Thời gian nghệ thuật Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ để thể hiện quan niệm về thế giới. Đây là thời gian mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài, ngắn khác nhau, với tốc độ nhanh – chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại – quá khứ - tương lai cũng khác nhau. Thời gian được sử dụng trong tiểu thuyết này cũng như các tiểu thuyết cổ điển khác, là thời gian tuyến tính. Đây không phải một cách dẫn dắt mới lạ, nếu đứng từ góc độ so sánh với các tiểu thuyết hiện đại sau này. Ở “Lão Goriot”, ta tìm thấy một số ít yếu tố chuyện kể quá khứ bên cạnh phần nhiều là lối trần thuật biên niên. Tuy vậy, Balzac cũng vẫn khiến người đọc cuốn theo những gì kịch tính nhất, hấp dẫn nhất đang diễn ra trong câu chuyện. Bắt đầu mỗi sự kiện trong tiểu thuyết, Balzac thường đưa cho người đọc một con số cụ thể về thời gian, mở đầu là năm 1819 và mọi sự việc đều xảy ra xoay quanh năm này. Tuy nhiên, Balzac không kể sự việc trải dài theo từng tháng, từng năm của câu chuyện mà hướng ngòi bút của mình tập trung vào khoảng thời gian ngắn ngủi – mười ba ngày. Ở những chương đầu tiên, người đọc thấy được sự xuất hiện của các con số chỉ năm như 1813, 1819, nhưng sau đó chỉ còn những từ chỉ tháng và ngày. Điều đặc biệt là, người đọc có thể cảm nhận thời gian tính bằng tháng, bằng năm của tác phẩm trôi qua rất nhanh, gói gọn trong khoảng hơn một trăm trang trên tổng số bốn trăm trang tiểu thuyết. Phần còn lại là diễn biến trong khoảng thời gian mười ba ngày. Trong thời gian ấy, các sự kiện được dồn nén, mâu thuẫn được đẩy lên đến đỉnh điểm, tạo nên những xung đột trong tâm lí các nhân vật. Có thể nhận xét rằng, khi thời gian cốt truyện được phác hoạ càng ngắn thì những mâu thuẫn xảy ra càng quyết liệt. Khắc hoạ sự việc theo diễn tiến của từng ngày, tác giả không cụ thể gọi tên những mốc thời gian cụ thể mà nhắc đến thời gian phiếm chỉ: ngày hôm sau, sáng hôm sau. Điều này vừa cho người đọc thấy như đang tham gia vào câu chuyện, vừa đem lại cảm giác mơ hồ, thời gian nào cũng được, ngày tháng nào cũng được. Điều đặc biệt là dù đề cập đến yếu tố thời gian một cách chi tiết nhưng Blazac yêu thích hơn cả là thời điểm “buổi chiều” và “buổi tối” hơn là ban ngày. Với Balzac, muốn hiểu Paris thì tốt hơn cả là ngắm nhìn nó khi về đêm như nhân vật Rastignac suy nghĩ “Ở cái đất Paris này, cần phải thức đêm mới biết rõ những sự việc xảy ra xung quanh mình.”. Cũng có thể hiểu khoảng thời gian này được Balzac lựa chọn vì nó mang một ý nghĩa ẩn dụ như là chiều của cuộc đời. Cái chết của lão Goriot xảy ra vào buổi chiều, Vautrin bị bắt vào xế chiều… Nếu Hugo để nhân vật của mình phát triển bước đến ánh sáng qua hình tượng đối lập của ánh sáng và bóng tối thì Balzac lại để các nhân vật của mình ở lại trong bóng tối. Đó là cách ông miêu tả những ảo mộng tan vỡ và là sự dự cảm cho nhân vật tiếp tục bước đi trên con đường bóng tối như nhân vật Rastignac. Những sự kiện cuối cùng của tác phẩm được miêu tả nhanh chóng, gấp gáp, nhất là khi Balzac kể về đám tang của lão Goriot, từ lúc đưa quan tài đến khi hạ huyệt. Nhờ vậy, hiện thực được lột tả một cách rõ nét trong sự qua quít, chóng vánh, sơ sài của lễ tang. Tác giả phơi bày cho chúng ta bức tranh hiện thực qua từng nét vẽ mà ở đó lòng người lạnh lẽo, phũ phàng. Cái kết của tác phẩm cũng hé lộ con đường tha hoá của nhân vật Rastignac qua chi tiết “giọt nước mắt của chàng trai trẻ lăn dài, rơi xuống đất rồi từ từ vút lên cao”. Kết luận Như vậy, qua việc khắc hoạ không gian và thời gian nghệ thuật, Balzac đã đặt nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau, buộc nhân vật phải bộc lộ tính cách, thế giới nội tâm của mình. Qua đó, bức tranh thế giới hiện thực, “tấn trò đời” mà tác giả khắc hoạ càng được lột tả rõ nét. Balzac đã theo sát nguyên tắc tổ chức tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa: xây dựng không gian xã hội và tác động của hoàn cảnh sống đến tính cách nhân vật. Tác giả đã miêu tả tỉ mỉ thực tại, những gì tác động từ từ đến quá trình thay đổi nội tâm, tính cách nhân vật. Nhân vật của Balzac không phi thường, ngoại lệ nhưng có logic với hoàn cảnh sống. Nếu với chủ nghĩa lãng mạn, nhà văn xây dựng nhân vật ngoại lệ trong tình huống ngoại lệ, khẳng định thế giới ước mơ bằng cách đối lập nó với thực tại, không cần lý giải gì thì đối với chủ nghĩa hiện thực, tác giả luôn luôn phải lý giải nhân vật, ước mơ bám vào cơ sở của thực tại, hình thành từ thực tại. Trong tác phẩm, mọi hành động đều được lý giải bằng hoàn cảnh sống và nó quyết định đến ý thức nhân vật. Việc ước mơ va đập với thực tại chính là sự tan vỡ. Tác phẩm của Balzac không nói về riêng câu chuyện của người đời trước, ở xã hội xa xôi nào mà đúng với cả ngày nay, với bất cứ con người nào ở xã hội nào. Tác phẩm đã thực sự tạo một dấu ấn lớn trong nền văn học Pháp nói riêng và văn học Thế Giới nói chung. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Lão Goriot phần 1
Không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là môi trường sống của hình tượng nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới. Nó còn là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, như GS. Trần Đình Sử từng khẳng định: “Không có hình tượng nào không có không gian, không có nhân vật nào tồn tại ngoài một nền cảnh nào đó”. Mỗi nhà văn đều xây dựng một không gian riêng mang tính đặc thù, và mỗi nhân vật chỉ thực sự bộc lộ phẩm chất, tâm lí, tính cách trong không gian của mình. Xuyên suốt tác phẩm “Lão Goriot”, người đọc nhận thấy được hai không gian đối lập được nhà văn miêu tả với ngòi bút hiện thực: không gian nghèo nàn của quán trọ Vauquer khác hẳn với không gian sang trọng của giới thượng lưu Paris. Ngay từ những đoạn đầu tiên của tác phẩm, Balzac đã dành ra một thời lượng không nhỏ để miêu tả tỉ mỉ không gian bên ngoài và bên trong quán trọ Vauquer. Khung cảnh xung quanh quán trọ được miêu tả “Hiếm khi ngựa qua lại ở nơi này vì đây là một sườn dốc gập ghềnh nguy hiểm… Nhà cửa ở đây cũng thật nghèo nàn và buồn tẻ, những bức tường im ỉm và cũ mốc như tường của nhà tù.”. Nhìn từ ngoài vào ngôi nhà trọ, người ta thấy lớp vôi vàng ở những tầng trên cùng mà “tự nó tạo ra cho bản thân một sự hèn kém so với tất cả những ngôi nhà thời ấy ở Paris.”. Qua lời kể này, người đọc có thể thấy quán trọ Vauquer đã xuất hiện với vẻ ngoài cũ kĩ, nhàm chán lại nằm ở trong một khu phố yên tĩnh, buồn tẻ gần như bậc nhất của Paris. Mở đầu tiểu thuyết, người kể chuyện đã trò chuyện vài dòng với bạn đọc của mình. Người kể chuyện đã trực tiếp nhận định cho người đọc rằng câu chuyện sắp được kể đây ở không gian quán trọ Vauquer là một “thảm kịch” và sẽ làm người ta xúc động. Nhờ vậy, người đọc đã chuẩn bị tinh thần chứng kiến một câu chuyện buồn, bi hài giữa các nhân vật trong không gian không tạo được chút thiện cảm nào ngay từ khi bắt đầu. Không gian quán trọ này được Balzac miêu tả hoàn toàn đối lập với nơi phố thị phồn hoa trong lòng thành phố Paris. Không gian đối lập ấy đã tạo ấn tượng khác biệt hoàn toàn giữa cuộc sống của hai tầng lớp: thượng lưu và trung lưu trở xuống. Bên cạnh việc miêu tả không gian bên ngoài quán trọ, Balzac còn dẫn người đọc tiến vào sâu bên trong quán với cách miêu tả tỉ mỉ và chi tiết vô cùng. Trong quán trọ Vauquer xuất hiện rất nhiều đồ vật cũ kĩ, mang hơi hướng cổ điển mà không có vẻ gì là sang trọng. Từ màu sắc đến cách sắp xếp của căn phòng đều không tạo một vẻ chỉn chu và hấp dẫn khách đến ở. Điều khiến tôi ấn tượng nhất trong đoạn này đó là cách tác giả tạo ấn tượng về mùi ở bên trong quán trọ Vauquer, “một thứ mùi không có tên gọi trong ngôn ngữ nên gọi là mùi nhà trọ.”