phải chiến đầu không ngừng, đổi bát mồ hôi lấy bát cơm để sống, nhưng họ không vì thế mà phải chạy ngược chạy xuôi, phờ râu trớn mắt để đánh vật với đồng tiền”. Tác giả đã cố tình lược bỏ đi phần chủ ngữ và thay vào để ngầm nhấn mạnh cái chủ thể “bị kẹt” ấy chính là đồng bào, là dân tộc, là xóm làng ở “Bắc Việt thương mến”. Ta còn bắt gặp những câu văn có cú pháp mới lạ như: “nắng giết người”, “nắng ức cả ngực”, “tiếng cười như xé lụa”,… để thể hiện nỗi nhớ dâng trào, mãnh liệt, cuộn trào trong lòng tác giả. Không dừng lại ở đó, tính lạ hóa và lệch chuẩn còn được hiện lên qua cách nhà văn sử dụng các trường liên tưởng cùng các thủ pháp tu từ để biểu đạt nội dung mang hàm ý sâu sắc hơn. Điển hình khi bày tỏ nỗi sầu của người cô chích, nhà văn đã so sánh như sau: “Lòng người xa nhà y như thể là khúc gỗ bị mối ăn, mục nát từ lúc nào không biết”, “con tim của người khách tương tư cố lý cũng đau ốm y như là gỗ mục”, “cảm như có hàng ngàn vạn con mọt nhỏ li ti vừa rung cánh o o vừa đục khoét con tim bệnh tật”. Hay khi viết về cảm giác của một con người đang đứng trước mùa xuân, nhà văn Vũ Bằng so sánh cảm giác đó giống với nhựa sống của một chú nai đang căng lên “nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ ti ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh” để thể hiện tình cảm dành cho mùa xuân “Bắc Việt”. Có đôi khi tác giả lại so sánh thiên nhiên mang những tâm trạng, cảm xúc của con người: Trăng tháng giêng thì “non như người con gái mơn mởn đào tơ”, tiếng của sóng được ví với“có vẻ như thủ thỉ ân tình”,.. Tính thẩm mỹ Nhà văn Vũ Bằng đã biến hóa cấu trúc từ ngữ thông thường thành một cấu trúc riêng rất “Vũ Bằng”. Điều này tạo nên tính thẩm mỹ cho “Thương nhớ Mười Hai”. Khi bộc lộ những niềm nhớ mong của mình với từng tháng trong một năm, tác giả viết “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – Mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến” hay “Yêu quá cái đêm tháng hai ở đất Bắc; thương quá cái đêm tháng hai ở Bắc, thành ra cái gì cũng thấy qua đi nhanh quá”. Đây là những câu văn có cấu trúc đặc biệt kết hơp giữa hai thành phần của tiếng Việt đó là cảm thán và phụ chú. Rõ ràng nhà văn đã cố tình sai cú pháp nhưng lại mang đến tác dụng về tính thẩm mỹ trong việc thể hiện những cảm xúc bồi hồi khi nhớ về Hà Nội vào mỗi tháng khác nhau. KẾT LUẬN Tóm lại những phân tích về ngôn từ nghệ thuật trong tập tùy bút “Thương nhớ Mười Hai” của nhà văn Vũ Bằng, có thể thấy rằng cách sử dụng và lựa chọn từ ngữ của nhà văn gốc Hà Nội này vô cùng đa dạng và sáng tạo nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình và chất thơ. Từ đó để thấy được cảm hứng bao trùm của cả tập truyện đó chính là nỗi nhớ quê hương nồng nàn, thiết tha. Đôi khi đó còn là sự day dứt khi tác giả hồi tưởng lại những kí ức về thủ đô mến yêu. Chung quy lại, khi phân tích một tác phẩm văn học ở góc độ thi pháp học, cụ thể là qua yếu tố ngôn từ, ta sẽ có một cái nhìn cụ thể nhất về hình thức nghệ thuật bên trong và bên ngoài của chính tác phẩm đó. Đọc tiếp: Ngôn từ nghệ thuật trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng phần 1
