Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Dịu dàng, ấm áp và nhẹ nhàng, là những cảm nhận chung khi nói về các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Không quá ồn ào, vội vã hay những tình tiết bất ngờ vẫn làm người đọc phải bồi hồi, đan xen vào trong những câu chuyện vui buồn, của tuổi mới lớn, mong manh và trong sáng như những hạt sương sa, những ký ức tuổi thơ, thời cắp sách tới trường, tình cảm gia đình, bạn bè, và cả những rung động đầu đời ngây ngô. Mỗi câu chuyện, dù được đặt trong bối cảnh nào, dù là những ngày đầu tựu trường, dù là một sớm mùa hè bất chợt, dù là khoảng sân, mảnh vườn, sân trường, lớp học, thì những khun g cảnh đó cũng chưa bao giờ ngừng làm nao lòng người đọc bởi những nét gợi nhớ, nét man mác buồn mà chúng đã ghi tạc lại. Trong phạm vi của nghiên cứu này, bài viết sẽ tìm hiểu về không gian và thời gian nghệ thuật trong những sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, từ đó lý giải về sức hút mãnh liệt của các tác phẩm đó. KHÁI NIỆM VỀ THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT Khái niệm thời gian nghệ thuật “Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một hiện tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh và tổ chức tác phẩm”- Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm Thời gian nghệ thuật là phạm trù nghệ thuật, là một hình tượng nghệ thuật và là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ để thể hiện quan niệm về thế giới. Là thế giới mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài ngắn khác nhau, tốc độ nhanh chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại - quá khứ - tương lai khác nhau.   Khái niệm không gian nghệ thuật “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan điểm nhất định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về không gian địa lý, hay không gian vật lý, vật chất” - Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm Không gian nghệ thuật là mô hìn h không gian của thế giới nghệ thuật. Sự đối lập và liên hệ của các yếu tố thời gian (các miền, các chiều, các phương vị,…) tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật để biểu hiện thế giới quan của tác phẩm Không gian nghệ thuật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc miêu tả cuộc sống, bộc lộ tư tưởng, tình cảm, tâm hồn con người của tác giả. Vai trò của không gian nghệ thuật vừa để xác định nơi chốn, địa điểm diễn ra các sự kiện, có thể liên kết đường dây cốt truyện, nó còn là một kí hiệu đặc biệt để diễn đạt những phạm trù ngoài thời gian, hoặc để thể hiện tâm trạng của nhân vật, đánh giá nhân vật đó về mặt đạo đức, thẩm mỹ. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 2

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

  Không gian căn phòng của từng gia đình nhỏ Căn nhà nhỏ của ông Bằng là nơi sinh hoạt của một đại gia đình lớn nói chung và ba gia đình nhỏ nói riêng. Với căn phòng của Lý và Đông, đó là một căn buồng “tuềnh toàng và thiếu ngăn nắp”, “buồng rộng, đồ đạc có vẻ nhiều nhưng tất cả đều gói kín trong các bao tải, túi nilong, hòm gỗ, hòm sắt giúi dưới gầm giường, gầm tủ và chất đống ở một góc nhà”. Đó là một căn buồng “không có sự kê dọn, bài trí”. Dường như căn buồng cũng nói lên phần nào được tính cách của chủ nhân nó. Lý, bên ngoài là một người ưa đẹp, ưa sạch sẽ và khéo léo, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn chị chất chứa nhiều nỗi niềm, nhiều suy nghĩ chưa đúng đắn nhưng lại không có người giúp chị sắp xếp lại, không có ai định hướng chị đến con đường đúng đắn. Mối quan hệ của Đông và Lý dường như cũng lộn xộn như căn buồng nhỏ nơi hai người sinh sống. Hay như căn buồng của gia đình Phượng và Luận, nơi mà với Phượng “tất cả những mệt nhọc, buồn phiền, kinh sợ đều dừng lại ở ngưỡng cửa căn buồng”. Căn buồng của gia đình Phượng Luận là một căn buồng nhỏ hẹp “ghép hai cái giường cá nhân thành một giường đôi, chỉ còn hở một lối vừa người đi. Khoảng trống phía trong là nơi làm việc bếp núc”, tất cả những gì cần có cho một gia đình đều hiện hữu trong không gian nhỏ hẹp ấy. Căn buồng là một vũ trụ thu nhỏ, nơi có “hai con người hiểu nhau, tôn trọng nhau, dắt dìu nhau”. Căn buồng của ông Bằng cũng cho thấy rõ những nét tính cách, những suy tư quan niệm của ông về cuộc sống. Căn phòng ấy “có máy đánh chữ, hộp bút, mấy cuốn sách đang đọc, kê sát cái tủ sách ăm ắp từ điển, sách tra cứu và các cặp hồ sơ lưu giữ…”, không hề có đồ vật hiện đại nào “phản ánh được bước phát triển tân kì” của kỹ thuật điện tử. Con người ông Bằng cũng như chính căn phòng ấy vậy, trầm tĩnh, cổ kính và luôn gìn giữ những nét đẹp xưa cũ. Qua việc miêu tả không gian riêng của từng gia đình nhỏ, nhà văn Ma Văn Kháng đã phần nào khắc hoạ được tính cách, tâm tư tình cảm cá nhân và số phận của mỗi người trong đại gia đình lớn. Từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật và những thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. Không chỉ có những căn phòng riêng được miêu tả rõ nét, không gian sinh hoạt chung cũng được tác giả hướng tới. Nhà ông Bằng có một khu vườn nhỏ, một nơi “biểu hiện sức sống cây xanh nhiệt đới và đậm đà phong cách tao nhã”. Khu vườn ấy trải qua bốn mùa xuân hạ thu đông với những sắc thái khác nhau. Dường như cây cối nơi đó cũng có cảm xúc, nó biết vui biết buồn theo tâm trạng của những người trong gia đình. Nó vui vẻ, râm ran khi mấy chị em dâu hoà thuận chăm sóc dàn mướp chị Hoài và Phượng gieo đêm ba mươi Tết. Nó quạnh quẽ thê lương sau cái chết của ông Bằng và sự bỏ đi của Lý. Mở đầu truyện là khoảng thời gian cây rụng lá, một sự khởi đầu có phần tàn phai héo úa, báo hiệu cho những biến cố của gia đình nhưng cho đến kết thúc truyện, khu vườn lại rụng lá, phải chăng đó là một dấu hiệu chuẩn bị cho mùa xuân mới, cây cối sẽ đâm chồi nảy lộc, và gia đình ông Bằng sẽ đón chào một năm mới tươi vui hạnh phúc hơn. Kết luận Tóm lại, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” là không gian thế sự, không gian gắn với những con người cá nhân. Ở đó, con người bộc lộ rõ những suy tư, những tính cách, tâm tư tình cảm của mình. Ở đó, có những người luôn vững lòng bảo vệ các giá trị tư tưởng đạo đức tốt đẹp, cũng có những người đánh mất bản thân, chạy theo sự phù phiếm xa hoa của kim tiền, dục vọng. Thế nhưng cho đến cuối cùng ta vẫn nhận ra, gia đình và những giá trị đạo đức là bến đỗ cho mỗi con người, là nơi nuôi dưỡng con người, hướng con người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 1

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

  Không gian “tha hương” Không gian “tha hương” là không gian gắn liền với nhân vật Cừ - một con người được xem như cái mầm hư hỏng của gia đình ông Bằng – người đã từ bỏ tổ quốc, lên tàu trốn ra nước ngoài cùng một người phụ nữ. Đó là không gian được kể trong bức thư cuối cùng Cừ gửi về nhà, cũng là bức thư cuối trước khi anh từ bỏ cõi đời để trở về với những giá trị tinh thần mà anh đã trót từ bỏ. Không gian ấy gắn liền với sự “trốn chui trốn lủi”, đó là một chiếc tàu cũ “chạy được hơn một ngày đã hết dầu”, là nơi có những con người “chỉ biết phó mặc đời cho sóng bể”, “hơn hai chục con người, bới lục từng cọng rau tới thanh gỗ mục để nhét vào mồm cho dạ dày đỡ lép”. Là nơi người ta tìm thấy hi vọng được cứu nhưng cuối cùng lại thất vọng và nhục nhã ê chề khi nhìn thấy trên chiếc tàu tới “cứu” họ lại nhảy xuống “bảy thằng Thái Lan trần trùng trục, xăm đầy ngực hình đàn bà loã thể”. Cuối cùng Cừ cũng trải qua những ngày lênh đênh trên biển, anh tới được “xứ sở” mà anh định tới, nhưng đó cũng là lúc Cừ nhận ra, đó “không phải là nơi mình định tới”. Ở đất nước Canada xa xôi, Cừ sống trong “một trại tị nạn. Công việc là xúc tuyết và đổ xăng nhớt. Lương đủ sống”. Thế nhưng, lời nói của thằng lính nguỵ, việc Ngọc Liên – người phụ nữ cùng Cừ trốn ra nước ngoài – đi làm điếm, một chuyện “cay đắng với tâm lý người có lương tâm nhưng được nhiều người cho là bình thường ở đất nước này” và ngọn nến đêm 30 Tết đã gợi lại cho Cừ những giá trị đạo đức, những kỷ niệm xưa. Ở một xứ sở xa lạ, Tết không có hoa đào, pháo đỏ, bánh chưng xanh, Tết chỉ có duy nhất một ngọn nến và nỗi nhớ gia đình, Cừ đã nhận ra rằng “mỗi người chỉ có thể thuộc về một dân tộc nhất định, từ trong tâm hồn”, và rằng “cuộc sống là sự phát hiện liên tục. Hành trình của một đời người nếu làm sáng tỏ một chân lý nho nhỏ thôi thì cũng là có ích”. Đến cuối cùng, Cừ chọn cho mình thuốc ngủ liều mạnh, như một cách giải thoát bản thân khỏi những điều thất vọng, nhục nhã, một cách để sám hối cho những tội lỗi mình đã tạo ra và cũng là một cách để bảo toàn những giá trị đạo đức mà cha anh vẫn luôn muốn truyền đạt đến con cháu. Tóm lại, không gian xã hội trong truyện không được miêu tả quá nhiều nhưng chỉ qua một vài nét bút chấm phá, người đọc cũng có thể thấy được thực trạng xã hội đương thời với rất nhiều khó khăn khi đất nước bước vào thời kì đổi mới. Trước hoàn cảnh ấy, con người phải thay đổi, phải nỗ lực thích nghi và đồng thời cũng luôn phải tự nhắc nhở bản thân để không đánh mất các giá trị đạo đức đáng quý của dân tộc.   ​​​​​​​Không gian gia đình Nếu không gian xã hội trong tác phẩm chỉ được hiện lên với những nét miêu tả chấm phá thì không gian gia đình được tác giả tập trung khắc hoạ với không gian truyền thống của những ngày Tết đến xuân về, không gian căn phòng của từng gia đình ứng với đặc điểm tính cách của từng nhân vật.   Không gian gia đình ngày Tết Mở đầu tác phẩm, tác giả Ma Văn Kháng miêu tả căn nhà của ông Bằng là một căn nhà ở cuối phố, “một căn nhà gác nhỏ trong một khu vườn nhỏ, có cổng sắt. Một căn nhà không toàn vẹn, sau một trận hoả hoạn cáhc đây chục năm”. Đó là một căn nhà yên ắng gần như suốt ngày và quanh năm. Căn nhà đó, vào cữ đông rét mướt của chuỗi ngày cuối năm, cũng nhộn nhịp mỗi người một việc đón chờ năm mới đến. Từ chị Lý vừa đi sắm lỉnh kỉnh những đồ đạc nào gạo, nào mì, nào thịt, nào rau, … tất cả để chuẩn bị cho mâm cúng ngày cuối năm của gia đình. Đến cả ông Bằng, người cha già của gia đình cũng khệ nệ, ì ạch “bê một chậu cúc đại đoá từ ngoài sân vào” trang trí ở góc nhà mặc lời ngăn cản và muốn giúp đỡ của hai người con dâu. Trong không khí giáp Tết, ngôi nhà nhỏ của ông Bằng đã được trang hoàng với “mâm ngũ quả, một chai rượu chanh, lấp lánh mấy khung ảnh”. Không khí dường như ngày càng tất bật với sự náo động trong căn bếp nhỏ. Lần lượt các món xào, nấu, hầm, luộc, rán, quay,… “hiện ra trên hai cái mâm đồng đánh sáng choang” dưới sự chỉ huy đâu vào đấy của Lý. Đúng giờ, lễ cúng gia tiên diễn ra trong sự trang trọng, kính cẩn, với không gian thờ cúng linh thiêng: “Hương cháy, uốn cong một đoạn tàn, bốc toả một làn khói ảo mờ. Hai cái bánh chưng bọc lá xanh tươi, buộc lạt điều, xếp cạnh mâm ngũ quả và những chén rượu xinh xắn đặt rải hàng ngang trước bệ thờ. Ngọn đèn dầu lim dim in cái chấm vàng vào dãy khung ảnh đặt sát tường. Ảnh song thân ở chính giữa; bên trái, ảnh bà Bằng mặt hoa da phấn, tóc vấn khăn nhung, phía trái, ảnh anh cả Tường áo trấn thủ ô quả trám, mũ calo nghiêng, nét trắng đen đã phôi pha”. Qua ngòi bút của mình, Ma Văn Kháng đã thành công khắc hoạ không khí tươi vui của một gia đình khi Tết đến xuân về, và ông cũng đã thành công ghi lại phong tục truyền thống lâu đời rất đáng trân trọng của dân tộc. Nhưng đến kết thúc truyện, khi một lần nữa mùa lá rụng quay lại để chờ đợi Tết đến xuân về, không khí đón chào năm mới của gia đình nhỏ trầm hẳn đi sau những biến cố đã xảy ra. Dù “căn phòng vẫn được bày biện, trang trí y hệt năm ngoái. Hai góc phòng đặt hai chậu hoa cúc đại đoá” nhưng sau khi ông Bằng qua đời, Lý bỏ vào Sài Gòn, cái không khí của “buổi chiều ba mươi làm cơm cúng tất niên. Lý la hét, sai bảo Phượng và say mê chế tác các món ăn dành cho ba ngày tết và bữa ăn tối ba mươi sum họp cả gia đình lớn” giờ chỉ còn lại trong kí ức của Phượng. Chẳng ai có thể ngờ, chỉ trong thời gian một năm ngắn ngủi mà bao nhiêu biến cố hãi hùng đã xảy ra với gia đình nhỏ nơi đầu phố yên tĩnh này. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 4