. Giúp người đọc hình dung được về các loại mùi là điều rất khó khăn đối với các nhà văn, nhưng các từ ngữ và cách thể hiện của Balzac đã đủ để người đọc tưởng tượng như đang bước chân vào chính không gian mà tác giả đang vẽ ra và hít hà cái mùi đặc trưng ở đó: “Nó có mùi vị như tất cả các mùi cộng lại: mùi một căn phòng sau bữa ăn tối, mùi hôi nhà bếp, mùi nhà tế bẩn.”, không gian như một nhà kho ẩm thấp, hôi hám của những loài vật lạ. Như vậy, Balzac cho người đọc cảm nhận không gian của các nhân vật của mình với không chỉ thị giác mà cả thính giác, vị giác, xúc giác. Tất cả những điều đó đã tạo ấn tượng mạnh về sự hèn kém, mục nát, xấu xí ở nơi những người tầng lớp dưới trong xã hội lúc bấy giờ sinh hoạt. Tôi có cảm giác rằng tác giả đang vạch rõ được ranh giới giữa hai tầng lớp này ngay từ không gian sinh hoạt của họ chứ chưa cần đến sự hiện diện của các nhân vật. Trái hẳn với việc miêu tả không gian quán trọ, nhà văn vẽ ra không gian nơi đô thị Paris phồn hoa bằng dung lượng ít hơn rất nhiều. Tuy nhiên, không cần đi vào quá kĩ từng chi tiết của không gian dành cho giới thượng lưu (phòng khách nhà phu nhân bá tước Beausant) cũng đủ giúp người đọc thấy được những gì xa hoa, lộng lẫy hoàn toàn tương phản với quán trọ bình dân kia. Những vật dụng trong nhà phu nhân bá tước Beausant thật quá đỗi xa xỉ, lấp lánh: “chiếc cầu thang lớn trang trí đầy hoa, có tay vịn bóng loáng, nền trải thảm đỏ.”. Đọc đến đây khiến tôi liên tưởng rằng chiếc cầu thang sang trọng này gợi đến mong muốn tiến thân vào con đường giới thượng lưu của anh chàng Rastignac. Nó thể hiện những cám dỗ mà tầng lớp này đem lại khiến anh không thể cưỡng lại. Trong anh có lẽ cái ý định thay đổi tương lai cho mình xuất hiện từ trước càng lớn hơn sau khi trực tiếp chứng kiến thế giới vật chất đang bày ra trước mắt. Dù vậy, con người của tầng lớp thượng lưu sống trong không gian ấy lại không có sự liên kết với nhau. Các nhân vật dường như lẻ tẻ, mỗi người lại có trong mình một câu chuyện riêng mà không tìm được điểm gặp gỡ để họ có thể xây dựng một mối quan hệ thực sự giữa người với người. Với các không gian mà Balzac tạo ra trong tác phẩm, tôi thấy có một điểm chung giữa hai kiểu không gian này, đó là dù là rộng và sang như phòng khách nhà phu nhân bá tước Beausant hay hẹp và hèn kém như quán trọ Vauquer thì đều chỉ có một lối ra, lối vào chính là đường thoát duy nhất. Ví như lão Goriot sống hay chết thì cũng chỉ đi qua một cửa. Đặt quán trọ trong tình tiết cái chết của lão Goriot, đây không phải là một nhà trọ cụ thể của riêng Balzac mà là quán trọ cuộc đời. Triết lý này có điểm gặp gỡ với quan niệm của nhà Phật: “Con người chỉ là khách trọ tạm thời trên trái đất này, hay tâm là quán trọ còn thân là khách, sẽ đến ngày khách rời quán trọ ra đi”. Bước ra khỏi quán trọ cuộc đời tức là nơi tạm trú, con người không thể mang theo được thứ vật chất giá trị gì bên mình, nếu làm những điều tội lỗi thì sẽ kết thúc thời gian ở quán trọ cuộc đời nhanh chóng với cách bi thảm nhất. Chỉ với hai không gian điển hình, nhà văn đã khái quát, tạo ấn tượng cho người đọc về Paris. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Lão Goriot phần 3
Đặt vấn đề Tác phẩm văn học tái hiện thế giới thực tại tạo thành thế giới nghệ thuật. Khi ấy, nhà văn sáng tạo không gian và thời gian nghệ thuật nhằm thể hiện hình thức tự nhiên của thế giới đó. Không gian và thời gian nghệ thuật là sản phẩm của nhà văn, thể hiện sự cảm nhận của cá nhân người nghệ sĩ. Hai khái niệm này không thể tách rời để làm nên tổng thể thế giới nghệ thuật. Nhờ có chúng, người đọc như được trải nghiệm cùng nhân vật, sống trong thế giới được nhà văn xây dựng nên. Honore de Balzac là nhà văn không có văn phong tạo ấn tượng đẹp như người Pháp vẫn coi trọng. Văn phong của Balzac thường được các nhà nghiên cứu nhận xét là quẩn quanh, tỉ mỉ và trúc trắc. Đây chính là nét điển hình trong văn phong hiện thực chủ nghĩa. Đi sâu vào phân tích, người đọc thấy được rằng bản chất của cả “Tấn trò đời” là tiền. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là quá trình tha hoá của con người khi họ lao vào những ham muốn, dục vọng của chính mình. Đôi khi ta nhận ra Balzac hình như không chỉ kể câu chuyện về “ai đó” ở ngoài xã hội mà còn muốn giễu cợt chính những khát vọng của mình. Trong cuộc sống, Balzac cũng có khao khát cho bản thân, có thể kể đến việc ông theo đuổi nữ bá tước. Đây là sự phản tỉnh của chính Balzac. Ông khảo cứu về cuộc đời thông qua chính mình. Cuộc sống và các nhân vật trong tác phẩm không hề xa lạ với người đọc bởi có thể nó tồn tại trong chính chúng ta. Ta có thể tìm thấy hình ảnh Balzac đằng sau những nhân vật thanh niên trẻ tuổi với khát vọng của họ. Tiểu thuyết “Lão Goriot” dựa trên bối cảnh là xã hội Paris năm 1819 với những vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc bấy giờ. Không gian và thời gian được xây dựng trong tác phẩm đã lột tả rõ hiện thực mà Balzac muốn phản ánh. Đồng tiền tha hoá mọi mối quan hệ, huỷ diệt tình yêu, tình người, tạo nên thế giới mà ở đó con người chà đạp lên nhau để sống. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Lão Goriot phần 2
Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn Nam Bộ Dấu ấn Nam Bộ vẫn luôn là điểm đặc biệt trong các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng. Trong “Tôi thích làm vua”, ngay từ mở đầu truyện, nhà văn đã mở ra không gian đặc trưng của Nam Bộ với một loạt các từ ngữ thuộc trường từ vựng về sông nước như: cù lao, sông, xuồng ghe, tàu, sóng, bến, neo… Với những câu văn suồng sã theo cách nói của người Nam Bộ: “…chớ ai về chi cái đất cù lao, lúc nào cũng sóng gió.”, “Dạ, chú muốn mấy đứa cũng có ự - Tôi lẹ miệng đáp lại.”… Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng rất nhiều phương ngữ Nam Bộ như “làm phước, niểng mặt, …” với những từ xưng hô như “con, tụi con, tụi tôi,…”, và những từ ngữ miêu tả phong tục tập quán như “xuống xuồng băng qua sông, mũ mão họ phơi trên mui ghe,…”. Tất cả tạo nên một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc Nam Bộ cho truyện ngắn này. Một số thủ pháp sáng tạo ngôn từ trong truyện “Tôi thích làm vua” Trong truyện ngắn “Tôi thích làm vua”, Nguyễn Quang Sáng sử dụng rất nhiều câu văn ngắn và thường là câu đơn. Như khi miêu tả cái rạp hát, nhà văn đã sử dụng ba câu đơn “Rạp hát là nhà lồng chợ. Kệ thịt, kệ vải đều được dọn ra ngoài. Người ta lấy lá che kín hết bốn bên.” Ngay cả những câu ghép, các vế câu đều hết sức ngắn gọn “Tôi là cháu của thầy tuồng, tôi được đánh trống.” Cùng với đó, nhà văn nhiều lần sử dụng biện pháp liệt kê ở các cấp độ khác nhau: trong cùng một câu văn như: “Cù lao có đến ba làng: Mỹ Tân, Mỹ Phú, Mỹ Hòa.” hay “Tuồng này có một ông vua, hai ông quan, một nịnh, một trung, một anh hề, một ái khanh, một thằng quân”… giữa các câu văn như: “Cái vui kế đó là, trước khi xem hát, chúng tôi rủ nhau đi xem hình quảng cáo…”, “Cái vui cuối cùng là, sau khi gánh hát nhổ neo đi, lũ nhỏ tụi tôi lại lấy lá dừa kết thành mão,…” Tất cả tạo nên nhịp kể nhanh, phù hợp với cách nói của người dân Nam Bộ, đặc biệt là phù hợp với tâm trạng náo nức và giọng điệu hồ hởi của một đứa trẻ (bởi lẽ câu chuyện được kể lại với điểm nhìn khi tôi còn bé). Ngoài ra, tác giả còn sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ: lặp lại từ “thích” (6 lần) , “vua” (11 lần), trong đó cụm từ “thích làm vua” được lặp lại đến 4 lần. Kết hợp với những câu nghi vấn “Làm vua?”, “Sao con thích làm vua?”, “ai là người thực cho cuộc đời, ai là người cho sân khấu?”… cùng với hình ảnh ẩn dụ “vua”, cách đặt tên nhân vật “thằng Đực” (nhân vật duy nhất có tên riêng). Tất cả góp phần tập trung thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm. Kết luận Những đặc sắc về ngôn từ nghệ thuật đã góp phần làm nên thành công của truyện ngắn Tôi thích làm vua. Mượn câu chuyện tuổi thơ của nhân vật tôi, nhà văn đã giãi bày những suy ngẫm về cuộc đời. Bởi vậy ngôn từ trong tác phẩm vừa gần gũi, giản dị, mộc mạc, phù hợp với cách nói của trẻ nhỏ, phù hợp với tính cách con người Nam Bộ nhưng cũng mang tính chiêm nghiệm, đối thoại sâu sắc. Chính điều này đã góp phần khẳng định phong cách sáng tác độc đáo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 1