3 Các đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật được biểu hiện trong tập tùy bút “Thương nhớ Mười Hai” của nhà văn Vũ Bằng. Tính hư cấu và tính hình tượng Đặc trưng đầu tiên về tính hư cấu trong ngôn từ nghệ thuật của tùy bút “Thương nhớ Mười Hai”. Nhà văn đã ẩn mình để thể hiện chủ thể lời nói. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài đầu tiên có tên là “Tháng Giêng, mơ về trăng non, rét ngọt”. Vũ Bằng viếtt rằng “Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu tiên của mùa xuâ n, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết”. Như vậy ở đây, ta thấy người viết không hề nhận mình là người yêu mùa xuân mà chỉ là người mang đến thông tin cho người đọc tiếp nhận rằng mọi người ai cũng yêu mùa xuân. Kế đến đặc trưng về tính hình tượng trong “Thương nhớ Mười Hai”. Hoặc khi đọc tác phẩm, ta biết rằng trong nỗi nhớ về quê hương, Vũ Bằng còn nhắc đến một vợ của mình. Nhưng thay vì viết rằng tôi rất nhớ vợ của tôi, tác giả lại giấu mình đi và để chủ thể lời nói trong bài là “Người chồng”, “Người vợ”. Vậy tính hư cấu ở đây không những tuân theo đúng bản chất của nó mà còn giúp nhà văn thể hiện tình cảm với vợ một cách tinh tế và ý nhị. Nói về tính hình tượng, đây có lẽ chính là yếu tố sở trường của nhà văn Vũ Bằng nếu nhìn từ đặc trưng ngôn từ. Vì tính hình tượng trong “Thương nhớ Mười Hai” được tác giả khắc họa rất nổi bật qua hệ thống cách sử dụng và lựa chọn từ ngữ vừa giản dị lại vừa đậm chất trữ tình. Có thể lấy ví dụ từ “nhớ”. Chỉ là một từ đơn giản nhưng qua cây bút đậm chất thơ của nhà văn Vũ Bằng, “nhớ” được mang thêm nhiều sắc thái và đa dạng hơn rất nhiều với: “nhớ quá”, “nhớ không biết bao nhiêu”, “nhớ không biết chừng nào là nhớ”, “nhớ sao nhớ quá thế này”, “nhớ quá chừng là nhớ”, “nhớ ơi”, “nhớ sao nhớ quá thế này”, “nhớ Bắc Việt ngày trước quá”, “nhớ ơi là nhớ”…Không những vậy, từ “nhớ” còn được sắp xếp đứng cùng với ngữ danh, danh từ: “nhớ nhà”, “nhớ cửa”, “nhớ những con đường đã đi về”, “nhớ những nét mặt thương yêu”, “nhớ người bạn chiếu chăn”, “nhớ cá mè, rau rút”, “nhớ người mẹ ru con”,…Người đọc quả thực như được tắm trong một cơn mưa nỗi nhớ. Tính hình tượng ở đây chính là nỗi nhớ quê hương mà tác giả Vũ Bằng muốn nhấn mạnh. Thêm một điểm nữa ở tính hình tượng trong ngôn từ khi nhà văn sử dụng những từ láy đậm chất Việt Nam vừa giàu hình ảnh lại giàu sức gợi: “riêu riêu”, “lành lạnh”, “se sắt”, “trầm trầm”, “rầu rầu”, “rợn rợn”, “tê mê”,… Những từ láy này càng mang đến hiệu quả cho người đọc thấy được sự day dứt của thi nhân khi hồi tưởng về quê hương của mình. Tính nội chỉ Trong tùy bút “Thương nhớ Mười Hai”, tính nội chỉ được thể hiện qua tình thương, nỗi nhớ nhà văn Vũ Bằng dành cho Hà Nội và dành cho người bạn đường đời của mình. Đối với Hà Nội, vì đây là một tập truyện theo thể loại nên tình cảm, cảm xúc của người viết thể hiện rất rõ: “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – Mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”, “Nói đến Tết ở miền Bắc thì trăm nhớ nghìn thương, chớ đâuu chỉ có đào, câu đối và cây nêu như nhà thơ xa cố quận nhờ nhạn đưa thư về hỏi thă m chị Trúc?” hay “Tháng tư của miền Bắc ngày xưa, tháng tư yêu dấu có nóng, có oi, có dế kêu, có muỗi đốt nhưng tất cả những cái đó có thấm vào đâu với những buổi bình min h nạm vàng, mở mắt ra nhìn lên cao thì thấy mây bay thong thả như