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn”  Không gian xã hội Sau năm 1975, khi đất nước giành lại độc lập sau cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài, nền văn học Việt Nam cũng bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Văn chương không còn là những tác phẩm mang hơi hướng sử thi, xoay quanh cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc nữa, mà thay vào đó văn học bắt đầu tập trung chú ý vào cuộc sống thường nhật của con người. Không gian nghệ thuật của các tác phẩm cũng vì vậy mà thoát khỏi bom đạn chiến tranh, quay về cuộc sống bình yên, hối hả khi đất nước đang nỗ lực mỗi ngày một phát triển. Ma Văn Kháng sau một khoảng thời gian dài gắn bó với vùng đất biên ải xa xôi, nay ông quay trở về với cuộc sống đô thị đầy nhộn nhịp. Cuộc sống ấy đi vào trang văn của ông với không gian phố thị cùng đủ loại người, đủ loại cung bậc cảm xúc; với không gian công việc tại các xí nghiệp nghiêm túc, cần mẫn, giản dị nhưng cũng ẩn giấu đầy những mâu thuẫn, lo toan,…   Không gian phố thị Với bối cảnh xã hội Hà Nội trong những ngày tháng chật vật, bí bức thời hậu chiến nghèo nàn và chế độ bao cấp nghiêm ngặt, “Mùa lá rụng trong vườn” viết về cuộc sống thành thị với lắm điều phức tạp rối ren. Thành phố Hà Nội đương thời được miêu tả qua những nét chấm phá, qua lời kể, tả của các nhân vật trong truyện. Đó là một Hà Nội đông đúc, chật hẹp, là một Hà Nội “lộn xộn” trong mắt ông Bằng với những đứa trẻ “hư”, những xe những người đi ẩu vào giờ cao điểm. Những hàng quán ăn uống xa xỉ, phung phí, nơi mà “gánh hàng xuềnh xoàng đặt trên vỉa hè. Cạnh cái cống nước chảy sùng sục”, quan khách toàn là “các ông, bà, các cô cậu béo tốt, phây phây, môi nhờ bóng, quen ăn ngon mặc đẹp” chẳng để ý đến cảnh quan ngoại cảnh, “bâu quanh gánh hàng, ngồi trên ghế dài, ghế ngắn, ngồi cả trên hòn gạch, bệt trên vỉa hè và cả dưới lòng đường”. Nơi đó bày bán những bát bún sang” giá bằng gần nửa tháng lương của Phượng, thứ mà “còn lâu, còn lâu nữa, những người lao động bình thường như Phượng mới biết được những món ăn dành cho kẻ lắm tiền nhiều của như cái món bún mọc, tức bún giò sống này”. Đó là một thành phố “đã dần hình thành một lớp tư sản mới, phá phách, khuynh đảo xã hội” theo lời của Luận, là một nơi “đường thì hẹp mà người, xe lại quá nhiều. Nhất là ở cái ngã tư Luận vừa phải dừng lại đây: người, xe cứ xô lấn chen đẩy nhau, lấn chiếm mặt đường, bất kể một quy tắc tối thiểu, mà chẳng ai chịu đứng ra chỉ huy, xếp sắp lại”. Không chỉ vậy, nơi ấy còn có những người “rõ ràng là có biển báo đường một chiều mà ba tên mặc áo phông vàng in hình tây đầm ôm nhau vẫn cứ nghễu nghện bá vai nhau đạp xe ngược chiều”… Không còn bom đạn chiến tranh, cuộc sống hối hả của những ngày đổi mới khiến cho người ta bị cuốn theo nó, thay đổi để phù hợp với nó. Nhưng rõ ràng, không phải sự thay đổi nào cũng là điều tốt, vì trong không gian phố thị, ta bắt gặp những con người đang dần đánh mất những nét đẹp truyền thống của dân tộc, đánh mất các giá trị đạo đức xưa cũ. Ví như đứa trẻ suýt va vào ông Bằng mà còn quay lại quát: “Bố già về mổ gà ăn mừng đi nhé”, hay người lái xe bò mà Phượng bắt gặp khi tan tầm đã nhẫn tâm đánh đập “phương tiện di chuyển” của mình mà không hề nhìn thấy sự khổ sở của nó. Ở không gian phố thị ấy, dòng người hối hả ngược xuôi để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy ngẫm.   Không gian công sở Không gian công sở hiện lên trong tác phẩm là không gian của “xí nghiệp in cỡ trung bình, nằm ở phía tây thành phố” nơi mà Phượng làm việc. Trong suy nghĩ của Phượng, đó là một nơi “cần mẫn, giản dị” nhưng cũng là “một thế giới của phụ nữ với bao chuyện hết sức pha tạp và vui vẻ”. Nơi ấy là nơi Phượng bị công việc thu hút, say mê mải miết với những nhiệm vụ được giao, là nơi đồng nghiệp vui vẻ ầm ĩ, khăng khăng đòi kéo Phượng tham dự vào “các trò chơi tuổi trẻ của các cô”. Đó cũng là nơi có những câu chuyện trời ơi đất hỡi, những chuyện có vẻ “ngồi lê đôi mách” được kể trong giờ hành chính, có những lời yêu cầu, những lúc căng thẳng với tính nết thất thường của bà trưởng phòng, những lúc các cô “tản ra để chia len đan thuê cho mậu dịch”…  Không gian công sở còn là toà soạn báo, nơi Luận công tác. Toà soạn Luận làm việc không được miêu tả nhiều, nhưng ở đó, ta có thể thấy hình ảnh người “nhân viên thường trực đeo kính lão số 4” đang đều đặn “đánh máy thuê trong giờ hành chính và đánh bằng máy cơ quan”. Không chỉ vậy, toà soạn ấy còn là nơi diễn ra cuộc chuyện trò đầy tính triết lý giữa Luận và ông Tổng biên tập, khiến cho Luận nhận ra nhiều điều về những biến cố, những mặt khác nhau của vấn đề đang diễn ra quanh mình. Rõ ràng, qua việc miêu tả không gian công sở đương thời, ta có thể thấy được đời sống sau chiến tranh ở đất nước ta vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, đồng lương ít ỏi của công nhân viên chẳng thể đáp ứng được cho cuộc sống của họ. Không gian của công việc vẫn chưa thật sự nghiêm túc và hiệu quả vì họ còn phải tranh thủ kiếm thêm thu nhập từ những công việc khác như đan len, đánh chữ thuê,… để lo cho gia đình mình.   Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 3