Ngôn ngữ mang tính đối thoại, triết lí Đặc điểm này được thể hiện rõ nhất qua đoạn đối thoại giữa nhân vật “tôi” với người chú của mình. Khi người chú hỏi tôi “Hồi chiều tập qua mấy vai con thích vai nào?”. Tôi đã nghĩ mình là con cháu nên sẽ được chú ưu ái hơn và chẳng ngần ngại trả lời “Con thích làm vua.” Vì trong suy nghĩ của tôi – một đứa trẻ khi ấy làm vua thì oai lắm “được mặc áo con rồng, được đội mão vàng, được ngồi trên cao…”, làm vua thì “nhứt hô bá ứng, muốn xử ai thì xử, muốn gì được nấy…”. Vua là người đứng đầu thiên hạ nên là người quan trọng nhất, được nhiều người ngưỡng mộ nhất. Thế nhưng, người chú lại cười: “Làm vua?...Không được, vai vua để cho thằng Đực.” Chính quyết định này đã khiến tôi ngạc nhiên vô cùng. Bởi lẽ: “Thằng Đực là thằng ngu” – nó là thằng bé khờ nhất trong đám bạn, nó không biết vui cũng chẳng biết buồn, không biết hát cũng không biết múa, nó chỉ ngồi đực ra đấy nên là “Nó làm vua sao được?”. Nhưng “Chính vì vậy nó mới làm vua.” – “… làm vua, chỉ việc ngồi sẵn đó, màn kéo ra, đã thấy mặt nó rồi. Nó chỉ có việc vuốt râu, cầm cái ấn gõ xuống bàn, “quân bây” với “ái khanh”, vậy là vừa với cái sức của thằng Đực”. Hóa ra, ông vua trong thực tế mang trong mình trọng trách là thế nhưng trên sân khấu tuồng thì lại là con người vô dụng và thừa thãi nhất. Hóa ra, người đứng đầu thiên hạ lại là người chẳng làm nổi việc gì. Câu hỏi của tôi “Nó làm vua sao được?” và câu hỏi của người chú “Sao con thích làm vua?” không chỉ là lời đối thoại giữa hai nhân vật mà còn là sự đối thoại của tác giả với bạn đọc, là sự chất vấn của nhà văn với những quan niệm xưa cũ. Để rồi, với tôi cuộc trò chuyện ấy trở thành bài học vỡ lòng trong cuộc đời làm sân khấu: “Ai là người thực cho cuộc đời, ai là người cho sân khấu?”. Tính triết lí của ngôn từ còn được thể hiện rõ trong lời thoại của nhân vật người chú khi giảng giải cho “tôi” nghe về các vai diễn trong một vở tuồng “nếu đóng vai nịnh thì phải biết luồn lọt, phải biết lời ong tiếng ve để làm xiêu lòng bề trên, để đổi trắng thay đen, để được vinh thân phì gia, làm được vậy đâu có dễ… Nếu đóng vai trung thì phải trung thực, dám nói thẳng với vua lời lẽ ngay thẳng, cuộc đời phải chịu nỗi oan… Làm cho người ta khóc đã khó, làm cho người ta cười lại càng khó hơn. Làm cho người ta cười để người ta quên đi cái cuộc đời cơ cực, dù là giây phút cũng có ích cho đời…” Lời nói của người chú vừa là kiến thức sân khấu của một người “thầy hát” “đọc nhiều sách Tàu, biết nhiều tuồng tích”, nhưng cũng là sự chiêm nghiệm về cuộc đời của một người từng trải, một người nhiệt thành với nghề sân khấu đến nỗi “bỏ nhà đi hoang”. Nhân vật người chú đang nói lên những triết lí về những vai tuồng trên sân khấu và cuộc đời: từ vai nịnh, vai bi, vai hài, vai quan hay vai quân đều khó vào vai, đều quan trọng, đều có ích nhưng chẳng ai khao khát, vai vua – một vai phù hợp với một đứa trẻ khờ, một thằng ngu nhưng lại là ước mơ của nhiều người trong cuộc đời. Vua trên sân khấu và vua ngoài đời thật thực chẳng giống nhau. Truyện ngắn được ra đời sau năm 1986, khi chiến tranh đã khép lại, đất nước bước vào thời kì đổi mới. Cuộc sống thời hậu chiến có rất nhiều sự thay đổi, nó khiến ta phải nhìn nhận lại các giá trị, các quan niệm xưa cũ liệu có còn phù hợp với thời đại mới. “Tôi thích làm vua” là sự nhận thức lại như thế của nhà văn. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 4
Đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn “Tôi thích làm vua” của Nguyễn Quang Sáng Lời kể giàu tính tự truyện, bộc bạch Truyện ngắn Tôi thích làm vua là dòng hồi ức của nhân vật tôi về câu chuyện tập một vở tuồng với nhóm bạn của mình. Tôi nhớ lại gánh hát ngày nào do người chú mời về xóm cù lao biểu diễn, nhớ nhất câu chuyện hai chú cháu phân vai đặc biệt là vai vua trong vở hát nọ. Kết thúc tác phẩm, tôi kể về hiện tại của bản thân, đồng thời bày tỏ suy nghĩ về mong muốn được “làm vua” thuở còn nhỏ của mình. “Tôi” là người kể chuyện, cũng chính là nhân vật người cháu. Có thể thấy ngay từ nhan đề của tác phẩm người kể chuyện đã tự xưng, tự giãi bày về mong muốn “làm vua” của mình. Cốt truyện giản đơn, không có xung đột hay biến cố gì đặc biệt. Câu chuyện như lời tự bộc bạch của nhân vật “tôi”. Lời trần thuật của “tôi” trong truyện không chỉ đơn thuần là tường thuật lại sự việc như “Tôi sanh ra trên một cù lao giữa sông Tiền.”, “Năm đó, gánh nhổ neo đi rồi nhưng chú tôi còn nán lại chơi vài ngày với bà con.” mà còn được đan xen với suy nghĩ của nhân vật. Cùng với lời tự sự, nhà văn để chính người kể chuyện được bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của mình về các sự việc diễn ra ví như “Nghe chú giảng giải, tôi không chối cãi vào đâu, vai vua không thể ai khác ngoài thằng Đực, đúng lắm, nhưng vẫn thấy thằng Đực có số hên.” hay “Tiếc thay, bây giờ quanh tôi vẫn còn có người thích làm vua.”. Vì thế, đọc truyện ta có cảm giác như đang nghe lời tự thuật, tự giãi bày suy nghĩ của nhân vật “tôi”. Người kể thuật lại một cách tự nhiên, chân thật, gần gũi như đang thổ lộ với bạn đọc. Khoảng cách giữa người kể chuyện và bạn đọc do đó được kéo gần lại. Ngôn ngữ mang ý nghĩa diễn tả sự đối lập Có thể nói, toàn bộ truyện ngắn “Tôi thích làm vua” được xây dựng trên trục ngôn ngữ mang ý nghĩa đối lập. Đối lập giữa cái có và không có, giữa các vai diễn trong vở hát với con người đời thực, giữa suy nghĩ của tôi và người chú, đối lập giữa sân khấu và cuộc đời, thậm chí đối lập với chính tôi khi còn bé và sau này trưởng thành. Mở đầu tác phẩm nhà văn lấy cái không có để làm nổi bật cái có của xóm cù lao “cù lao của tôi chỉ thua nơi khác là không có xe hơi nhưng có xe ngựa, xuồng ghe thì không đâu bằng.”, tàu hỏa không có “nhưng ngày nào lũ trẻ cũng thấy tàu chạy lên chạy xuống”; lấy cái có để làm nổi bật cái không có của vùng đất này: “Cù lao có đến ba làng Mỹ Tân, Mỹ Phú, Mỹ Hòa” nhưng “ba làng nhập lại chẳng ra làng nào.”, cù lao đủ đầy về vật chất có trường, có chợ, có tàu, có ghe,… có “người mê hát đến nỗi bị chìm xuồng chết trôi” nhưng lại thiếu về đời sống tinh thần - “thiếu nhất là không được xem hát.” Hay trong một vở hát, người chú tập cho lũ trẻ tất cả các vai quan, quân, vai trung, vai nịnh, vai ái khanh nhưng “Tôi chờ hoài mà không thấy chú tập vai vua”. Trong suy nghĩ của tôi vai vua quan trọng lắm nhưng thực tế lại không thấy chú tập cho, vai vua uy nghi, hoành tráng lắm nhưng người chú lại giao cho thằng Đực – một đứa bé khờ, chẳng làm nổi việc gì. Nếu khi còn nhỏ, tôi “thích làm vua” nhưng ở phần cuối truyện, khi vào nghề đạo diễn tôi lại thấy “Tiếc thay, bây giờ quanh tôi vẫn còn có người thích làm vua.” Để diễn tả ý nghĩa đối lập, nhà văn sử dụng rất nhiều những cặp từ trái nghĩa như có – không, có – thiếu, vắng. Bên cạnh từ ngữ mang ý nghĩa khẳng định, tác giả sử dụng nhiều cách diễn đạt thể hiện ý phủ định như “không được…, làm sao được…, tiếc thay…” Chính cách diễn đạt mang ý nghĩa đối lập này đã tạo nên tính đối thoại cho truyện ngắn “Tôi thích làm vua.” Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 3
Tóm tắt: Nguyễn Quang Sáng được mệnh danh là cây đại thụ của văn học Nam Bộ. Bước vào thời bình, ông vẫn ghi dấu ấn qua các tác phẩm mang hởi thở của cuộc sống đương đại, trong đó phải kể đến truyện ngắn “Tôi thích làm vua”. Với ngôn từ giàu chất tự truyện, diễn tả nhiều sự đối lập, mang tính đối thoại và đậm chất Nam Bộ, truyện ngắn Tôi thích làm vua đã tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Từ khóa: Tôi thích làm vua, Nguyễn Quang Sáng Mở đầu Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã từng nhận xét các truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng “…giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một câu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật, … Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mức giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời ông vậy.” Có thể thấy, ngôn từ nghệ thuật là một trong những yếu tố làm nên chất riêng trong các sáng tác của Nguyễn Quang Sáng nói chung và trong truyện ngắn “Tôi thích làm vua” (1987) nói riêng. Nội dung Đôi nét về ngôn từ nghệ thuật và truyện ngắn “Tôi thích làm vua” Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ trong tác phẩm văn học bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân nhưng là ngôn ngữ được lựa chọn, tổ chức theo chủ đích nghệ thuật của người nghệ sĩ. Bởi vậy, nó mang dấu ấn riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ, nó phụ thuộc vào nhãn quan, vào cá tính sáng tạo của từng tác giả. Ngôn từ nghệ thuật mang tính hư cấu, tính hình tượng, tính nội chỉ, tính lạ hóa và lệch chuẩn. Ngôn từ không chỉ là chất liệu để xây dựng nên thế giới nghệ thuật của một tác phẩm mà còn là phương tiện giao tiếp của người nghệ sĩ với độc giả. Nguyễn Quang Sáng đã sử dụng lớp ngôn từ nghệ thuật đặc biệt để viết nên truyện ngắn “Tôi thích làm vua”. Tác phẩm được hoàn thành vào ngày 7 tháng 7 năm 1987 và được nhà văn chọn làm nhan đề cho tập truyện cùng tên xuất bản năm 1988. Với truyện ngắn này, nhà văn đã cho thấy sự đổi khác của ngôn từ nghệ thuật mang hơi thở cuộc sống và tinh thần thời hậu chiến. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Tôi thích làm vua phần 2