trời khảm bằng xà cừ, gió hây hây mát, mở cửa đi ra đường thì cảm thấy cả trời đất trong như là pha lê mà cái than mình nhẹ tênh tênh như là có cánh”,.. Ngoài tình cảm dành cho quê hương “Bắc Việt”, nhà văn còn ẩn ý nói về người vợ của mình: “Thấy gió thu, Trương Hàn đương làm quan tại triều nhớ đến rau rút, cá mè ở quê hương. Người lữ khách ngày nay, xa cách quê hương, thấy tháng hai trở về, cũng động lòng nhớ tiếc không biết bao nhiêu miến g ăn ngon, không biết bao nhiêu tình thương yêu đã mất. Nhớ từng con đường mưa bay riêu riêu cùng vợ đi nhởn nha ven hồ Bảy Mẫu nhớ đi, nhớ những đêm trèo lên ngọn đồi trên đường về Pháp Vân hái một trái cam vừa ăn vừa nghe tiếng trống chèo ở xa xa vọng về mà nhớ lại. Nhớ quá chừng là nhớ, thương khôn g biết ngần nào mà thương. Thương nhất là người vợ bé nhỏ yêu chồng, mùa nào thức nấy, không bao giờ phải đợi cho chồng phải nói lên sự ước mơ”. Theo tìm hiểu, vợ của nhà văn Vũ Bằng là bà Nguyễn Thị Quỳ - Nguồn cảm hứng bất tận để sáng tác của tác giả. Đọc tiếp: Ngôn từ nghệ thuật trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng phần 3
Tóm tắt: Nghiên cứu tác phẩm văn học qua góc độ thi pháp học và cụ thể hơn qua nghệ thuật ngôn từ. Và qua các đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ được làm rõ trong tập tùy bút “Thương nhớ Mười Hai” để thấy được một Vũ Bằng rất yêu Hà Nội và cách chọn từ ngữ vừa lạ vừa quen của nhà văn này. Từ khóa: Ngôn từ nghệ thuật, Vũ Bằng, tùy bút “Thương nhớ Mười Hai”. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo tiến sĩ Phạm Ngọc Hiền “Thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội... Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật - không gian - thời gian, kết cấu - cốt truyện - điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại...”. Như vậy tiếp cận một tác phẩm văn học qua thi pháp học và cụ thể là qua yếu tố ngôn từ giống như được ban tặng thêm nhãn quan để đọc hiểu tác phẩm văn đó một cách sâu sắc và tường tận hơn về nội dung và ý nghĩa. Theo Gs Trần Đình Sử “Ở văn xuôi Việt Nam hiện đại, chưa thấy có những công trình nghiên cứu thi pháp ngôn ngữ văn xuôi” [1]. Chính vì vậy nguồn tài liệu tham khảo khi đi theo hướng nghiên cứu này sẽ rất hạn hẹp và gần như không có. Nếu có hầu hết sẽ về lý thuyết hay những phân tích ví dụ qua các bài thơ. Nhưng bởi là một người con sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Hà Nội cộng với sự tò mò muốn tìm hiểu sâu hơn nữa về ngôn từ nghệ thuật của một con người cũng có một tình yêu nồng nàn với Hà Nội là Vũ Bằng, nên tôi chọn đề tài seminar của môn thi pháp là “Ngôn ngữ nghệ thuật trong tập tùy bút Thương nhớ Mười Hai của nhà văn Vũ Bằng”. Trong bài này, tôi sẽ nêu bật các đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật được thể hiện trong tập tùy bút. Từ đó giúp người đọc có thể tìm hiểu một cách có hệ thống, logic hơn về tác phẩm này. NỘI DUNG 1 Lý thuyết Ngôn từ nghệ thuật Theo giáo sư Trần Đình Sử “Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Nhưng nghệ thuật ngôn từ từ xa xưa đã bao gồm không chỉ thơ trữ tình, kịch, sử thi, mà bao gồm cả nghệ thuật hùng biện dùng trong giảng đạo, trong xét xử, trong diễn thuyết chính trị trước công chúng […] Vì vậy ngôn từ văn học là một hiện