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Tóm tắt: Sau năm 1975, khi đất nước ta bước vào giai đoạn mới sau chiến tranh, sự chuyển dịch kinh tế, thay đổi cơ cấu thị trường theo hướng hiện đại hoá đã khiến các tác phẩm văn học có sự thay đổi nhất định. Không còn hướng ngòi bút theo khuynh hướng sử thi, chú ý tới các vấn đề chiến đấu của đất nước nữa, văn chương thời kì bấy giờ quay trở lại với những vấn đề thế sự, những vấn đề con người. Điều ấy được thể hiện rõ nét qua thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm văn học. Bài viết này đề cập tới không gian nghệ thuật – một phạm trù quan trọng để xây dựng thế giới nghệ thuật – trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của nhà văn Ma Văn Kháng để thấy rõ những đặc điểm thi pháp và những biến chuyển về nội dung tư tưởng sau năm 1975 được khắc hoạ trong tác phẩm.  Mở đầu Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng việc tìm hiểu thi pháp học, là một chìa khoá giúp cho người đọc có thể hiểu được những quan niệm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Với Ma Văn Kháng, ông rất dụng công xây dựng không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của mình, qua đó truyền tải những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm của mình tới người đọc. “Mùa lá rụng trong vườn” chính là một tác phẩm được ông chú ý khắc hoạ không gian như thế. Nội dung Vài nét về không gian nghệ thuật Trong Từ điển thuật ngữ văn học, không gian nghệ thuật được định nghĩa là “Hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định. Qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quán tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật”. Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian vật lý hay không gian địa lý. Không gian vật chất là không gian tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Không gian vật chất chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi được tác giả cảm nhận và miêu tả về nó. Như vậy, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Việc nghiên cứu không gian nghệ thuật có thể cho ta biết được tâm lý nhân vật, bộc lộ tư tưởng tình cảm  của con người, đồng thời thể hiện quan niệm về thế giới của người nghệ sĩ. Về tác giả Ma Văn Kháng và tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” Ma Văn Kháng là một trong những cây bút xuất sắc có nhiều đóng góp quan trọng trong việc cách tân văn xuôi đương đại Việt Nam. Trước thập kỉ 80, văn chương của Ma Văn Kháng mang hơi hướng sử thi hoà cùng không khí đấu tranh sôi nổi của đất nước. Nhưng khi đất nước bước sang một trang sử mới ông lại hướng ngòi bút của mình đến những vấn đề thế sự, hướng tới con người cá nhân trong cuộc sống thường nhật. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm của ông không còn đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, ông quan tâm đến con người trong nhiều quan hệ, hoàn cảnh khác nhau và cố gắng thể hiện con người một cách đầy đủ nhất trong tính đa dạng và toàn vẹn như nó vốn có. “Mùa lá rụng trong vườn” là một tiểu thuyết của tác giả Ma Văn Kháng. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, cuốn tiểu thuyết phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời kì bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình – một tế bào của xã hội. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh gia đình ông Bằng. Ông Bằng có năm viên ngọc quý, anh cả Tường đã hy sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Người con thứ hai là Đông, một trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản với Lý – một người con dâu đảm đang, nhanh nhẹn, tháo vát. Luận là con trai thứ ba, một nhà báo có nhiều trăn trở và suy tư về cuộc sống, vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Trái ngược với các anh chị em, người con thứ tư – Cừ - lại là một mầm mống hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội và bỏ ra nước ngoài. Cuối cùng là em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước. Câu chuyện về gia đình ông Bằng diễn ra trong trọn vẹn một năm, thế nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, có rất nhiều biến cố đã xảy ra với gia đình ông. Đầu tiên là chuyện Cừ trốn ra nước ngoài rồi tự tử, vợ Cừ bị nông trường sa thải khiến ba mẹ con phải dắt díu nhau lên Hà Nội nương nhờ nhà ông Bằng. Nhận cú sốc ấy, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát phải nhập viện, rồi qua đời. Chuyện của Cừ chưa nguôi ngoai thì bi kịch khác lại ập đến. Lý cảm thấy mệt mỏi chán chường khi sống cùng Đông, chị bị ông trưởng phòng vật tư ở cơ quan dụ dỗ. Vốn là người ít học, lại nhiễm lối sống thị thành xô bồ, Lý đi lạc hướng. Chị bỏ chồng, theo ông ta vào Sài Gòn ở hẳn. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà, chị mới nhận ra những suy nghĩ sai lầm của mình, viết thư tỏ ý muốn quay lại. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người đọc thư của Lý. Nhìn chung, trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn”, nhà văn Ma Văn Kháng đã đặt ra những vấn đề hết sức thiết thực và cấp thiết trong xã hội đương thời. Tác phẩm là bức tranh hiện thực cuộc sống được tác giả khắc hoạ một cách rõ nét, mọi sự kiện, mọi vấn đề, mọi sự bề bộn phức tạp được tác giả đặt ra đều chất chứa những hiện tượng xã hội đáng được quan tâm thời kì bấy giờ. Dưới ngòi bút của tác giả, khi đến với cuốn tiểu thuyết này, người đọc như thực sự được sống, được trải nghiệm đất nước Việt Nam những năm đầu thời kì đổi mới. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 2

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Không gian bên trong và bên ngoài Không gian nghệ thuật trong thơ trữ tình của Puskin còn bao chứa trong nó là sự đối lập giữa không gian bên ngoài và không gian bên trong. Đặc trưng tiêu biểu nhất vẫn là tâm lý nhân vật được giải phóng với nỗi buồn và sự vượt thoát. Ngay ở khổ thơ mở đầu, nỗi buồn và tâm trạng cô đơn của nhân vật được khai phóng trực tiếp qua những hình ảnh thiên nhiên dữ dội, to lớn “làn sương” và “mảnh trăng” trong không gian mênh mông không kém “lai láng” với “giăng xa” cùng với những động từ mạnh như “xuyên” và “chiếu”. “Xuyên những làn sương gợn sóng Mảnh trăn g mờ ảo chiếu qua Buồn dải ánh vang lai láng Trên cánh đồng buồn giăng xa”           Ấy vậy mà, trong không gian rộng lớn, lạnh lẽo ấy lại chỉ có một con người cô độc và lẻ loi, đang tự gặm nhấm lấy chính nỗi buồn của mình – nỗi buồn ấy trải rộng ra khắp mọi triền không gian còn con người như cố gắng thu bé tất cả sự tồn tại của mình. Thiên nhiên rộng lớn của mùa đông nước Nga nuốt chửng con người – một con người thấu cảm toàn bộ nỗi đau, nỗi buồn, cô đơn và tuyệt vọng của chính mình. Sự đối lập bên trong và bên ngoài rõ rệt hơn nhiều khi không gian ngày càng to lớn, nỗi buồn lo cô đơn lại càng rộng nhưng lại chẳng bao chứa nỗi buồn của một con người cô độc với nỗi buồn cô lẻ. Nhưng nổi bật lên trong thi pháp đối cực của Puskin lại chẳng phải là nỗi buồn mà phải là một “nỗi buồn sáng trong. Nỗi buồn của Puskin nhuốm đẫm vào cảnh vật, mở rộng theo chiều kích của không gian: “Trên con đường mùa đông vắng vẻ Cỗ xe tam mã băng đi Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ Đều đều khắc khoải lòng quê” Sự xuất hiện của con đường ngay lập tức đi cùng với nỗi buồn, đó là sự “vắng vẻ” và “mùa đông”. Hình ảnh con đường xuất hiện làm người đọc liên tưởng đến sự giải thoát nhưng dường như vì nằm tron g không gian mênh mông của nỗi buồn nên con đường ở đây không còn ý nghĩa như ban đầu. Ta biết rằng con đường được đặt trong bối cảnh không gian thời gian u buồn vào màn đêm vắng lặng trong mùa đông lạnh lẽo, nó chạy qua cánh đồng mênh mông không một ánh lửa mái lều, nghĩa là cuộc hành trình ấy của con người ấy không có điểm dừng nghỉ ngơi, không có hơi ấm con người mà chỉ có một cỗ xe tam mã băng băng đi về phía trước, “xe vun vút lao đi”. Hình ảnh cỗ xe tam mã (loại xe nhỏ, có 1-2 người ngồi, do Puskin phác họa nên) đi nhanh như “băng” trên mặt đất đã thể hiện cho ý chí vượt lên hoàn cảnh. Hình ảnh cỗ xe tam mã ã trở thành biểu tượng cho sự vận động bay lên của văn học  Nga. Nhưng tất cả chỉ góp phần tạo nên một không gian buồn bã mênh mông mà không có điểm dừng. Trong không gian vắng vẻ đìu hiu, nhân vật trữ tình luôn mơ về một mái ấm, nơi xuất hiện ánh lửa ấm nồng. Thế nhưng chỉ có những “cột cây số” hữu tình mà vô cảm đang ngược chiều, chạy tới, không gian đã trải rộng lại càng rộng thêm ra. Tác giả lấy những cái hư vô của ngoại cảnh để nói những cái hữu hình trong tâm tưởng nhân vật. Các cặp đối lập giữa ấm cúng trong tâm tưởng với sự lạnh lẽo và sự thật ở bên ngoài càng làm khắc sâu hơn tâm trạng xuyên suốt bài thơ của nhân vật. Ta thấy con đường xuất hiện với sự cô đơn trong khung cảnh lạnh lẽo tô đậm nỗi buồn của nhân vật nhưng đồng thời hình tượng con đường ấy còn là biểu trưng cho sự vận động hướng về phía trước, và nỗi buồn vì thế mà trở thành sáng trong. Khổ thơ thứ tư với vị trí bản lề đã tạo nên bước chuyển quan trọng trong tâm tưởng nhân vật, đó là dù bị bủa vây bởi không gian nhưng tâm trạng của nhân vật đã được tách ra để thấy được những khắc khoải trong lòng. Kết luận Có thể thấy rằng không gian trong tác phẩm “Con đường mùa đông” không chỉ làm nền cho bối cảnh của thơ mà nó trở thành đối tượng nhận thức khám phá, phản ánh của Puskin. Một không gian quen thuộc đặt trong dòng chảy của thời gian lặp, có tác động lớn tới hình tượng nhân vật, một không gian với đầy những xung đột bên trong, bên ngoài … Đặc biệt hơn, tác giả còn dẫn dắt người đọc đi sâu khám phá bản chất bên trong của con người thông qua các kiểu không gian để khơi ra trong đó những tồn tại, hạn chế mà không phải lúc nào chúng ta cũng đủ tỉnh táo và bản lĩnh để thấu suốt. Cả một thi phẩm khắc họa đầy đủ trong nó tất cả những đối cực trong đặc trưng cao nhất của thi pháp văn học nói chung và nền văn học Nga nói riêng - bản chất của chúng không nhằm để khắc họa một không gian thực mang theo tính chất vật lý hay địa lý; để nhấn mạnh hay ẩn dụ về nỗi buồn con người mà qua đó làm nổi bật lên sự vượt thoát không gian, vượt ra khỏi những gì tẻ nhạt, buồn chán Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 1        