Có thể thấy giữa màu sắc u tối của tháng ngày lịch sử 1930- 1945 không gian văn học vẫn hàm chứa những nét đối lập của “cái thanh” và “cái tục” trong những tác phẩm điển hình của thời đại. Ta còn thấy sự đối lập của cái thanh và cái tục trong tác phẩm Lão Hạc (Nam Cao) và Tắt đèn (Ngô Tất Tố). Nếu như không gian văn học trong Tắt đèn là một màu sắc u tối dưới sự thống trị của cường hào, lý trưởng, cai lệ,… thì ta lại thấy sáng ngời lên nét đẹp của một Chị Dậu đảm đang, tháo vát, yêu chồng thương con. Giữa tầng lớp thống trị độc ác, bất nhân sẵn sàng cướp đi mạng sống và tự do của người dân vô tội đại diện cho “cái tục” thì chị Dậu được Ngô Tất Tố xây dựng lên với biết bao phẩm chất quý giá. Trong những năm tháng tối tăm mịt mờ “tối như cái tiền đồ của chị”, Chị Dậu bên cạnh phẩm chất dịu dàng, một người vợ yêu chồng thương con còn là một người có sức vươn lên đấu tranh mạnh mẽ. Chị phải giằng xé đến tận đáy lòng khi bán đi máu mủ cốt nhục của mình, đó là vì tình huống cấp bách trước mắt và cũng vì gia đình, vì chồng vì con. Không bán cái Tí chồng chị sẽ bị đánh chết, cái Tí không vào nhà Nghị Quế nó có thể chết đói. Chị hành động 1 cách hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh ép buộc. Chị có thể bán mình nhưng chị không thể đánh mất đi phẩm chất lương thiện, nhân cách một người vợ, một người mẹ. Người đàn bà ấy dám thách thức đầy liều lĩnh “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Đó là sự phản kháng mang tính tự phát nhưng cũng là kết quả của sự dồn nén áp bức từ bọn thống trị lên đầu chị bấy giờ mới có dịp khởi phát. “Cái thanh” và “cái tục” luôn có sự đối lập rõ rệt trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán. Sự đối lập này còn được thể hiện qua tác phẩm “Lão Hạc”. Khi sống giữa chế độ thực dân nửa phong kiến thối nát, lão vẫn giữ cho mình một phẩm chất cao quý. Lão là một người đàn ông bất hạnh nhưng có một tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Lão thà chết chứ nhất quyết không bán đi mảnh vườn cha ông để lại, lão muốn giữ cho con mảnh vườn dù không biết đến bao giờ thằng con lão mới được về. Lão gửi ông giáo tiền ma chay để an lòng khi nhắm mắt mà không cần phiền tới hàng xóm láng giềng, lão là một người nông dân giàu lòng tự trọng. Giữa những năm tháng u tối của lịch sử, khi cái chết rải rác khắp mọi nơi, khi cõi âm tràn vào cõi dương, sự sống của con người mấp mé với bờ vực địa phủ thì lão Hạc lại sáng lên tư cách của một người làm cha và phẩm chất của một kẻ làm người. Sự lựa chọn cái chết của lão Hạc cho ta thấy “cái thanh” có thể thua thế giữa “cái tục” xấu xa, lấn lượt nhưng con người sẵn sàng nguyện chết để bảo vệ sự trong sáng suốt cuộc đời của mình. Có thể nói, trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930-1945 sự đối lập giữa “cái thanh” của tâm hồn con người và “cái tục” của xã hội đương thời luôn được các tác giả thể hiện rõ rệt. Qua đó khiến người đọc dễ dàng nhận ra một không gian nghệ thuật điển hình qua lăng kính hiện thực phê phán 1930- 1945. Kết luận Không gian nghệ thuật là một yếu tố vô cùng quan trọng trong mỗi tác phẩm, nó góp phần tạo nên hình tượng nghệ thuật mà nhà văn hướng đến trong sáng tác, đồng thời không gian nghệ thuật giúp người đọc có cái nhìn khái quát hơn về hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930-1945, các tác giả thường đặt nhân vật của mình trong một cuộc sống xã hội có nét chung đó là màu sắc u tối của chế độ thực dân nửa phong kiến. Tuy nhiên mỗi nhân vật đều mang một nét đặc trưng riêng, đại diện cho một phẩm chất điển hình riêng. Từ việc xây dựng nên không gian nghệ thuật cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật, các nhà văn đều xoáy sâu vào tố cáo xã hội đương thời thối nát chà đạp lên quyền sống của con người. Bên cạnh đó, các nhà tri thức cũng ngầm bày tỏ sự cảm thương cho số phận và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người nông dân lúc bấy giờ. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930 1945 phần 1
Không gian hiện thực đen tối, u ám Trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, ta thấy ngay từ mở đầu tiểu thuyết đã hiện lên một bầu trời u ám, ngột ngạt của xã hội đương thời: “Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò lục tục kéo thợ cầy đến đoạn đường phía trong điếm tuần. Mọi ngày, giờ ấy, những con vật này cũng như những người cổ cầy, vai bừa kia, đã lần lượt đi mò ra ruộng làm việc cho chủ. Hôm nay, vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải rác ở hai vệ đường, giống như một lũ phu vờ chờ đón những ông quan lớn. Dưới bóng tối của rặng tre um tùm, tiếng trâu thở phì phò, tiếng bò đập đuôi đen đét, xen với tiếng người khạc khúng khắng…” Không gian nghệ thuật mở ra trước mắt chúng ta một màu sắc ảm đảm của khung cảnh đất nước trước những năm tháng chưa có ánh sáng cách mạng. Đó là hình ảnh con người vất vả đầu tắt mặt tối ngày ngày cày thuê quốc mướn mà không biết đến bao giờ cuộc đời họ mới khấm khá lên được. Bao trùm lấy cuộc đời họ là một bầu không khí ảm đạm của bóng tối bao trùm lên không gian cùng hơi thở mệt mỏi của bầu trời làng quê nghèo đói. Không gian nghệ thuật còn trở nên đậm nét trong cảnh nông thôn chìm trong màu sắc u tối của tháng ngày sưu cao thuế nặng: “Những tiếng thét đậm, thét đánh đã yên. Người ta không nỡ bắt trói chị Dậu, tuy gặp chị lò mò trong bóng tối và biết chị đích thị là thủ phạm đã gây ra vụ chó sủa, người là, tù và rúc khắp làng”… “Sao thưa dần. Sương mù bắt đầu pha đục bầu trời. Mặt trăng tà tà đến gần mặt lũy. Tiếng gà te tê lần lượt từ nhà nọ truyền đến nhà kia….” Được sáng tác năm 1937, tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã phản ánh thẳng thắn hiện thực xã hội đương thời bằng tất cả những giác quan của mình. Ông đã tạo dựng nên một không gian nghệ thuật chân thực qua cảm nhận sắc bén, tinh tế để mang đến cho người đọc một khung cảnh ấn tượng với những gam màu đen tối ảm đạm của bóng tối và sương mù, cùng âm thanh căng thẳng của tiếng thét đánh hòa cùng tiếng chó sủa. Giữa khung cảnh ám ảnh đó là hình ảnh con người chìm trong những nỗi lo toan sưu cao thuế nặng cùng cái chết treo lơ lửng trên đầu những người nông dân Việt Nam. Không gian văn học trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán còn có nét đặc trưng riêng bởi nó chứ đựng biết bao bầu tâm trạng của con người. Trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao, nhà văn tuy không đi vào miêu tả cụ thể cảnh thiên nhiên nhưng tác giả lại tinh tế sáng tạo nên một không gian nghệ thuật chứa đựng nhiều tâm trạng của nhân vật. Để khắc họa nỗi buồn bã, đau khổ của Lão Hạc khi quyết định bán Cậu Vàng, Nam Cao tinh tế miêu tả gương mặt khắc khổ của lão hiện lên giữa mùi khói thuốc lào trong nắng chiều ảm đạm. Hay hình ảnh số phận bất hạnh của lão khi đã nghèo còn gặp phải trận ốm kéo dài cùng bão lũ phá hoại hoa màu, mùa màng. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm đã tái hiện lại cho chúng ta về nỗi đau khổ chung của con người Việt Nam những năm 1930-1945 khi họ vừa nghèo, vừa không có sức lao động, không có việc làm và đặc biệt phải sống trong sự bóc lột của chế độ thực dân nửa phong kiến. Họ bị dồn vào chân tường đến mức phải mò cua bắt ốc, ăn củ chuối, củ ráy để níu kéo từng hơi thở qua ngày như lão Hạc; họ phải bán con, bán chó để có tiền nộp sưu thuế như chị Dậu. Hay nặng nề hơn, họ phải tìm đến cái chết để giải thoát cho cuộc đời mình như Lão Hạc, Chí Phèo. Có thể thấy nét chung trong không gian nghệ thuật của giai đoạn văn học 1930-1945 có một màu sắc đen tối, u ám, qua đó phần nào phản ánh số phận con người của xã hội đất nước lúc bấy giờ. Không gian đối lập giữa cõi thanh và cái tục. Cõi thanh ở đây là cái đẹp, cái khát vọng sống cao quý của con người giữa cái tục là cái tối tăm, u ám của xã hội đương thời. Bản thân Chí Phèo được xây dựng là một anh canh điền hiền lành lương thiện, hắn được người dân làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi lớn. Chí Phèo ngày ngày chăm chỉ làm thuê cho nhà Bá Kiến với những ước mơ bình thường, giản dị đó là sau này có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Ước mơ ấy tưởng chừng trong sáng, bình dị, đơn giản nhưng đối với những người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ lại là một điều vô cùng khó khăn. Chí ấp ủ một khát vọng trong sáng nhưng lại đối diện với “cái tục” của xã hội đó là khi bà Ba nhà Bá Kiến gọi Chí đến để đấm lưng, bóp chân cho bà. Sau đấy, chỉ vì một cơn ghen của Bá Kiến mà Chí Phèo bị đẩy vào tù vô cớ. Sau 7,8 năm bị nhà tù thực dân hành hạ đến biến chất, Chí Phèo ra tù với bóng dáng của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại: “Trông hắn như cái thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết!..” Không những thế, hắn phủ lên không gian làng quê những tiếng chửi rủa đầy đáng sợ: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…” Có thể thấy, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực đầy xót xa lúc bấy giờ đó chính là “cái tục” của xã hội đang dần lấn lướt “cái thanh” của con người. Con người có thể bị tha hóa khi sống trong một xã hội tối tăm, u ám, luôn chà đạp lên quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc. Tuy nhiên, nhà văn Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình một con đường quay trở về với bản tính vốn có, cũng như sự chiến thắng của “cái thanh” giữa “cái tục” xấu xa trong xã hội. Có thể thấy, tuy nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí từ một anh canh điền hiền lành trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại nhưng ở sâu thẳm trong Chí lại là một khát vọng làm người lương thiện. Vào cái ngày chí gặp Thị Nở- một người đàn bà xấu xí, dở hơi nhưng mang trong mình trái tim nhân hậu. Người đàn bà ấy đã cho Chí sự quan tâm, chăm sóc vô điều kiện và chính điều này đã khơi dậy lại khát vọng sống trong Chí. Lần đầu tiên trong cuộc đời của mình, Chí cảm nhận được âm thanh của sự sống và tiếng nói của tâm hồn: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…” Không gian nghệ thuật ở đây không còn u tối, ảm đảm nữa mà thay vào đó là không gian trong sáng, sinh động của thiên nhiên. Việc tạo ra một không gian nghệ thuật tươi đẹp ấy dưới con mặt của một người đàn ông mới ngày hôm qua còn là con quỷ dữ mà một phát hiện độc đáo của nhà văn Nam Cao. Tác giả không chỉ tái hiện cái không gian nghệ thuật trong văn học, mà qua đó còn muốn phản ánh sự sống dậy của “cái thanh” trong tâm hồn con người. Bởi có lẽ chỉ khi đủ bình tĩnh con người mới có thể cảm nhận được âm thanh và nét đẹp của thiên nhiên, sự sống. Không những thế, Chí còn cảm nhận được nỗi đáng sợ của tuổi già, sự cô đơn- cái mà xưa nay chưa bao giờ tồn tại trong tâm can của Chí. Đỉnh cao sự quay về của “cái thanh” giữa cuộc đời trần tục là khát vọng Chí Phèo khao khát được làm người lương thiện. Chí muốn được trở về người đàn ông hiền lành ngày xưa và hy vọng Thị Nở sẽ là cầu nối đưa Chí quay về với cuộc sống của con người. Ấy vậy mà, “cái tục” vẫn chưa buông tha cho Chí, cái định kiến xã hội điển hình là bà cô Thị Nở đã một lần nữa cắt đứt sự kết nối của Chí với con người. Cái định kiến ấy đẩy Chí vào một bi kịch đó là bi kịch bị từ chối quyền làm người. Cánh cổng quay về con đường lương thiện gần như khép lại không cho Chí cơ hội để quay về. Và rồi, Chí không chấp nhận điều đó, Chí không thể tiếp tục cuộc sống chấp nhận cái xấu xa, tha hóa của xã hội nhào nặn lên con người mình, và Chí đấu tranh, phản kháng lại bằng cách đâm chết Bá Kiến- đâm chết cái nguyên nhân gây nên nỗi bi kịch của cuộc đời và cùng với đó là kết liễu cuộc đời mình để bày tỏ thái độ “thà chết chứ không tiếp tục một cuộc đời xấu xa” Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930 1945 phần 3
Tóm tắt: Giai đoạn lịch sử đất nước những năm 1930- 1945 có những biến đổi sâu sắc, đó là những năm tháng đất nước ta chìm vào một xã hội rối ren, đen tối về kính tế, chính trị cũng như những kiến trúc thượng tầng. Nền kinh tế kiệt quệ dưới ách thực dân phong kiến khi chế độ sưu thuế, chế độ bắt phu bắt lính của thực dân Pháp và chế độ Phong kiến suy tàn. Xã hội Việt Nam là một địa ngục, khắp nơi nạn đói hoành hành, bọn đầu trâu mặt ngựa tác oai tác quái, cái chết treo lơ lửng trên đầu mỗi người và khủng khiếp nhất là nạn đói vào mùa xuân năm 1945- hơn 2 triệu người chết đói. Những thế lực thống trị mẫu thuẫn nhau: mâu thuẫn giữa thực dân với phong kiến; mâu thuẫn giữa phong kiến với tư sản, mẫu thuẫn giữa tư sản với thực dân… Những lực lượng đối kháng cách mạng giao tranh, có những chiến tuyến rõ rệt như cách mạng, phản cách mạng; có những nhà yêu nước nhưng không có phương hướng, có những người bang quang, lẩn trốn, có những người đi theo tầng lớp thống trị của thực dân… Đặt vấn đề: Hoàn cảnh xã hội ngày càng có những thay đổi khi giai cấp tư sản: từ lực lượng tiến bộ chống đối phong kiến, quay sang bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động; giai cấp công nhân trở thành một lực lượng độc lập chống giai cấp tư sản; tầng lớp tri thức tư sản cấp tiến chứng kiến sự đối lập giữ hai giai cấp đưa hiện thực vào tác phẩm. Có thể thấy giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ra đời trong hoàn cảnh xã hội chịu đựng sự tác động của các yếu tố xã hội đó, phương pháp sáng tác hiện thực phê phán có những nguyên tắc sáng tác riêng và truyện là loại thể phù hợp với những nguyên tắc ấy nên nó phát triển và đạt nhiều thành tựu. Không gian nghệ thuật trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930-1945 Không gian nghệ thuật trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930- 1945 được các nghệ sĩ lấy hiện thực làm đối tượng phản ánh. Tuy nhiên họ chỉ thấy hiện thực u ám, đen tối nên cảm hứng chủ đạo của họ là phê phán xã hội. Họ nguyện làm thư kí trung thành của thời đại nên các nghệ sĩ chủ yếu tái hiện hiện thực một cách khách quan, chân thực theo tinh thần như nó vốn có. Bên cạnh đó, ta còn thấy sự đối lập giữa các miền không gian trong văn học hiện thực phê phán đó là không gian tươi đẹp của thiên nhiên và không gian ngột ngạt, tù túng của con người; đối lập giữa cõi thanh (khát vọng sống của con người) và cái tục (một xã hội đen tối). Nhà văn phê phán trật tự xã hội, tác giả cũng mơ ước về một xã hội công bằng dưới con mắt nhân đạo, qua đó các nghệ sĩ ngoài cảm hứng phanh phui và phê phán trật tự xã hội họ còn phát hiện ra vẻ đẹp của con người. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong giai đoạn văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 phần 2