tượng nghệ thuật”. Như vậy ở đây ta hiểu rằng ngôn từ nghệ thuật là ngôn từ trong văn học khác với ngôn từ tự nhiên ngoài đời thường ta hay dùng. Chính vì vậy khi phân tích ngôn từ nghệ thuật trong một tác phẩm văn học nào đó là chỉ ra các đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm đó. Đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật Các đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật bao gồm bốn đặc trưng, đó là: “Tính hư cấu và tính hình tượng”; “tính nội chỉ của ngôn từ văn học”; “tính lạ hóa và lệch chuẩn” và “tính thẩm mỹ” Đầu tiên là “Tính hư cấu và hình tượng” gồm hai yếu tố hư cấu và hình tượng. Hư cấu ở đây được hiểu đó là người viết ẩn mình đi để chủ thể lời nói thể hiện tâm tư, tình cảm. Tác giả chỉ là người truyền đi những tâm tư đó một cách gián tiếp. Còn tính hình tượng chính là chủ thể lời nói. Đây hoàn toàn là sản phẩm của sự tưởng tượng do tác giả tạo ra. Để dễ hình dung, thông thường tính hình tượng còn được thể hiện qua các biện pháp tu từ. Tiếp theo là “Tính nội chỉ của ngôn từ văn học” được hiểu là cách thức mà nhà văn dùng để sáng tạo ra hình tượng trong tác phẩm văn học cũng như là phương thức để nhà văn gửi gắm những tâm tình, tư tưởng, tình cảm vào trong đó. Và tính nội chỉ là đặc trưng chủ yếu nhất trong ngôn từ nghệ thuật. Tính nội chỉ được thể hiện qua từ, câu, các tổ hợp trong câu để vẽ lên cho người đọc về thực tại nghệ thuật. Và kế đến là đặc trưng đó là “Tính lạ hóa và lệch chuẩn” trong ngôn từ văn học. Đặc trưng này có nghĩa là nhà văn dỡ bở mọi quy chuẩn về việc sử dụng ngôn từ để sáng tạo ra sắp xếp lại thành một cấu trúc khác. Và cấu trúc sẽ đi theo một quy tắc nghệ thuật riêng Cuối cùng là đặc trưng về “Tính thẩm mỹ” trong ngôn từ nghệ thuật. Đây được coi là một trong những đặc trưng mang lại giá trị cho một tác phẩm văn học. Bởi chung quy lại tất cả những đặc trưng trên dù có thay đổi, biến hóa hay sáng tạo tới đâu thì đều phải cho người đọc thấy được sự hài hòa, cân đối, trọn vẹn để gây ấn tượng tốt nhất. Và đặc trưng thẩm mỹ của ngôn từ nghệ thuật không bao giờ bị bó buộc phải theo một khuôn phép mà đa dạng và linh hoạt hơn. Thậm chí tính thẩm mỹ còn không có sự lặp lại giữa các tác phẩm. 2 Khái quát về nhà văn Vũ Bằng và tập tùy bút “Thương nhớ Mười Hai” Nhà văn Vũ Bằng Ông là nhà văn chuyên viết về thể loại tùy bút, bút kí. Đặc biệt, tùy bút của Vũ Bằng luôn mang đậm chất trữ tình và chất thơ và mở ra cho độc giả vào thế giới nội tâm tinh tế và phong phú. Một số tác phẩm nổi bật của ông có thể kể đến đó là “Miếng ngon Hà Nội”, “Món lạ miền Nam”, “Thương nhớ Mười Hai”,... Tập tùy bút “Thương nhớ Mười Hai” “Thương nhớ Mười Hai” là một tập tùy bút viết về quê hương của tác giả. Vũ Bằng là một người con đến từ Hà Nội “nghìn năm văn hiến”. Tác giả sau này phải rời xa mảnh đất ấy để vào miền nam sinh sống. Và trong nỗi nhớ về Hà Nội, về miền bắc, về quê hương, nhà văn đã viết ra tập tùy bút này. “Thương nhớ Mười Hai” gồm 13 bài tùy bút tương ứng với 12 tháng trong một năm và một bài viết về Tết ở Hà Nội. Trong tập tùy bút này, ta dễ dàng nhận ra được bản sắc văn hóa của thủ đô qua sự hồi tưởng của tác giả. Đọc tiếp: Ngôn từ nghệ thuật trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng phần 2