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Không gian hiện tại và tương lai Pushkin thường xây dựng trong thơ trữ tình của mình hai không gian tráo đổi lẫn nhau giữa hiện tại, tức không gian nỗi buồn mà nhân vật trữ tình đang tồn tại và tương lai, tượng trưng cho không gian thoát khỏi nỗi buồn mà nhân vật trữ tình tưởng tượng ra. Việc xây dựng hai thời điểm của không gian như vậy gắn với quan niệm nhân sinh của Pushkin về quy luật vận động của đời sống cũng là quy luật vận động của tâm thức con người, nhân vật trữ tình nhận thức được rằng nỗi buồn đang trải qua ở hiện tại là nhất thời và giữ vòng xoay không ngừng của đời sống, nỗi buồn rồi sẽ qua đi và niềm vui, hạnh phúc sẽ tới. Quan niệm về sự vận động luân hồi của cuộc sống trở thành một trong những điểm tựa tinh thần quan trong giúp nhân vật “tôi" tự tin bước đi trong nỗi buồn thực tại. Về cách thức tổ chức, Pushkin chủ đích để nhân vật trữ tình thoát khỏi khổ đau ở hiện tại trong phút chốc bằng một điểm nhìn về tương lai thế nhưng đó không phải kiểu thoát ly như tuyên ngôn của các nhà lãng mạn chủ nghĩa. mà nhân vật trữ tình của ông cuối cùng vẫn trở về thực tại với một niềm tin vững chắc và ý chí sống mãnh liệt hơn, không còn sợ nỗi buồn nữa và như vậy nỗi buồn trở thành “nỗi buồn sáng trong". Nghệ thuật tổ chức không gian và thời gian tâm tưởng như vậy cũng thể hiện rất rõ sự dụng công khéo léo của Pushkin khi ông để nhân vật trữ tình vượt thoát khỏi không gian khổ đau để đến với không gian hạnh phúc rồi lại soi chiếu vào không gian cũ để thấy nỗi buồn không đáng sợ nữa mà tiếp tục bước đi, hướng về phía trước. Sự luân chuyển giữa hai không gian hiện tại và tương lai được khắc họa rõ thông qua tác phẩm “Con đường mùa đông". Tại đây, nhân vật trữ tình tồn tại trong một không gian hiện tại với nỗi buồn và sự cô đơn. Con đườn g được đặt trong bối cảnh không gian và thời gian buồn vào ban đêm vắng lặng trong mùa đông lạnh lẽo, nó chạy qua cánh đồng mênh mông không một ánh lửa hay mái lều, nghĩa là cuộc hành trình của con người ấy chẳng có điểm dừng nghỉ ngơi, không có hơi ấm con người mà chỉ có độc một cỗ xe tam mã băng đi về phía trước, “xe vun vút lao đi”. “Xuyên những làn sương gợn sóng Mảnh trăn g mờ ảo chiếu qua, Buồn rải ánh vàn g lai láng Lên cánh đồng buồn giăng xa. Trên đường mùa đông vắng vẻ Cỗ xe tam mã băng đi Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ Đều đều khắc khoải lòng quê. Bài ca của người xà ích Có gì phảng phất thân yêu: Như niềm vui mừng khôn xiết, Như nỗi buồn nặng đìu hiu. Không một mái lều, ánh lửa… Tuyết trắng và rừng bao la… Chỉ những cột dài cây số Bên đường sừng sững chào ta. Ôi buồn đau, ôi cô lẻ…” Bỗng chốc, không gian của nhân vật trữ tình thoát khỏi khung cảnh của nỗi buồn để vượt thoát đến một không gian tương lai “Ngày mai", nơi mà nhân vật được sống gần ên “em" với “lò lửa đỏ" và những vòng xoay nhịp nhàng sẽ “xua lũ người tẻ ngắt". Đây là không gian tâm tưởng của Pushkin xuất phát từ ý thức quy luật vận động của cuộc sống, niềm tin vào một “ngày mai" không còn khổ đau và “cỗ xe tam mã" sẽ đến được điểm cuối của con đường, nơi chỉ còn đọng lại niềm vui và hạnh phúc. “Trở về với em ngày mai Nhina, bên lò lửa đỏ Ngắm em, ngắm mãi không thôi. Kim đồng hồ kêu tích tắc Xoay đủ những vòng nhịp nhàng, Và xua lũ người tẻ ngắt Để ta bên nhau trong đêm.” Kết thúc không gian “ngày mai" với niềm hạnh phúc đong đầy, nhân vật trữ tình trở lại với không gian thực tại, nơi vẫn còn nỗi buồn tẻ nhạt và sự cô đơn bao trùm thế nhưng với một tâm thế khác, một tâm trạng vững vàng không còn sợ nỗi khổ đau. Với niềm tin vào “ngày mai" và Nhina- nhân vật đến từ tương lai hiện lên trong tâm thức nhân vật ở thực tại như một đức tin và sức mạnh giúp người tự tin hơn trên “con đường mùa đông" của chính mình. “Sầu lắm, Nhina, đường xa vắng, Ngủ quên bác xà ích lặng im Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm, Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng.”   Trở lại với không gian của thực tại, nỗi buồn của nhân vật vẫn còn nhưng đã được “sáng trong" hoá bởi nhân vật không còn sợ hãi trước nỗi buồn mà đã vững tin bước qua nó, chấp nhận nỗi buồn như một quy luật tất yếu trong vòng quay cuộc sống. Đến đây, tư tưởng về nỗi buồn của Pushkin mới thực sự sáng rõ, nỗi buồn tồn tại trong con người như một tất yếu, khổ đau không đáng sợ mà chính nỗi sợ khổ đau mới là thứ tồn tại như màn đêm lạnh lẽo sẽ nuốt chửng con người. “Nỗi buồn sáng trong" từ đây được nảy sinh trong thơ trữ tình Pushkin như một điểm sáng, thể hiện một tuyên ngôn sống vững chãi và lạc quan: tâm thế con người mang nhiều khổ đau nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt và vượt thoát khỏi nỗi buồn. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 4

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

  Thi pháp không gian trong thơ trữ tình Pushkin   Không gian của các đối cực Bàn về thơ trữ tình Pushkin, ta không thể bỏ qua nghệ thuật phân cực trong kết cấu không gian của ông. Nét đặc trưng này bắt nguồn từ truyền thống văn hoá dân tộc Nga, người dân Nga thường có xu hướng kết hợp các đối cực khó kết hợp trong cùng một chỉnh thể nghệ thuật. Đối với Pushkin, việc xây dựng nên kết cấu phân cực trong sáng tác là một sự tiếp nối nhưng cũng đồng thời là một bước tiến mới trong truyền thống văn học Nga, thể hiện cách nhìn, cách cảm độc đáo về cuộc đời và con người. Pushkin xây dựng một kết cấu phân mảnh như chính sự giằng xé, mâu thuẫn bên trong của nhân vật nhưng bản thân nhà thơ lại luôn có ý thức rất rõ về sự hài hoà. Bởi vậy, đọc thơ Pushkin, người đọc có thể nhận ra sự phân cực tồn tại xuyên suốt trong từng khổ thơ và thậm chí là trong cùng một câu thơ, đó là sự phân mảnh của hai đối cực như giằng xé nhưng lại như đan vào nhau. Nhân vật trữ tình trong thơ Pushkin được khắc họa ban đầu trong ấn tượng về sự giằng xé nội tâm, mâu thuẫn giữa các đối cực, Pushkin để cho hai đối cực mâu thuẫn cùng lúc tồn tại và tăng tiến hết mức rồi bất ngờ chúng gặp nhau tại một điểm giữa nào đó trong không gian và chính tạo đây, ấn tượng nghệ thuật về sự hài hoà được khắc họa sâu sắc. Sự phân mảnh không gian trong thơ Pushkin thường gắn với hai đối cực của nỗi buồn và nỗ lực vận động vượt thoát khỏi nỗi buồn. Trong khi không gian nỗi buồn thường là không gian tĩnh tại của bóng tối và lạnh giá hay nỗi cô đơn thì không gian vượt thoát khỏi nỗi buồn lại là một chiều kích động, là nơi mà nhân vật trữ tình không ngừng nỗ lực vượt thoát khỏi bóng tối và cái lạnh giá. Kết cấu không gian phân cực xuyên suốt tác phẩm “Con đường mùa đông", thể hiện sự đối chọi giữa nỗi buồn và ý thức vượt thoát khỏi nỗi buồn. Hai đối cực đó tồn tại trong mọi khung cảnh, trong mọi sự vật của bức tranh mùa đông. Đối cực của nỗi buồn là những sự vật tĩnh tại, buồn tẻ trái lại với đối cực vượt thoát nỗi buồn, nơi những cảnh vật dường như muốn bung ra, muốn vượt thoát khỏi màn đêm và sự lạnh giá: “Trên con đường mùa đông, buồn tẻ Xe tam mã lao đi, Lục lạc đơn điệu Mệt mỏi rung lên.” Trong cùng một khung cảnh mùa đông, hai đối cực hiện lên giữa một bên là con đường “buồn tẻ" với một bên là cỗ xe tam mã “lao đi". Trên cái nền của nỗi buồn lại hiện lên hình ảnh lao đi của cỗ xe tam mã biểu trưng cho sự vượt thoát khỏi nỗi buồn. Trên cỗ xe đó, tiếng chuông lục lạc ngân lên “đơn điệu" nhưng vẫn kiên trì rung lên mãi, dù mệt mỏi nhưng con người vẫn lặng lẽ bước đi và cỗ xe vẫn đơn độc di chuyển. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 3

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Đặt vấn đề Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là “hình thức tồn tại của chủ quan hình tượng”. Mọi nhân vật, sự kiện, chi tiết… trong tác phẩm đều tồn tại trong không gian, vì thế không gian nghệ thuật có vai trò quan trọng “chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hiện tượng nghệ thuật” [5, tr.110]. Vấn đề không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học ngày càng được quan tâm hơn vì nó có ý nghĩa riêng, đời sống riêng không phụ thuộc vào nhân vật, cốt truyện. Nghiên cứu,, tìm hiểu rõ về không gian nghệ thuật là sẽ chìa khóa hữu ích giúp cho người đọc có thể cắt nghĩa được những quan niệm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm Puskin – mặt trời vĩ đại của thi ca Nga. Tác phẩm của ông không chỉ hấp dẫn về nội dung mà nghệ thuật cũng đạt tới độ tinh xảo. Có thể nói : ở Puskin người ta tìm thấy tâm hồn Nga đẹp đẽ nhất, con người Nga hoàn chỉnh nhất. Đặc sắc trong phong cách nghệ thuật nổi bất nhất của Puskin chính là sự hài hòa về nghệ thuật và nội dung, đó là sự hài hòa của một chỉnh thể động. Nhà phê bình Belinsky từng nhận định: “trong thơ của Puskin bao giờ cũng có bầu trời nhưng bầu trời đó lúc nào cũng hòa với mặt đất…” “Con đường mùa đông ” là bài thơ được ra đời trong những ngày tháng nhà thơ bị đi đày ở miền Bắc xa xôi.Tâm trạng bao trùm lên cả bài thơ là nỗi buồn - một nỗi buồn nặng trĩu. Sự hấp dẫn của bài thơ không dừng lại ở nội dung mà tác giả truyền tải mà nó còn cuốn hút độc giả bởi không gian nghệ thuật trong việc bộc lộ cảm xúc của nhân vật chữ tình. Việc vận dụng thi pháp học để giải mã bài văn qua không gian nghệ thuật sẽ giúp ta có cái nhìn bao quát trong việc hiểu được tâm lí nhân vật, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người, đồng thời thể hiện quan niệm về thế giới của người nghệ sĩ. Nội dung Khái quát về không gian nghệ thuậ t Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng việc tìm hiểu thi pháp học. Đây là một chìa khóa giúp cho người đọc có thể hiểu được những quan niệm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Vậy trước hết, chúng ta cần hiểu được rõ thế nào là “không gian nghệ thuật”. Có thể thấy rõ rằng, không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian vật lý hay không gian địa lý. Không gian vật chất là không gian tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Không gian vật chất chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi được tác giả cảm nhận và miêu tả về nó. Như vậy, “không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Việc nghiên cứu không gian nghệ thuật có thể cho ta biết được tâm lý nhân vật, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người, đồng thời thể hiện quan niệm về thế giới của người nghệ sĩ”. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 2