Tác phẩm Ông già và biển cả, chúng ta không chỉ bắt gặp kiểu đối thoại mà còn cả độc thoại, bị ngắt quãng liên tục. “Cháu sẽ lấy cái lưới quăng đi bắt cá mòi. “ Ông ngồi sưởi nắng trên ngưỡng cửa chứ?”[1, 11]. Đáp lại thằng bé ông chỉ nói “Ừ”. Sự động viên và niềm tin tuyệt đối của chú bé Manolin là động lực cổ vũ lão tiếp tục theo đuổi khát vọng lớn nhất của cuộc đời mình, đó là khát vọng bắt được con cá lớn để chứng tỏ khả năng cũng như sự tồn tại của mình. Ông lão cảm thấy ngập tràn hạnh phúc trước những lời động viên kịp thời của chú bé Manolin chẳng hạn như: Ông lão nhìn chú bé bằng cặp mắt hiền từ và nói: “Cảm ơn cháu nhiều Manolin à. Quả thực ông rất hạnh phúc khi có cháu bên cạnh. Cháu là niềm động viên lớn nhất của ta”. Nhưng ở đây Hemingway chỉ nói “cảm ơn. Cháu làm ông hạnh phúc. Ông hi vọng sẽ không xuất hiện con cá vĩ đại đến mức sẽ chứng minh rằng ông cháu ta sai” và rõ ràng ở đây lời người dẫn truyện hoàn toàn khuất bóng. Đây là một trong những nguyên nhân khiến ngôn ngữ trong tác phẩm bị cô đặc, thể hiện phong cách kiệm lời của Hemingway. Chính vì vậy, có thể nói Hemingway là người đã làm sống lại nghệ thuật tiểu thuyết thế kỉ XX. Như vậy, bằng kiểu đối thoại hay độc thoại, Ông già và biển cả đã rất thành công khi mang lại cho độc giả cảm giác gần như toàn bộ tác phẩm là dòng nội tâm của ông lão Santiago. Cuộc đời lão là một sự bi đát. Con người nhỏ bé, dẫu vẫy vùng đến đâu cũng không thoát khỏi vòng kìm kẹp của cuộc sống. Những dòng đối thoại và độc thoại nội tâm xen kẽ những dòng suy tư đã chứng tỏ sự cô đơn và những trải nghiệm về một quá khứ huy hoàng mà lão đã trải qua. Sự cô đơn đã khiến lão nhận thấy "Con người ta không nên sống một mình khi tuổi đã xế bóng" [1, 6]. Sự xa lạ ngay chính nơi mình sinh sống, ngay với những người mà mình thân quen đã khiến nhân vật Santiago đã cô đơn lại càng trở nên cô đơn hơn, đã khép mình lại càng trở nên khép mình hơn. Trước những cái nhìn ái ngại của nhũng ngư dân đánh cá, những con mắt tò mò, đỏng đảnh của những du khách lão trở nên vô danh như bộ xương cá Kiếm vậy. Điều này đã nêu lên một triết lí sống trong xã hội hiện đại mà cả một thế hệ thanh niên Mỹ trở về sau chiến tranh họ mất hết niềm tin vào cuộc sống, không thể hoà nhập với xã hội hiện đại mà vô tình họ tự nhận mình là "thế hệ vứt đi", đó là triết lí tất cả mọi thứ cuối cùng đều trở thành hư vô, điều cao quí của người này lại trở thành tầm thường, vô vị đối với người khác và ngược lại. Một xã hội vô tình, con người khó có thể lấy được sự cân bằng. Chỉ có nghị lực và niềm tin vào chính mình thì con người mới có thể tồn tại và tạo nên những thành quả bền vững, vĩnh hằng. Thứ ba, dựa vào nguyên lí “tảng băng trôi” và những nét đặc sắc về ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm các nhân vật hiểu và đến gần với nhau hơn Trong tác phẩm mỗi nhân vật đều có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại bổ sung cho nhau. Mỗi con người trong xã hội đều mong muốn được hoàn thiện mình và khẳng định vị thế của mình. Quả vậy, mỗi con người khi sinh ra và lớn lên đều phải chết một lần, nhưng ai cũng vươn lên không ngừng trước khi đến với cái chết. Con người trong xã hội Mỹ cũng như bản thân ông lão Santiagô đang trên con đường vươn tới tương lai, nhiều đau khổ, nhiều bất hạnh nhưng sẽ đạt được ước mơ của mình. Tác phẩm Ông già và biển cả xứng đáng là một sự cách tân đối với thể loại tiểu thuyết hiện đại, là tác phẩm văn xuôi hiện thực xuất sắc thế kỉ XX. Như vậy, sự xuất hiện của “Ông già và biển cả” đã đánh dấu một mốc son chói lọi trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông. Tiêu biểu cho nguyên lí sáng tác “tảng băng trôi” là phương thức sáng tác độc đáo của Hemingway. Với nguyên lí “tảng băng trôi” Hemingway đã cắm ngọn cờ chiến thắng cho khuynh hướng văn học hiện thực. Ngòi bút Hemingway đã đi sâu phản ánh khát vọng làm nên những điều lớn lao của những con người bình dị. Nguyên lí “tảng băng trôi” thực sự đã tạo nên một cuộc cách mạng trong ngôn ngữ, có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ trong tiểu thuyết hiện đại. Hemingway xứng đáng là một nhà văn được mệnh danh là người có lối viết độc đáo, mãnh liệt nhất của tiểu thuyết phương Tây hiện đại. Tính chất mãnh liệt đó thể hiện qua những đối thoại ngắn gọn, súc tích, sắc sảo, đôi khi kéo dài đầy kịch tính với những chi tiết bất ngờ đầy ẩn ý, điều này đã tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc tìm hiểu và nghiên cứu các tác phẩm của ông không chỉ hôm nay mà mãi mãi mai sau. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Ông già và biển cả phần 1
Thứ hai, bằng các lớp ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm Hemingway đã miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách trần trụi Khi viết Ông già và biển cả, Hemingway đã cô đặc từng yếu tố ngôn ngữ, chi tiết, hình ảnh, làm cho tác phẩm bị bó hẹp lại. Bởi vậy, dung lượng trong tác phẩm không quá lớn, thậm chí là “ngắn”, “vừa”, “quá cỡ”. Với những kiến thức phong phú. kinh nghiệm và những trải nghiệm cuộc sống đáng nhẽ ra nhà văn cần phản ánh mảng hiện thực đó trong tác phẩm văn học một cách rộng rãi, với những tình huống, sự kiện, nhân vật phong phú, sống động nhưng ở đây thì ngược lại trong sáng tác của ông bao giờ cũng tồn tại những sự thật trần trụi với cuộc sống đời thường. Santiago là hình tượng nghệ thuật độc đáo, thể hiện ý chí và khát vọng làm nên những điều lớn lao của con người. Đây là tác phẩm rất ít nhân vật, trong khi thời gian bị giới hạn chỉ với ba ngày ba đêm, không gian xảy ra ở vùng biển Havana. Với bút pháp nghệ thuật điêu luyện, Hemingway đã xây dựng thành công nhân vật Santiagô và biến tác phẩm thành thiên truyện vĩ đại mà bất kì một nhà văn nào cũng ao ước được viết một thời. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên nhà văn sử dụng để sáng tác và cũng là yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc đối với tác phẩm. Viết Ông già và biển cả, Hemingway rất thành công khi xây dựng nên lớp ngôn từ nghệ thuật cô đặc, ngắn gọn, có sức chứa đựng lớn; đối thoại và độc thoại nội tâm; đối thoại xen kẽ với độc thoại nội tâm làm nổi bật tính cách và trạng thái tâm lí của nhân vật. Về đối thoại, nhà văn luôn có ý thức nhường lời cho nhân vật. Vì vậy, đối thoại có cơ hội phát triển và chiếm ưu thế mạnh trong tác phẩm. Từ những lời đối thoại tưởng như đơn giản, lỏng lẻo của nhân vật nhưng lại thể hiện nhiều tầng ý nghĩa. Nhân vật tham gia cuộc hội thoại không quan tâm đến nội dung đang nói mà lại theo đuổi suy nghĩ riêng theo dòng ý thức chủ quan của mình như cơ duyên để cá tính, ý thức của nhân vật tự bộc lộ. Trong khi đó, nhà văn mất nhiều công sức, thời gian để nghiên cứu, miêu tả, trình bày, hoặc nói thay cho nhân vật. Đây là cái độc đáo, sáng tạo của Hemingway, khác với các nhà văn khác thường sử dụng kiểu đối thoại như trích dẫn, tức là các nhân vật đối thoại, nói chuyện với nhau, đảm bảo nguyên tắc giữa các lượt lời đối thoại, nhờ đó tính cách nhân vật được bộc lộ. Ở Hemingway, đối thoại không tuân theo một trình tự, diễn biến nào cả thay vào đó là sự lan man, đứt đoạn, từ chuyện này nhảy sang chuyện khác một cách nhanh chóng, đột ngột. Vì thế, nhiều người cho rằng văn chương của Hemingway giống như băng ghi âm hay tốc ký mà nhà văn đã kịp thời ghi lại nguyên vẹn cuộc trò chuyện giữa các nhân vật. Đối thoại trong Ông già và biển cả khá đơn giản, là những hành động của ông lão nói và thằng bé đáp hoặc ngược lại: “Đừng”, “Ông nhớ”, “Ông hiểu”, “Đấy là chuyện thường”. Là sự đối đáp giữa ông lão và chú bé nhưng hết sức rời rạc, khó hiểu. Nhưng nếu đọc kĩ tác phẩm sẽ thấy những lời ông lão nói như chất chứa một nỗi buồn từ trong sâu thẳm tâm hồn dù lão không trực tiếp nói ra và lời người dẫn truyện cũng vắng bóng. Như vậy, có thể nói đối thoại giữa các nhân vật bị cô đặc đến tận cùng, không chỉ ngắn về nội dung lời thoại mà còn bị lược bỏ phần thuyết minh. Chỉ có chủ thể “ông lão nói” và “thằng bé đáp” nhưng qua đó người đọc vẫn thấy được chiều sâu tâm trạng của ông già Santiago và tình cảm thiết tha của chú bé Manolin với ông lão. Khi thằng bé hỏi “ông sẽ đến đâu” để câu cá, đâu sẽ là nơi để lão thực hiện ước nguyện của mình, ước nguyện bắt được con cá lớn để khẳng định mình, để kiếm sống và để thoả mãn lòng kiêu hãnh của một con người luôn luôn khát khao được chinh phục những thử thách tiến tới chiếm lĩnh đỉnh cao vinh quang, làm nên giá trị thực của một con người. Mong ước của những người lao động bình thường là được hưởng những thành quả do mình vất vả tạo ra để khẳng định giá trị đó với mọi người trong xã hội. Tuy nhiên để đạt được điều đó đòi hỏi phải có kiến thức, kinh nghiệm thức tế nếu không rất dễ bị thất bại. Bởi vậy, trong khi đánh giá rất cao nghệ thuật đối thoại của Hemingway nhiều nhà nghiên cứu đã đi đến một nghịch lí đó là “Ở những tác phẩm hay nhất của Hemingway, tấn kịch diễn ra bên dưới đối thoại” (A.Maurois). Nghĩa là sử dụng đối thoại để ẩn giấu thái độ của nhà văn, ngay lời lẽ của nhân vật cũng mang một ẩn số. Vì vậy, người đọc cần phải hiểu, nắm rõ “mạch ngầm văn bản”, nếu nóng vội và không có sự kiên trì thì không thể phát hiện ra được vẻ đẹp ẩn chứa bên trong nhân vật Santiago luôn muốn được khẳng định mình, được chiến thắng trong cuộc chiến chống lại số phận nghiệt ngã, chống lại các thế lực bạo tàn trong xã hội. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Ông già và biển cả phần 3