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

  Chi tiết Sự kiện, tình huống trong truyện ngắn không nhiều bởi vậy các chi tiết cũng chỉ xoay quanh làm nổi bật nội dung, chủ đề mà tác phẩm đang muốn đề cập tới. Tác phẩm là tiếng nói cảm thông, thương cảm những người mẹ Việt Nam anh hùng cô đọc có những người con hi sinh trong cuộc chiến tranh khốc liệt, đồng thời là tiếng nói tố cáo chiến tranh, phê phán lối sống ích kỷ, vô ơn của những người Việt Nam thuộc tầng lớp thượng lưu hiện đại. Tác phẩm được đặt tên là Mây trắng còn bay, chi tiết “mây trắng” cũng vì thế xuất hiện đến năm lần trong suốt câu chuyện. Trong lời nói hiếu kỳ của bà cụ về những đám mây hay những câu miêu tả máy bay qua những đám mây của nhân vật tôi. Đám mây trắng trôi bồng bềnh gợi sự nhẹ nhàng, thanh thản như tâm trạng của con người đối với quá khứ. Bà cụ đã thực hiện được ước nguyện đến nơi con trai hi sinh, nhân vật tôi sau khi chứng kiến hành động của bà cụ cũng hóa giải được phần nào tâm trạng trong lòng. Những đám mây trên trời vẫn tiếp tục bay không ngừng nghỉ mang ý niệm về sự chảy trôi của cuộc đời, quá khứ qua đi con người vẫn phải vượt qua nó và tiếp tục sống hướng về phía trước. Một chi tiết đắt giá khác được đặt trong tác phẩm là hành động “xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh” của nhân vật tôi. Nhân vật này từ đầu chỉ đứng ở góc độ quan sát, nhưng đến cuối tác phẩm mới có hành động trực tiếp tham gia vào câu chuyện. Hành động ấy tưởng chừng như rất nhỏ nhưng đã khẳng định được lòng cảm thông, trân quý những bà mẹ Việt Nam anh hùng có con hi sinh trong chiến trận và lòng biết ơn công lao những người lính của tác giả. Cả chi tiết “người phi công trong ảnh còn rất trẻ” cũng gợi lên sự tàn khốc của chiến tranh. Chiến tranh không chỉ cướp đi sự tự do của dân tộc, sự đoàn tụ của mỗi gia đình mà còn cướp đi tuổi thanh xuân của nhiều chiến sĩ trẻ tuổi. Họ còn có cả một tương lai ở phía trước nhưng đã tình nguyện hiến dâng mình cho Tổ quốc. Họ mất đi để lại công lao to lớn cho đất nước nhưng cũng để lại sự mất mát không thể nào lấp đầy trong gia đình của mình.   Ngôn ngữ và giọng điệu Chiến tranh qua đi, các tác phẩm truyện sau năm 1975 bắt đầu hướng tới cảm hứng thế sự đời thường. Bởi vậy, ngôn ngữ và giọng điệu hết sức đa dạng, vừa có sự bình dị, gần gũi vừa có sự suy tư, sâu lắng. Văn bản sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại với ngôn từ bình dị. Chẳng hạn như trong lời nói của bà cụ xuất hiện nhiều các từ hô ứng “các bác kìa”, “bác nhỉ”, “thưa các bác” hay việc bà cụ ví mây “y thể cây lá ngoài vườn”. Cả trong câu “Thảo nào hai lượt tàu bay những triệu bạc”. Không những thế, trong lời đối thoại với cô tiếp viên, bà cụ còn xưng hô nhân vật này là “con”: “Sắp đến sông Bến Hải chưa con?”, “Lát qua đấy con bật dùm già cái cửa tròn này con nhé”. Phải nói rằng, việc bà cụ sử dụng các từ ngữ này trong lời nói đã thể hiện được bà cụ là người nông dân hiền lành, chất phác, thật thà, cởi mở. Giọng điệu chủ yếu của tác phẩm là giọng điệu triết lý, suy ngẫm. Nó hòa vào với dòng suy tư của nhân vật tôi để thể hiện những vấn đề hiện thực của cuộc sống. Đi theo trình tự tuyến tính của tác phẩm dưới điểm nhìn của nhân vật tôi. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy giọng điệu buồn, nhiều suy tư của nhân vật tôi từ đầu chuyến bay. Nhân vật này cũng là một người vừa trải qua chiến tranh mang nhiều tâm tư. Trước cảnh tượng bà cụ bày mâm giỗ con trai trên chuyến bay, khiến cho nhân vật tôi xúc động đến lặng người. Cảnh tượng ấy đã khiến cho nhân vật này dường như quên đi mọi mệt nhọc suốt chuyến bay mà suy ngẫm về những đau thương mà chiến tranh để lại và hi vọng vào một tương lai hòa bình, ấm no. Quả thật niềm hạnh phúc chiến thắng với nỗi đau mất mát trong lòng người không dễ dàng tách bạch. Kết luận Mỗi thể loại văn học sẽ có một đặc trưng riêng, mang đến cho người tiếp nhận những cảm nhận riêng khi đọc tác phẩm. Khi soi xét tác phẩm của Bảo Ninh từ góc độ thi pháp thể loại, ta sẽ cảm nhận được những nét đặc sắc về phong cách và phương diện nghệ thuật làm nên thành công truyện ngắn của nhà văn. Có thể nói, từ những đặc trưng nghệ thuật trên ta có thể khẳng định phong cách, tài năng của Bảo Ninh khó trộn lẫn được với một nhà văn nào. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 1

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

  Nhân vật – điểm nhìn Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn không đồ sộ như tiểu thuyết, tính cách của nhân vật cũng không được thể hiện thông qua đối thoại như kịch. Nhân vật trong truyện ngắn được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. Ở Mây trắng còn bay, văn bản có bốn nhân vật gồm: bà cụ, tay vận complet, cô tiếp viên hàng không và nhân vật “tôi”. Trong đó, hai nhân vật được tác giả chú trọng miêu tả là bà cụ và tay vận complet. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là bà cụ, những tư tưởng nghệ thuật, tình huống truyện đều được tác giả gửi gắm thể hiện qua nhân vật này. Bên cạnh đó, nhân vật trong tác phẩm đều không có tên cụ thể mà chỉ được gọi tên bằng đặc điểm. Cách xây dựng nhân vật không có tên riêng là dụng ý riêng của nhà văn, ông muốn mượn những nhân vật này để nói bao quát toàn bộ tầng lớp xã hội hiện đại Việt Nam sau năm 1975. Bà cụ đại diện cho những người mẹ anh hùng cô độc, tay vận complet đại diện cho tầng lớp thượng lưu sống hưởng thụ không biết ơn quá khứ. Nhân vật “bà cụ” chỉ một bà cụ già yếu, lần đầu được đi máy bay với ngoại hình “bé nhỏ, teo tóp” như “chìm lấp vào thân ghế”, “lưng còng” và hai bàn tay “gầy guộc” khắc họa rõ nét vẻ ngoài lam lũ, khắc khổ, nhọc nhằn của người mẹ Việt Nam thời xưa. Tính cách của nhân vật được thể hiện qua từng hành động, từ việc không muốn nhận khay đồ ăn, dồn hết đồ ăn trên khay vào chiếc làn mây, chẳng ăn gì chỉ uống một chút nước lọc. Đến lời nói chủ yếu là các từ ngữ đưa đẩy như “các bác kìa, bác nhỉ, thưa các bác…” hay ví đám mây như cây lá ngoài vườn. Bà cụ đại diện cho một tầng lớp nông dân xưa với tính cách cởi mở, chắt chiu, tiết kiệm. Nhưng qua đó cũng thể hiện một mảnh đời cơ cực, vất vả. Lần đầu tiên được lên máy bay, không dám ăn đồ trên máy bay vì sợ tốn tiền, hồn nhiên hỏi cô tiếp viên mở cửa sổ cho thoáng. Sau ba chục năm con trai hi sinh, cụ mới có cơ hội được đi đến nơi con ra đi, bày biện ban thờ nhỏ ngay trên máy bay chật hẹp. Chứng kiến cảnh bà cụ sợ sệt, van xin tay vận complet ta càng cảm thấy xót xa, thương cảm cho số phận những người mẹ Việt Nam anh hùng sau chiến tranh. Đối lập với bà cụ là “tay vận complet”, người đọc có thể ngay lập tức cảm nhận được sự sang trọng của nhân vật này qua bộ complet mà hắn mặc. Nghe bà cụ hỏi hết câu này đến câu khác, hắn không đáp lại mà cứ bày ra vẻ “quàu quạu”, thơ ơ khó chịu với từng câu hỏi của bà cụ. Hắn còn thản nhiên châm điếu thuốc ngay trên máy bay trước biển báo cấm hút thuốc, quát nạt bà cụ khi thấy bà bày ban thờ ra, rồi cả việc “sang trọng đứng dậy” mắng cô tiếp viên, sau đó “gần như bước xéo lên đùi tôi, xấn ra lối đi”. Tất cả những hành động đó của nhân vật này đều thể hiện hắn là một kẻ độc đoán, ích kỷ, bất lịch sự đối lập hoàn toàn với diện mạo sang trọng bên ngoài. Nhân vật này cũng không có tên gọi cụ thể, hắn đại diện cho một tầng lớp thượng lưu hiện đại, không coi trọng quá khứ mà chỉ quan tâm đến hiện tại và bản thân mình. Câu chuyện được kể bằng ngôi thứ nhất, qua điểm nhìn của nhân vật “tôi” một hành khách trên chuyến bay đó và ngồi cạnh bà cụ. Với điểm nhìn này, câu chuyện sẽ thêm phần khách quan, tăng tính xác thực và chân thật, bên cạnh đó còn có thể thay tác giả bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ. Câu chuyện chuyển sang góc nhìn đa chiều khi bà cụ bày ra đồ cúng con mình trên máy bay: cái nhìn cảm thông, đồng cảm của nhân vật tôi, cô tiếp viên và cái nhìn khinh miệt của tay vận áo complet. Mỗi nhân vật sẽ có một điểm nhìn, các đánh giá khác nhau tùy thuộc vào suy nghĩ của nhân vật đó. Bằng việc xây dựng sự đối lập về góc nhìn, suy nghĩ của mỗi nhân vật trước hành động của bà cụ, sự khác biệt giữa bà cụ và tay vận complet. Nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc thông điệp: bên cạnh những người nâng niu, trân trọng quá khứ, biết ơn những chiến sĩ hi sinh vì Tổ quốc thì có những người sống vô tình, quên đi sự hi sinh của bao thế hệ trẻ vì đất nước. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 4

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

  Cốt truyện - kết cấu Văn bản được viết bằng thể loại truyện ngắn, một hình thức tự sự cỡ nhỏ. Câu chuyện được đề cập đến trong truyện ngắn chỉ là một lát cắt nhỏ của đời sống nhưng vẫn mang ý nghĩa sâu sắc. Truyện ngắn Mây trắng còn bay là câu chuyện nhân vật “tôi” kể về sự kiện diễn ra trong chuyến bay của mình. Tình huống đẩy câu chuyện lên cao trào là việc bà cụ mang đồ cúng bày ra ban thờ nhỏ ngay trên máy bay. Một tình huống bất ngờ không có dự báo trước. Câu chuyện được lấy bối cảnh trong khoang máy bay nhỏ và được kể theo trình tự tuyến tính từ khi máy bay cất cánh, cho đến giữa chuyến bay. Bắt đầu bằng việc chuyến bay cất cánh trong tình trạng thời tiết xấu, nhân vật “tôi” dường như mang một tâm trạng buồn, hối hận vì đã lên chuyến bay trong thời tiết xấu. Suốt từ đầu, câu chuyện mang một nét buồn, u sầu, ảm đạm trong một không gian chật hẹp. Mọi thứ diễn ra chậm rãi, im lặng duy chỉ có bà cụ ngồi cùng hàng ghế của nhân vật “tôi” đã phá tan đi sự im ắng ấy. Tiếng nạt khẽ của tay vận complet đã “đánh thức” câu chuyện, kéo nhân vật “tôi” ra khỏi dòng suy nghĩ miên man, u uất. Bà cụ bày ra một bàn thờ nhỏ ngay trên máy bay khiến ai cũng phải bất ngờ nhưng chỉ khi mọi người thấy tấm ảnh một thanh niên trẻ được cắt ra từ tờ báo cũ được dựng trên ban thờ ấy, nhân vật tôi cùng cô tiếp viên hàng không chỉ im lặng. Hóa ra cụ muốn thắp hương tưởng nhớ đứa con trai ở ngay nơi anh đã hi sinh vào ba mươi năm trước. Ai cũng biết hành động của bà cụ là trái với quy định an toàn bay. Nhưng cô tiếp viên lại im lặng, chẳng hề can ngăn bà cụ làm điều đó. Sự im lặng ấy đã nói lên được nhiều điều, đó là sự cảm thông, xúc động với một thế hệ thanh niên trẻ đã xả thân vì nền độc lập của Tổ quốc. Đến đây, câu chuyện kết thúc, nó kết thúc bằng sự lặng im của các nhân vật trong khung cảnh “đại dương khí quyển ngời sáng”. Lúc trước tiết trời mưa bão còn khiến những đám mây xám xịt, bầu trời u tối thì giờ đây bầu trời lại sáng hơn như mở ra một cánh cửa mới bên trong tâm hồn nhân vật tôi. Ánh sáng của bầu trời thể hiện một tương lai sáng ngời, cho dù chiến tranh qua đi đã để lại nhều mất mát nhưng nhà văn vẫn muốn gửi gắm tinh thần lạc quan, hi vọng về tương lai đất nước, muốn người đọc hiểu và trân trọng sự hi sinh của những chiến sĩ phi công bảo vệ vùng trời của Tổ quốc. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 3

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Mở đầu Thuật ngữ “Thi pháp” hiện nay đã khá quen thuộc với những người quan tâm nghiên cứu văn học và đặc biệt trong nhà trường phổ thông, học sinh đã bắt đầu được tiếp cận văn bản từ đặc trưng thể loại. GS.Trần Đình Sử cho rằng: “Thi pháp học đem lại những phạm trù mới, những đề tài mới cho nghiên cứu văn học, như con người, không gian, thời gian, trần thuật, điểm nhìn, đối thoại, giễu nhại, mỉa mai... mở rộng các cánh cửa tiếp cận văn bản”. Bởi vậy việc vận dụng thi pháp học vào phân tích một tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại sẽ mở ra nhiều hướng tiếp cận mới với văn bản đó. Bài viết sẽ đi vào phân tích tác phẩm truyện ngắn “Mây trắng còn bay” của tác giả Bảo Ninh theo đặc trưng thể loại để làm nổi bật ý nghĩa của tác phẩm. Đặc trưng thể loại truyện ngắn qua Mây trắng còn bay Bảo Ninh là một trong những nhà văn nổi bật của nền văn học hiện đại Việt Nam sau năm 1975. Tham gia quân ngũ vào năm 1969 và xuất ngũ vào năm 1975, sau khoảng thời gian dài chiến đấu vì độc lập tổ quốc, sự tàn khốc của chiến tranh vẫn đeo bám dai dẳng trong từng giấc mơ của ông, chính điều này đã thúc giục ông sáng tác. Các tác phẩm của ông chủ yếu đều viết về con người, xã hội sau chiến tranh để cho thấy những mất mát đau thương mà chiến tranh đã để lại. Truyện “Mây trắng còn bay” cũng là một tác phẩm viết về chủ đề này. Tác phẩm được viết sau năm 1975 về đề tài chiến tranh. Câu chuyện đã mang đến một cái nhìn mới về thời kì hậu chiến, sự xung đột giữa cái cũ – cái mới, cái truyền thống – cái hiện đại. Tác phẩm là câu chuyện được nhân vật “tôi” kể lại trong chuyến bay của mình – một chuyến bay cất cánh trong điều kiện xấu và nhân vật hối hận vì lên chuyến bay này. Trong khi nhân vật “tôi” và tay vận complet đang lo lắng chuyến bay có thể gặp sự cố vì đi trong mưa nhưng có một bà cụ lại trầm trồ trước những đám mây ngoài cửa sổ. Lần đầu được đi tàu bay, cụ thấy lạ lẫm với mọi thứ và không biết đồ ăn trên máy bay đã được bao gồm trong vé. Khi đi qua vĩ tuyến 17, cụ lập một ban thờ nhỏ trên máy bay, hành động này khiến tay vận complet khó chịu còn nhân vật “tôi” cùng cô tiếp viên chỉ lặng im và không nói gì khi nhìn thấy tấm ảnh cắt từ báo được lồng trong tấm kính ấy. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 2

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Thời gian nghệ thuật Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ để thể hiện quan niệm về thế giới. Đây là thời gian mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài, ngắn khác nhau, với tốc độ nhanh – chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại – quá khứ - tương lai cũng khác nhau. Thời gian được sử dụng trong tiểu thuyết này cũng như các tiểu thuyết cổ điển khác, là thời gian tuyến tính. Đây không phải một cách dẫn dắt mới lạ, nếu đứng từ góc độ so sánh với các tiểu thuyết hiện đại sau này. Ở “Lão Goriot”, ta tìm thấy một số ít yếu tố chuyện kể quá khứ bên cạnh phần nhiều là lối trần thuật biên niên. Tuy vậy, Balzac cũng vẫn khiến người đọc cuốn theo những gì kịch tính nhất, hấp dẫn nhất đang diễn ra trong câu chuyện. Bắt đầu mỗi sự kiện trong tiểu thuyết, Balzac thường đưa cho người đọc một con số cụ thể về thời gian, mở đầu là năm 1819 và mọi sự việc đều xảy ra xoay quanh năm này. Tuy nhiên, Balzac không kể sự việc trải dài theo từng tháng, từng năm của câu chuyện mà hướng ngòi bút của mình tập trung vào khoảng thời gian ngắn ngủi – mười ba ngày. Ở những chương đầu tiên, người đọc thấy được sự xuất hiện của các con số chỉ năm như 1813, 1819, nhưng sau đó chỉ còn những từ chỉ tháng và ngày. Điều đặc biệt là, người đọc có thể cảm nhận thời gian tính bằng tháng, bằng năm của tác phẩm trôi qua rất nhanh, gói gọn trong khoảng hơn một trăm trang trên tổng số bốn trăm trang tiểu thuyết. Phần còn lại là diễn biến trong khoảng thời gian mười ba ngày. Trong thời gian ấy, các sự kiện được dồn nén, mâu thuẫn được đẩy lên đến đỉnh điểm, tạo nên những xung đột trong tâm lí các nhân vật. Có thể nhận xét rằng, khi thời gian cốt truyện được phác hoạ càng ngắn thì những mâu thuẫn xảy ra càng quyết liệt. Khắc hoạ sự việc theo diễn tiến của từng ngày, tác giả không cụ thể gọi tên những mốc thời gian cụ thể mà nhắc đến thời gian phiếm chỉ: ngày hôm sau, sáng hôm sau. Điều này vừa cho người đọc thấy như đang tham gia vào câu chuyện, vừa đem lại cảm giác mơ hồ, thời gian nào cũng được, ngày tháng nào cũng được. Điều đặc biệt là dù đề cập đến yếu tố thời gian một cách chi tiết nhưng Blazac yêu thích hơn cả là thời điểm “buổi chiều” và “buổi tối” hơn là ban ngày. Với Balzac, muốn hiểu Paris thì tốt hơn cả là ngắm nhìn nó khi về đêm như nhân vật Rastignac suy nghĩ “Ở cái đất Paris này, cần phải thức đêm mới biết rõ những sự việc xảy ra xung quanh mình.”. Cũng có thể hiểu khoảng thời gian này được Balzac lựa chọn vì nó mang một ý nghĩa ẩn dụ như là chiều của cuộc đời. Cái chết của lão Goriot xảy ra vào buổi chiều, Vautrin bị bắt vào xế chiều… Nếu Hugo để nhân vật của mình phát triển bước đến ánh sáng qua hình tượng đối lập của ánh sáng và bóng tối thì Balzac lại để các nhân vật của mình ở lại trong bóng tối. Đó là cách ông miêu tả những ảo mộng tan vỡ và là sự dự cảm cho nhân vật tiếp tục bước đi trên con đường bóng tối như nhân vật Rastignac. Những sự kiện cuối cùng của tác phẩm được miêu tả nhanh chóng, gấp gáp, nhất là khi Balzac kể về đám tang của lão Goriot, từ lúc đưa quan tài đến khi hạ huyệt. Nhờ vậy, hiện thực được lột tả một cách rõ nét trong sự qua quít, chóng vánh, sơ sài của lễ tang. Tác giả phơi bày cho chúng ta bức tranh hiện thực qua từng nét vẽ mà ở đó lòng người lạnh lẽo, phũ phàng. Cái kết của tác phẩm cũng hé lộ con đường tha hoá của nhân vật Rastignac qua chi tiết “giọt nước mắt của chàng trai trẻ lăn dài, rơi xuống đất rồi từ từ vút lên cao”. Kết luận Như vậy, qua việc khắc hoạ không gian và thời gian nghệ thuật, Balzac đã đặt nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau, buộc nhân vật phải bộc lộ tính cách, thế giới nội tâm của mình. Qua đó, bức tranh thế giới hiện thực, “tấn trò đời” mà tác giả khắc hoạ càng được lột tả rõ nét. Balzac đã theo sát nguyên tắc tổ chức tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa: xây dựng không gian xã hội và tác động của hoàn cảnh sống đến tính cách nhân vật. Tác giả đã miêu tả tỉ mỉ thực tại, những gì tác động từ từ đến quá trình thay đổi nội tâm, tính cách nhân vật. Nhân vật của Balzac không phi thường, ngoại lệ nhưng có logic với hoàn cảnh sống. Nếu với chủ nghĩa lãng mạn, nhà văn xây dựng nhân vật ngoại lệ trong tình huống ngoại lệ, khẳng định thế giới ước mơ bằng cách đối lập nó với thực tại, không cần lý giải gì thì đối với chủ nghĩa hiện thực, tác giả luôn luôn phải lý giải nhân vật, ước mơ bám vào cơ sở của thực tại, hình thành từ thực tại. Trong tác phẩm, mọi hành động đều được lý giải bằng hoàn cảnh sống và nó quyết định đến ý thức nhân vật. Việc ước mơ va đập với thực tại chính là sự tan vỡ. Tác phẩm của Balzac không nói về riêng câu chuyện của người đời trước, ở xã hội xa xôi nào mà đúng với cả ngày nay, với bất cứ con người nào ở xã hội nào. Tác phẩm đã thực sự tạo một dấu ấn lớn trong nền văn học Pháp nói riêng và văn học Thế Giới nói chung. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Lão Goriot phần 1