Một số nét đặc sắc về ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm “Ông già và biển cả” của nhà văn Hemingway là một bộ phận rất quan trọng và ý nghĩa, được cấu thành bởi các nhân vật, tình huống truyện trong tác phẩm văn học. Thông qua hệ thống ngôn từ chọn lọc của nhà văn phần nào bộc lộ rõ các nét tính cách, nội dung tư tưởng, tình cảm của các nhân vật. Vì vậy, cần phải đề cao cả giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì tác phẩm không có giá trị. Từ khóa: Ông già và biển cả; Hemingway; Santiago. Trong những năm qua, nền văn học châu Mỹ tuy ra đời muộn nhưng thành tựu mà nó đạt được đã khiến toàn nhân loại phải kinh ngạc và thán phục. Cùng với những biến cố trong lịch sử xã hội, là sự đổi thay trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Tất cả đã tạo nên một diện mạo, nền văn học mới, trẻ trung, sôi động, giàu nhịp điệu, đa phong cách trong nghệ thuật. Bởi vậy, để tìm hiểu một số nét đặc sắc về ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm “Ông già và biển cả” của Hemingway giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về một nền văn học còn khá mới mẻ với độc giả Việt Nam, đồng thời đánh giá được vị trí, vai trò của văn học Mỹ trong kho tàng văn học thế giới. Thứ nhất, Hemingway là một nghệ sĩ tài hoa với phong cách viết độc đáo, tinh tế không giống ai Hemingway là một nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Ông có công rất lớn trong việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, tư duy sáng tạo trong văn học nghệ thuật đặc biệt ở mảng văn xuôi thế kỉ XX. Mặt khác, Hemingway là một trong số ít nhà văn nước ngoài được đầu tư dịch thuật ở Việt Nam, cho nên thị hiếu thẩm mỹ của người Việt Nam cũng có sự thay đổi khi đánh giá và nhìn nhận về nền văn hoá Hoa Kỳ. Tại Việt Nam số lần dịch thuật tác phẩm “Ông già và biển cả” đã lên tới con số sáu, điều đó chứng tỏ được sự quan tâm đặc biệt của các tác giả, nhà nghiên cứu, dịch thuật. Tìm hiểu về Hemingway giúp chúng ta hiểu sâu sắc về một nhà văn trẻ, một con người tài hoa, một nhân cách lớn, dày dặn kinh nghiệm trên biển. “Ông già và biển cả” là sự cô đúc tuyệt vời của một tài năng nghệ thuật văn chương, một người nghệ sĩ suốt đời phấn đấu vì sự phát triển của nhân loại. Trong tác phẩm này, nhà văn đã bộc lộ đầy đủ về thế giới quan, nhân sinh quan, con người và khả năng hữu hạn của nó. Tác phẩm không đơn thuần là chuyện săn bắt cá, chuyện “ông già” và “ biển cả”. Cuộc săn bắt của lão Santiago là ẩn dụ về cuộc hành trình đầy gian khổ của con người, mơ ước chinh phục đỉnh cao của vinh quang, thực hiện khát vọng lớn lao của một con người. Vì ý nghĩa đó, tác phẩm đã mang lại nhiều giá trị nhân văn tốt đẹp, là bài học giáo dục sâu sắc và trở thành một trong những tác phẩm chính thống được đưa vào chương trình giảng dạy ở nhà trường phổ thông và là đề tài nghiên cứu khoa học ở các trường Đại học. Việc tìm hiểu về tác phẩm giúp chúng ta có cách tiếp cận tác phẩm theo một hướng nhìn mới, đồng thời hiểu rõ hơn giá trị nhân văn sâu sắc mà tác phẩm muốn gửi gắm đến độc giả. Đây là kiệt tác bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hemingway. Viết năm 1952 và được trao tặng giải thưởng Noben năm 1954. Ngay từ khi ra đời tác phẩm đã được bạn đọc trên toàn thế giới quan tâm và yêu mến. Đây là cuốn tiểu thuyết có dung lượng tương đối ngắn, toàn bộ tác phẩm chỉ khoảng 27000 từ song đã tái hiện được đầy đủ cuộc đời và số phận của một con người. Mỗi một tác phẩm nghệ thuật được ra đời, nó là đứa con tinh thần của nhà văn. Trong đó, hàm chứa một tư tưởng, quan niệm, triết lí, bài học về nhân sinh sâu sắc. Đây cũng là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong phong cách nghệ thuật không giống ai ở các nhà văn cho dù cùng thời hay không cùng thế kỉ. Vì vậy, từ cổ chí kim thật khó để tìm thấy một Nam Cao thứ hai với cái nhìn nhân đạo về người nông dân, ông không chỉ miêu tả nỗi thống khổ của họ mà ông còn lên tiếng bênh vực, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn của họ. Viết về người nông dân, Nam Cao không chỉ xây dựng hình tượng đẹp về người nông dân mà ông còn đưa ra quan điểm nghệ thuật riêng cho bản thân mình và các văn nghệ sĩ nói chung. Đến với văn học Mỹ, bạn đọc bắt gặp một Hemingway với nguyên lí “tảng băng trôi” độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học nhân loại. Cứ bảy phần tám của nó chìm cho một phần nổi. Nguyên lí “tảng băng trôi” là một trong những vấn đề trung tâm của tác phẩm, là yếu tố tạo nên phong cách nghệ thuật Hemingway, nó chi phối toàn bộ sáng tác của ông và Ông già và biển cả là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật này. Đọc tiếp: Đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Ông già và biển cả phần 2
Hình thức giễu nhại, một trong những đặc trưng nổi bật của phong cách sáng tác hậu hiện đại, đang ngày càng trở nên phổ biến trong đời sống văn học Việt Nam thời đổi mới. Lắng nghe kỹ, người đọc sẽ thấy, mỗi truyện ngắn của Mạc Yên đều ít nhiều vang lên âm giọng này. Bằng cách ấy, nhà văn công khai bày tỏ thái độ của mình đối với sự rối ren, bất công, phi lý trong cuộc sống. Phát hiện rất nhanh nhạy cái lố bịch trong thực tại, tác giả đã khai thác đến cùng phươn g diện gây cười của chúng để đưa vào tuyến vận động của cốt truyện. Châm biếm, mỉa mai, trào lộng, hài hước là những nhân tố tạo nên sắc thái giễu nhại trong truyện ngắn của anh. Hầu như mọi kinh nghiệm cọ xát của nhà văn với ngôn ngữ đời sống thực tế đều được huy động: lối nói lái, nói nhại, tiếng lóng… thường xuyên hiện diện với tất cả nồng độ bụi bặm phố phường. Sức phê phán của chúng vừa có tính phủ định, công phá mạnh mẽ đối với cái lỗi thời, xấu xa vừa có ý nghĩa khẳng định, xây mới. Dám nhìn thẳng vào những cái – hài – đời với đầy những vênh lệch, trật khớp của cuộc sống thời tiền và hậu đổi mới rồi thể hiện nó bằng một thứ ngôn ngữ tương xứng để chọc cười thiên hạ và tự cười là một sự dũng cảm, một hướng đi gập ghềnh nhưng cấp thiết, hữu dụng; và chính phương diện này đã bộc lộ rõ phong cách, sở trường độc đáo và tạo ra cái gọi là cảm quan hậu hiện đại trong tác phẩm của anh: “đấy, dưới chân Người, có ai mà không như hắn đâu? Ấy thế mà rất đơn giản để đời người nhớ nhau, còn hắn mà cứ làm hết tất cả để mọi người đừng quên mình” “ không sao cả, hãy cứ để mười hai cái chết kia hóa thành những vị thánh trong lòng người từ đời này sang đời khác, trong khi họ chỉ cần một tên sa tăng để căm thù từ đời này sang đời khác” Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ngược lại, ngôn ngữ xương xẩu, gân guốc, ngắn cụt nhưng sắc bén hàm xúc. Nguyên nhân, ông để cho nhân vật chưởi tục quá nhiều, khảo sát tác phẩm Trương Chi có đến mười một lần từ “cứt” xuất hiện. Chửi tục nhiều nên văn chương nặng nề, đầy vẻ cay cú, hận đời. Tuy nhiên, tài năng không thể phủ nhận của Nguyễn Huy Thiệp là ở cái đằng sau tiếng chửi đó; một tấm lòng tha thiết với khát vọng muốn cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, nhân phẩm con người ngày càng trong sáng hơn. Những gì trình bày cho thấy rõ sự thể hiện cũng như hiệu ứng thẩm mỹ của hậu hiện đại trong truyện ngắn Mạc Yên . Đó là “tham vọng thực hiện được ước mơ bao đời của các nhà văn: kết hợp được tính bình dân, dân chủ với tính bác học, tinh tuyển của văn chương”. Truyện ngắn cũng đã bộc lộ khá thườn g trực ý thức, nỗ lực tái tạo hiện thực dưới góc nhìn mới mẻ, khác lạ, lệch dòng truyền thống ở nhà văn luôn trăn trở với sự tồn sinh của nhân thế, khôn nguôi kiếm tìm câu trả lời cho bài toán hóc búa về sự hòa giải giữa quá khứ truyền thống, ổn định và hiện tại hiện đại, không ngừng biến chuyển. Trên tinh thần đó, không quá võ đoán khi