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 16/09/2024 0 bình luận

Không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là môi trường sống của hình tượng nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới. Nó còn là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, như GS. Trần Đình Sử từng khẳng định: “Không có hình tượng nào không có không gian, không có nhân vật nào tồn tại ngoài một nền cảnh nào đó”. Mỗi nhà văn đều xây dựng một không gian riêng mang tính đặc thù, và mỗi nhân vật chỉ thực sự bộc lộ phẩm chất, tâm lí, tính cách trong không gian của mình. Xuyên suốt tác phẩm “Lão Goriot”, người đọc nhận thấy được hai không gian đối lập được nhà văn miêu tả với ngòi bút hiện thực: không gian nghèo nàn của quán trọ Vauquer khác hẳn với không gian sang trọng của giới thượng lưu Paris. Ngay từ những đoạn đầu tiên của tác phẩm, Balzac đã dành ra một thời lượng không nhỏ để miêu tả tỉ mỉ không gian bên ngoài và bên trong quán trọ Vauquer. Khung cảnh xung quanh quán trọ được miêu tả “Hiếm khi ngựa qua lại ở nơi này vì đây là một sườn dốc gập ghềnh nguy hiểm… Nhà cửa ở đây cũng thật nghèo nàn và buồn tẻ, những bức tường im ỉm và cũ mốc như tường của nhà tù.”. Nhìn từ ngoài vào ngôi nhà trọ, người ta thấy lớp vôi vàng ở những tầng trên cùng mà “tự nó tạo ra cho bản thân một sự hèn kém so với tất cả những ngôi nhà thời ấy ở Paris.”. Qua lời kể này, người đọc có thể thấy quán trọ Vauquer đã xuất hiện với vẻ ngoài cũ kĩ, nhàm chán lại nằm ở trong một khu phố yên tĩnh, buồn tẻ gần như bậc nhất của Paris. Mở đầu tiểu thuyết, người kể chuyện đã trò chuyện vài dòng với bạn đọc của mình. Người kể chuyện đã trực tiếp nhận định cho người đọc rằng câu chuyện sắp được kể đây ở không gian quán trọ Vauquer là một “thảm kịch” và sẽ làm người ta xúc động. Nhờ vậy, người đọc đã chuẩn bị tinh thần chứng kiến một câu chuyện buồn, bi hài giữa các nhân vật trong không gian không tạo được chút thiện cảm nào ngay từ khi bắt đầu. Không gian quán trọ này được Balzac miêu tả hoàn toàn đối lập với nơi phố thị phồn hoa trong lòng thành phố Paris. Không gian đối lập ấy đã tạo ấn tượng khác biệt hoàn toàn giữa cuộc sống của hai tầng lớp: thượng lưu và trung lưu trở xuống. Bên cạnh việc miêu tả không gian bên ngoài quán trọ, Balzac còn dẫn người đọc tiến vào sâu bên trong quán với cách miêu tả tỉ mỉ và chi tiết vô cùng. Trong quán trọ Vauquer xuất hiện rất nhiều đồ vật cũ kĩ, mang hơi hướng cổ điển mà không có vẻ gì là sang trọng. Từ màu sắc đến cách sắp xếp của căn phòng đều không tạo một vẻ chỉn chu và hấp dẫn khách đến ở. Điều khiến tôi ấn tượng nhất trong đoạn này đó là cách tác giả tạo ấn tượng về mùi ở bên trong quán trọ Vauquer, “một thứ mùi không có tên gọi trong ngôn ngữ nên gọi là mùi nhà trọ.”. Giúp người đọc hình dung được về các loại mùi là điều rất khó khăn đối với các nhà văn, nhưng các từ ngữ và cách thể hiện của Balzac đã đủ để người đọc tưởng tượng như đang bước chân vào chính không gian mà tác giả đang vẽ ra và hít hà cái mùi đặc trưng ở đó: “Nó có mùi vị như tất cả các mùi cộng lại: mùi một căn phòng sau bữa ăn tối, mùi hôi nhà bếp, mùi nhà tế bẩn.”, không gian như một nhà kho ẩm thấp, hôi hám của những loài vật lạ. Như vậy, Balzac cho người đọc cảm nhận không gian của các nhân vật của mình với không chỉ thị giác mà cả thính giác, vị giác, xúc giác. Tất cả những điều đó đã tạo ấn tượng mạnh về sự hèn kém, mục nát, xấu xí ở nơi những người tầng lớp dưới trong xã hội lúc bấy giờ sinh hoạt. Tôi có cảm giác rằng tác giả đang vạch rõ được ranh giới giữa hai tầng lớp này ngay từ không gian sinh hoạt của họ chứ chưa cần đến sự hiện diện của các nhân vật. Trái hẳn với việc miêu tả không gian quán trọ, nhà văn vẽ ra không gian nơi đô thị Paris phồn hoa bằng dung lượng ít hơn rất nhiều. Tuy nhiên, không cần đi vào quá kĩ từng chi tiết của không gian dành cho giới thượng lưu (phòng khách nhà phu nhân bá tước Beausant) cũng đủ giúp người đọc thấy được những gì xa hoa, lộng lẫy hoàn toàn tương phản với quán trọ bình dân kia. Những vật dụng trong nhà phu nhân bá tước Beausant thật quá đỗi xa xỉ, lấp lánh: “chiếc cầu thang lớn trang trí đầy hoa, có tay vịn bóng loáng, nền trải thảm đỏ.”. Đọc đến đây khiến tôi liên tưởng rằng chiếc cầu thang sang trọng này gợi đến mong muốn tiến thân vào con đường giới thượng lưu của anh chàng Rastignac. Nó thể hiện những cám dỗ mà tầng lớp này đem lại khiến anh không thể cưỡng lại. Trong anh có lẽ cái ý định thay đổi tương lai cho mình xuất hiện từ trước càng lớn hơn sau khi trực tiếp chứng kiến thế giới vật chất đang bày ra trước mắt. Dù vậy, con người của tầng lớp thượng lưu sống trong không gian ấy lại không có sự liên kết với nhau. Các nhân vật dường như lẻ tẻ, mỗi người lại có trong mình một câu chuyện riêng mà không tìm được điểm gặp gỡ để họ có thể xây dựng một mối quan hệ thực sự giữa người với người. Với các không gian mà Balzac tạo ra trong tác phẩm, tôi thấy có một điểm chung giữa hai kiểu không gian này, đó là dù là rộng và sang như phòng khách nhà phu nhân bá tước Beausant hay hẹp và hèn kém như quán trọ Vauquer thì đều chỉ có một lối ra, lối vào chính là đường thoát duy nhất. Ví như lão Goriot sống hay chết thì cũng chỉ đi qua một cửa. Đặt quán trọ trong tình tiết cái chết của lão Goriot, đây không phải là một nhà trọ cụ thể của riêng Balzac mà là quán trọ cuộc đời. Triết lý này có điểm gặp gỡ với quan niệm của nhà Phật: “Con người chỉ là khách trọ tạm thời trên trái đất này, hay tâm là quán trọ còn thân là khách, sẽ đến ngày khách rời quán trọ ra đi”. Bước ra khỏi quán trọ cuộc đời tức là nơi tạm trú, con người không thể mang theo được thứ vật chất giá trị gì bên mình, nếu làm những điều tội lỗi thì sẽ kết thúc thời gian ở quán trọ cuộc đời nhanh chóng với cách bi thảm nhất. Chỉ với hai không gian điển hình, nhà văn đã khái quát, tạo ấn tượng cho người đọc về Paris. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Lão Goriot phần 3

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 15/09/2024 0 bình luận

Đặt vấn đề Tác phẩm văn học tái hiện thế giới thực tại tạo thành thế giới nghệ thuật. Khi ấy, nhà văn sáng tạo không gian và thời gian nghệ thuật nhằm thể hiện hình thức tự nhiên của thế giới đó. Không gian và thời gian nghệ thuật là sản phẩm của nhà văn, thể hiện sự cảm nhận của cá nhân người nghệ sĩ. Hai khái niệm này không thể tách rời để làm nên tổng thể thế giới nghệ thuật. Nhờ có chúng, người đọc như được trải nghiệm cùng nhân vật, sống trong thế giới được nhà văn xây dựng nên. Honore de Balzac là nhà văn không có văn phong tạo ấn tượng đẹp như người Pháp vẫn coi trọng. Văn phong của Balzac thường được các nhà nghiên cứu nhận xét là quẩn quanh, tỉ mỉ và trúc trắc. Đây chính là nét điển hình trong văn phong hiện thực chủ nghĩa. Đi sâu vào phân tích, người đọc thấy được rằng bản chất của cả “Tấn trò đời” là tiền. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là quá trình tha hoá của con người khi họ lao vào những ham muốn, dục vọng của chính mình. Đôi khi ta nhận ra Balzac hình như không chỉ kể câu chuyện về “ai đó” ở ngoài xã hội mà còn muốn giễu cợt chính những khát vọng của mình. Trong cuộc sống, Balzac cũng có khao khát cho bản thân, có thể kể đến việc ông theo đuổi nữ bá tước. Đây là sự phản tỉnh của chính Balzac. Ông khảo cứu về cuộc đời thông qua chính mình. Cuộc sống và các nhân vật trong tác phẩm không hề xa lạ với người đọc bởi có thể nó tồn tại trong chính chúng ta. Ta có thể tìm thấy hình ảnh Balzac đằng sau những nhân vật thanh niên trẻ tuổi với khát vọng của họ. Tiểu thuyết “Lão Goriot” dựa trên bối cảnh là xã hội Paris năm 1819 với những vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc bấy giờ. Không gian và thời gian được xây dựng trong tác phẩm đã lột tả rõ hiện thực mà Balzac muốn phản ánh. Đồng tiền tha hoá mọi mối quan hệ, huỷ diệt tình yêu, tình người, tạo nên thế giới mà ở đó con người chà đạp lên nhau để sống. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Lão Goriot phần 2

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 15/09/2024 0 bình luận

  Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn Nam Bộ Dấu ấn Nam Bộ vẫn luôn là điểm đặc biệt trong các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng. Trong “Tôi thích làm vua”, ngay từ mở đầu truyện, nhà văn đã mở ra không gian đặc trưng của Nam Bộ với một loạt các từ ngữ thuộc trường từ vựng về sông nước như: cù lao, sông, xuồng ghe, tàu, sóng, bến, neo… Với những câu văn suồng sã theo cách nói của người Nam Bộ: “…chớ ai về chi cái đất cù lao, lúc nào cũng sóng gió.”, “Dạ, chú muốn mấy đứa cũng có ự - Tôi lẹ miệng đáp lại.”… Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng rất nhiều phương ngữ Nam Bộ như “làm phước, niểng mặt, …” với những từ xưng hô như “con, tụi con, tụi tôi,…”, và những từ ngữ miêu tả phong tục tập quán như “xuống xuồng băng qua sông, mũ mão họ phơi trên mui ghe,…”. Tất cả tạo nên một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc Nam Bộ cho truyện ngắn này.   Một số thủ pháp sáng tạo ngôn từ trong truyện “Tôi thích làm vua” Trong truyện ngắn “Tôi thích làm vua”, Nguyễn Quang Sáng sử dụng rất nhiều câu văn ngắn và thường là câu đơn. Như khi miêu tả cái rạp hát, nhà văn đã sử dụng ba câu đơn “Rạp hát là nhà lồng chợ. Kệ thịt, kệ vải đều được dọn ra ngoài. Người ta lấy lá che kín hết bốn bên.” Ngay cả những câu ghép, các vế câu đều hết sức ngắn gọn “Tôi là cháu của thầy tuồng, tôi được đánh trống.” Cùng với đó, nhà văn nhiều lần sử dụng biện pháp liệt kê ở các cấp độ khác nhau: trong cùng một câu văn như: “Cù lao có đến ba làng: Mỹ Tân, Mỹ Phú, Mỹ Hòa.” hay “Tuồng này có một ông vua, hai ông quan, một nịnh, một trung, một anh hề, một ái khanh, một thằng quân”… giữa các câu văn như: “Cái vui kế đó là, trước khi xem hát, chúng tôi rủ nhau đi xem hình quảng cáo…”, “Cái vui cuối cùng là, sau khi gánh hát nhổ neo đi, lũ nhỏ tụi tôi lại lấy lá dừa kết thành mão,…” Tất cả tạo nên nhịp kể nhanh, phù hợp với cách nói của người dân Nam Bộ, đặc biệt là phù hợp với tâm trạng náo nức và giọng điệu hồ hởi của một đứa trẻ (bởi lẽ câu chuyện được kể lại với điểm nhìn khi tôi còn bé). Ngoài ra, tác giả còn sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ: lặp lại từ “thích” (6 lần) , “vua” (11 lần), trong đó cụm từ “thích làm vua” được lặp lại đến 4 lần. Kết hợp với những câu nghi vấn “Làm vua?”, “Sao con thích làm vua?”, “ai là người thực cho cuộc đời, ai là người cho sân khấu?”… cùng với hình ảnh ẩn dụ “vua”, cách đặt tên nhân vật “thằng Đực” (nhân vật duy nhất có tên riêng). Tất cả góp phần tập trung thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm.   Kết luận Những đặc sắc về ngôn từ nghệ thuật đã góp phần làm nên thành công của truyện ngắn Tôi thích làm vua. Mượn câu chuyện tuổi thơ của nhân vật tôi, nhà văn đã giãi bày những suy ngẫm về cuộc đời. Bởi vậy ngôn từ trong tác phẩm vừa gần gũi, giản dị, mộc mạc, phù hợp với cách nói của trẻ nhỏ, phù hợp với tính cách con người Nam Bộ nhưng cũng mang tính chiêm nghiệm, đối thoại sâu sắc. Chính điều này đã góp phần khẳng định phong cách sáng tác độc đáo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 1

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 15/09/2024 0 bình luận

  Ngôn ngữ mang tính đối thoại, triết lí Đặc điểm này được thể hiện rõ nhất qua đoạn đối thoại giữa nhân vật “tôi” với người chú của mình. Khi người chú hỏi tôi “Hồi chiều tập qua mấy vai con thích vai nào?”. Tôi đã nghĩ mình là con cháu nên sẽ được chú ưu ái hơn và chẳng ngần ngại trả lời “Con thích làm vua.” Vì trong suy nghĩ của tôi – một đứa trẻ khi ấy làm vua thì oai lắm “được mặc áo con rồng, được đội mão vàng, được ngồi trên cao…”, làm vua thì “nhứt hô bá ứng, muốn xử ai thì xử, muốn gì được nấy…”. Vua là người đứng đầu thiên hạ nên là người quan trọng nhất, được nhiều người ngưỡng mộ nhất. Thế nhưng, người chú lại cười: “Làm vua?...Không được, vai vua để cho thằng Đực.” Chính quyết định này đã khiến tôi ngạc nhiên vô cùng. Bởi lẽ: “Thằng Đực là thằng ngu” – nó là thằng bé khờ nhất trong đám bạn, nó không biết vui cũng chẳng biết buồn, không biết hát cũng không biết múa, nó chỉ ngồi đực ra đấy nên là “Nó làm vua sao được?”. Nhưng “Chính vì vậy nó mới làm vua.” – “… làm vua, chỉ việc ngồi sẵn đó, màn kéo ra, đã thấy mặt nó rồi. Nó chỉ có việc vuốt râu, cầm cái ấn gõ xuống bàn, “quân bây” với “ái khanh”, vậy là vừa với cái sức của thằng Đực”. Hóa ra, ông vua trong thực tế mang trong mình trọng trách là thế nhưng trên sân khấu tuồng thì lại là con người vô dụng và thừa thãi nhất. Hóa ra, người đứng đầu thiên hạ lại là người chẳng làm nổi việc gì. Câu hỏi của tôi “Nó làm vua sao được?” và câu hỏi của người chú “Sao con thích làm vua?” không chỉ là lời đối thoại giữa hai nhân vật mà còn là sự đối thoại của tác giả với bạn đọc, là sự chất vấn của nhà văn với những quan niệm xưa cũ. Để rồi, với tôi cuộc trò chuyện ấy trở thành bài học vỡ lòng trong cuộc đời làm sân khấu: “Ai là người thực cho cuộc đời, ai là người cho sân khấu?”. Tính triết lí của ngôn từ còn được thể hiện rõ trong lời thoại của nhân vật người chú khi giảng giải cho “tôi” nghe về các vai diễn trong một vở tuồng “nếu đóng vai nịnh thì phải biết luồn lọt, phải biết lời ong tiếng ve để làm xiêu lòng bề trên, để đổi trắng thay đen, để được vinh thân phì gia, làm được vậy đâu có dễ… Nếu đóng vai trung thì phải trung thực, dám nói thẳng với vua lời lẽ ngay thẳng, cuộc đời phải chịu nỗi oan… Làm cho người ta khóc đã khó, làm cho người ta cười lại càng khó hơn. Làm cho người ta cười để người ta quên đi cái cuộc đời cơ cực, dù là giây phút cũng có ích cho đời…” Lời nói của người chú vừa là kiến thức sân khấu của một người “thầy hát” “đọc nhiều sách Tàu, biết nhiều tuồng tích”, nhưng cũng là sự chiêm nghiệm về cuộc đời của một người từng trải, một người nhiệt thành với nghề sân khấu đến nỗi “bỏ nhà đi hoang”. Nhân vật người chú đang nói lên những triết lí về những vai tuồng trên sân khấu và cuộc đời: từ vai nịnh, vai bi, vai hài, vai quan hay vai quân đều khó vào vai, đều quan trọng, đều có ích nhưng chẳng ai khao khát, vai vua – một vai phù hợp với một đứa trẻ khờ, một thằng ngu nhưng lại là ước mơ của nhiều người trong cuộc đời. Vua trên sân khấu và vua ngoài đời thật thực chẳng giống nhau. Truyện ngắn được ra đời sau năm 1986, khi chiến tranh đã khép lại, đất nước bước vào thời kì đổi mới. Cuộc sống thời hậu chiến có rất nhiều sự thay đổi, nó khiến ta phải nhìn nhận lại các giá trị, các quan niệm xưa cũ liệu có còn phù hợp với thời đại mới. “Tôi thích làm vua” là sự nhận thức lại như thế của nhà văn. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 4

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 15/09/2024 0 bình luận

Đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn “Tôi thích làm vua” của Nguyễn Quang Sáng Lời kể giàu tính tự truyện, bộc bạch Truyện ngắn Tôi thích làm vua là dòng hồi ức của nhân vật tôi về câu chuyện tập một vở tuồng với nhóm bạn của mình. Tôi nhớ lại gánh hát ngày nào do người chú mời về xóm cù lao biểu diễn, nhớ nhất câu chuyện hai chú cháu phân vai đặc biệt là vai vua trong vở hát nọ. Kết thúc tác phẩm, tôi kể về hiện tại của bản thân, đồng thời bày tỏ suy nghĩ về mong muốn được “làm vua” thuở còn nhỏ của mình. “Tôi” là người kể chuyện, cũng chính là nhân vật người cháu. Có thể thấy ngay từ nhan đề của tác phẩm người kể chuyện đã tự xưng, tự giãi bày về mong muốn “làm vua” của mình. Cốt truyện giản đơn, không có xung đột hay biến cố gì đặc biệt. Câu chuyện như lời tự bộc bạch của nhân vật “tôi”. Lời trần thuật của “tôi” trong truyện không chỉ đơn thuần là tường thuật lại sự việc như “Tôi sanh ra trên một cù lao giữa sông Tiền.”, “Năm đó, gánh nhổ neo đi rồi nhưng chú tôi còn nán lại chơi vài ngày với bà con.” mà còn được đan xen với suy nghĩ của nhân vật. Cùng với lời tự sự, nhà văn để chính người kể chuyện được bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của mình về các sự việc diễn ra ví như “Nghe chú giảng giải, tôi không chối cãi vào đâu, vai vua không thể ai khác ngoài thằng Đực, đúng lắm, nhưng vẫn thấy thằng Đực có số hên.” hay “Tiếc thay, bây giờ quanh tôi vẫn còn có người thích làm vua.”. Vì thế, đọc truyện ta có cảm giác như đang nghe lời tự thuật, tự giãi bày suy nghĩ của nhân vật “tôi”. Người kể thuật lại một cách tự nhiên, chân thật, gần gũi như đang thổ lộ với bạn đọc. Khoảng cách giữa người kể chuyện và bạn đọc do đó được kéo gần lại.   Ngôn ngữ mang ý nghĩa diễn tả sự đối lập Có thể nói, toàn bộ truyện ngắn “Tôi thích làm vua” được xây dựng trên trục ngôn ngữ mang ý nghĩa đối lập. Đối lập giữa cái có và không có, giữa các vai diễn trong vở hát với con người đời thực, giữa suy nghĩ của tôi và người chú, đối lập giữa sân khấu và cuộc đời, thậm chí đối lập với chính tôi khi còn bé và sau này trưởng thành. Mở đầu tác phẩm nhà văn lấy cái không có để làm nổi bật cái có của xóm cù lao “cù lao của tôi chỉ thua nơi khác là không có xe hơi nhưng có xe ngựa, xuồng ghe thì không đâu bằng.”, tàu hỏa không có “nhưng ngày nào lũ trẻ cũng thấy tàu chạy lên chạy xuống”; lấy cái có để làm nổi bật cái không có của vùng đất này: “Cù lao có đến ba làng Mỹ Tân, Mỹ Phú, Mỹ Hòa” nhưng “ba làng nhập lại chẳng ra làng nào.”, cù lao đủ đầy về vật chất có trường, có chợ, có tàu, có ghe,… có “người mê hát đến nỗi bị chìm xuồng chết trôi”  nhưng lại thiếu về đời sống tinh thần - “thiếu nhất là không được xem hát.” Hay trong một vở hát, người chú tập cho lũ trẻ tất cả các vai quan, quân, vai trung, vai nịnh, vai ái khanh nhưng “Tôi chờ hoài mà không thấy chú tập vai vua”. Trong suy nghĩ của tôi vai vua quan trọng lắm nhưng thực tế lại không thấy chú tập cho, vai vua uy nghi, hoành tráng lắm nhưng người chú lại giao cho thằng Đực – một đứa bé khờ, chẳng làm nổi việc gì. Nếu khi còn nhỏ, tôi “thích làm vua” nhưng ở phần cuối truyện, khi vào nghề đạo diễn tôi lại thấy “Tiếc thay, bây giờ quanh tôi vẫn còn có người thích làm vua.” Để diễn tả ý nghĩa đối lập, nhà văn sử dụng rất nhiều những cặp từ trái nghĩa như có – không, có – thiếu, vắng. Bên cạnh từ ngữ mang ý nghĩa khẳng định, tác giả sử dụng nhiều cách diễn đạt thể hiện ý phủ định như “không được…, làm sao được…, tiếc thay…” Chính cách diễn đạt mang ý nghĩa đối lập này đã tạo nên tính đối thoại cho truyện ngắn “Tôi thích làm vua.” Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 3

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 15/09/2024 0 bình luận

Tóm tắt: Nguyễn Quang Sáng được mệnh danh là cây đại thụ của văn học Nam Bộ. Bước vào thời bình, ông vẫn ghi dấu ấn qua các tác phẩm mang hởi thở của cuộc sống đương đại, trong đó phải kể đến truyện ngắn “Tôi thích làm vua”. Với ngôn từ giàu chất tự truyện, diễn tả nhiều sự đối lập, mang tính đối thoại và đậm chất Nam Bộ, truyện ngắn Tôi thích làm vua đã tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Từ khóa: Tôi thích làm vua, Nguyễn Quang Sáng Mở đầu Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã từng nhận xét các truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng “…giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một câu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật, … Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mức giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời ông vậy.” Có thể thấy, ngôn từ nghệ thuật là một trong những yếu tố làm nên chất riêng trong các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng nói chung và trong truyện ngắn “Tôi thích làm vua” (1987) nói riêng. Nội dung Đôi nét về ngôn từ nghệ thuật và truyện ngắn “Tôi thích làm vua” Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ trong tác phẩm văn học bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân nhưng là ngôn ngữ được lựa chọn, tổ chức theo chủ đích nghệ thuật của người nghệ sĩ. Bởi vậy, nó mang dấu ấn riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ, nó phụ thuộc vào nhãn quan, vào cá tính sáng tạo của từng tác giả. Ngôn từ nghệ thuật mang tính hư cấu, tính hình tượng, tính nội chỉ, tính lạ hóa và lệch chuẩn. Ngôn từ không chỉ là chất liệu để xây dựng nên thế giới nghệ thuật của một tác phẩm mà còn là phương tiện giao tiếp của người nghệ sĩ với độc giả. Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng lớp ngôn từ nghệ thuật đặc biệt để viết nên truyện ngắn “Tôi thích làm vua”. Tác phẩm được hoàn thành vào ngày 7 tháng 7 năm 1987 và được nhà văn chọn làm nhan đề cho tập truyện cùng tên xuất bản năm 1988. Với truyện ngắn này, nhà văn đã cho thấy sự đổi khác của ngôn từ nghệ thuật mang hơi thở cuộc sống và tinh thần thời hậu chiến. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 2

Đọc tiếp
zalo

Đăng ký sách

Mật khẩu của bạn được mã hóa. Ngoại trừ bạn, không ai có thể biết được mật khẩu của bạn.

Đăng ký khóa học

messenger
08985 888 22