cho rằng, Mạc Yên là một gương mặt tiêu biểu đã góp công cho sự thể nghiệm, tìm tòi, tạo dựng một thứ văn học mới có khả năng lật trở, soi chiếu nhiều phương diện của thực tại hôm nay. Nhân vật trong tác phẩm của anh thường ở trong tâm thế phòng thủ trước xã hội và chính bản thân mình, vì thế mà trở nên cô đơn giữa đồng loại, không thể nhận ra giá trị của cuộc sống. Đó là cái chết về tinh thần của con người. Mỗi truyện ngắn của nhà văn, do đó, như một hồi chuông cảnh tỉnh cho tương lai nhân loại. Với tư cách là một người tiên phong trong việc tận dụng ưu thế của văn học hậu hiện đại để tạo ra sự đột phá, mới mẻ cho văn xuôi Việt Nam đương đại, hiện tượng Mạc Yên và những nhà văn cùng chí hướng với ông cần phải được nhìn nhận trên tinh thần dân chủ, cởi mở; có như vậy mới tạo được sự đồng thuận trong quá trình tiếp biến văn học thế giới để điều chỉnh, định hướng sự vận động, phát triển hợp lý của văn học nước nhà. Thông qua ngôn ngữ anh đưa người đọc bước vào thế giới QNNT về con người cô đơn đầy ám ảnh và đặt ra vấn đề lớn của nhân loại trong xã hội hiện đại : vậy làm thế nào để vượt thoát khỏi sự cô đơn? Nhân loại sẽ ra sao nếu chúng ta mãi sống trong sự cô đơn đó? KẾT LUẬN Mạc Yên là tác giả trẻ còn gây nhiều lạ lẫm với kiểu viết bán giả tưởng. Tôi đã cảm nhận Mạc Yên có một cái gì đó khác thường, một khác thường không thể chỉ dùng từ “cá tính” hay “nội lực” để gọi một người theo đuổi con đường sáng tạo nghệ thuật và tôi cứ luôn tin rằng tác giả trẻ sẽ tiếp tục sáng tạo mạnh mẽ bằng một cách viết cố gắng đi tìm lối riêng có thể là bất chấp thành công hay thất bại- phẩm cách sẽ tạo ra một tác giả lớn. Không phải ở đề tài vì không mới không phải tính ý hướng tư tưởng và cũng chỉ một chút của cách viết nhưng nhịp của văn đã cuốn được sự đọc đi theo một câu chuyện mà trong đó không có dễ chịu hay khó chịu nào nhưng hoàn toàn có thể gây mệt bởi cái xoáy gọi một độ sâu không ai biết chắc. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 1
Ngôn ngữ của nhân vật Thật sự sẽ chưa đủ nếu khẳng định thành công của tác phẩm nghệ thuật mà không đề cập đến đóng góp của ngôn ngữ. “Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học,…ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn…” [23, tr.185]. Nghiên cứu truyện ngắn “ Bất tử” của Mạc Yên không thể không đề cập đến ngôn ngữ nhân vật. Nếu nhân vật hắn tác giả chủ yếu xây dựng ngôn ngữ độc thoại với rất nhiều câu hỏi tu từ, cấu trúc trùng điệp bộc lộ thân phận cô đơn của con người hắn trong cuộc sống hiện tại. Và khát vọng cháy bỏng “ ngườ i ta nhớ đến hắn” (13 lần) “Nhưng đâu có ai nhớ hắn, người ta nhớ nhung hắn, hắn sẽ được người nhớ tới, người cũng đã nhớ tới hắn rùi Làm sao hắn nhẹ lòng được nhỉ? Dưới chân người có ai không như hắn đâu? ấy thế mà rất đơn giản để người đời nhớ nhau, còn hắn cứ làm hết tất cả để mọi người đừng quên mình Người ta không ai nhớ hắn cả, hắn phải làm gì đó Nếu cái chết của mẹ cũng làm người ta nhớ hắn thì sao? Không sao cả hãy cứ để mười hai cái chết kia hóa thành vị thánh trong lòng người từ đơi này sang đời khác. Hắn chết đi cũng sẽ nằm dưới đất như mẹ Jane lại một lần nữa sao cái thân xác cao quý như mẹ jane lại có thể trên cùng mottj tinh cầu với hắn được chữ?thật không đúng chút nào?” Thì khi xây dựng nhân vật người bên cục lưu trữ, anh lại chủ yếu được nhà văn khắc họa qua ngôn ngữ đối thoại: vừa như nài nỉ, cầu khẩn vừa như để bộc bạch tâm tư của một con người đam mê cái đẹp và cả những ân hận, cảm thấy có lỗi khi mình không nhận ra giá trị ấy sớm hơn: “Tôi biết tôi còn quá trẻ quá đơn độc và cũng không thể đại diện cho những quan niệm cũ gủi đến ông lời xin lỗi. Nhưng chúng tôi xin lỗi, xin lỗi vì đã không nhận ra giá trị ấy sóm hơn”. Có lẽ con người vẫn thế, họ vẫn thường vô tình trước những sản phẩm tinh thần của người nghệ sĩ. Họ luôn nhìn ra giá trị thực dụng từ vật chất, tôn thờ nó thành “ chủ nghĩa vật chất”. Khi những giá trị tinh thần bị lãng quên, con người đánh mất mình, họ chỉ là một con rôboot không hơn không kém, chết ngay khi đang sống. Vậy cần làm gì? Làm gì để con người sống đúng là con người? Cần làm già để nghệ thuật trở về đúng vị trí của nó? Câu hỏi lớn chưa có câu trả lời. Chỉ có gì đó là Niềm tin và sự Hy Vọng như thứ ánh sáng từ ánh nến tràn ngập giáo đường và cả tiếng đồng ca thanh thoát cao vút, tiếng đàn organ, hơi ấm của con người và nụ cười mãn nguyện kết thúc tác phẩm: “Anh quỳ sụp bên cạnh cái xác đã cháy đen. Anh hấp tấp đưa mắt lên đọc thật kĩ từng nét hoa văn chạm điểm “ một thế giới rất rộng, một con người tầm thường vẫn cô đơn, một ước mơ cháy rực màu sai lầm” Anh âm thầm ngắt bộ kết nối Anh chậm rãi thuật lại bên chiếc máy không có khuôn mặt Nhập lại dòng chữ trên tài sản còn sót lại từ xác người nghệ sĩ già” Ấn tượng sâu đậm là lời của nhà văn V.A khi đối thoại với người bên cục lưu trữ và với chính mình: ông đặt ra ranh giới của kẻ xấu và người tốt, cái tầm thường và cái cao cả, cái xấu và cái đẹp. Để khẳng định quan niệm nghệ thuật đầy tính nhân văn của minh: “Nghệ thuật không phải là kí ức để kẻ tốt và người xấu cùng bất tử vào đó, không phải là tinh cầu bao dung có thể an nghỉ mọi linh hồn đã mất” Ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện “ Bất tử” mang hơi thở cuộc sống đương đại. Đó là ngôn ngữ mang tính tốc độ ngắn gọn, chứa nhiều thông tin phù hợp với nhịp sống của thời đại mới, có sự cách tân với sự biến hóa trong sử dụng từ vựng,cấu trúc cú pháp. Đồng thời nhà văn chú ý tạo ra một giá trị mới cho ngôn ngữ, giải phóng ngôn từ khỏi những nghi thức và định kiến cũ mòn. Ngôn ngữ vì thế bớt đi vẻ mượt mà trau chuốt mà trực diện, thô nhám. Ý thức tung phá, nổi loạn, không chịu đóng gông vào một chuẩn mực nào của ngôn ngữ đã trở thành lực đẩy giúp Mạc Yên tái tạo những hình tượng nghệ thuật mà không phải mọi công chúng đều có thể đọc, hiểu và đồng cảm, nhất là đối với “những ai quen đóng chặt cửa, những ai chưa quen gió máy, hoặc ít được thấy những vùng không gian thoáng đãng” thì càng dễ dị ứng. Ở tác giả này, văn bản nghệ thuật trở thành một ma trận ngôn từ với những đường dích dắc, gấp khúc không thể dễ dàng tìm ra mắt xích khởi nguyên. Thường gặp nhất trong kỹ thuật dụng ngôn của nhà văn là cách thức hoàn cảnh hóa ngôn ngữ văn học. Những sinh ngữ được tác giả khai thác theo chiều kích mới không còn tuân theo chuẩn từ điển mà gắn chặt với bối cảnh sinh ra chúng; một khi tách khỏi ngữ cảnh, chúng trở nên không thể giải thích và vô nghĩa. Đứng trước thực trạng xã hội bị công nghệ hóa, khoa học hóa, vi tính hóa, nhu cầu đối thoại trực tiếp dường như suy giảm đến mức tối thiểu, con người giao tiếp với nhau thông qua những máy móc trung gian. Đó là cơ sở hình thành một hố thẳm ngày càng nới rộng chiều kíc h giữa các cá thể trong cộng đồng, một thứ a xít có nguy cơ hủy hoại cuộc sống tinh thần của con người. Trong “bất tử”!, tác giả đã cho thấy sự hiện diện của ngôn ngữ mạng đã phần nào thủ tiêu sự trong sáng, vẻ đẹp của tiếng Việt và cũng thiêu trụi bản chất của sự thật sau những con chữ vô tình, vô âm sắc: “Dữ liệu bị lỗi cần được tiếp cận bản gốc Dữ liệu bị lỗi cần được khai thác khái niệm Dữ liệu bị lỗi cần được làm thêm các phép tu từ Dữ liệu bị lỗi cần được tiếp cận bản gốc Hắn đứng đó trong dòng người cầu nguyện Dữ liệu bị lỗi cần được tiếp cận tác giả chính danh Ngườ i ta bắt đầu nhận ra sự khác lạ từ con người hắn Dữ liệu bị lỗi cần được tiếp cận tác giả chính danh” Cũng như văn chương hậu hiện đại, trong truyện ngắn, Mạc Yên không hề che giấu khát vọng tạo sinh một trật tự ngôn ngữ mới, trong đó tất cả mọi trò chơi ngôn ngữ, kể cả ngộ luận (paralogie), đều có quyền hiện diện. Điều này thể hiện rõ nhất ở hệ thống thuật ngữ thời hiện đại được nhà văn khai thác và đưa vào tác phẩm: “lửa không rực lên cao, lửa này rực vào địa ngục, hắt người vào chiếc vòng uốn cong vĩ đại không thấy bề nghiêng” “như một con ngứa vô hình điểm lên mạng người”, “hơi đất đã lấp đầy mộ vực” “vũ trụ trầm loạn” “thế giới tan thành ảo ảnh, thấm tuột vào thứ dung môi đặc quánh hun hút sâu, ngồn ngộn hộ thành một búi bóng bẩy dưới ánh mềm mại đong đưa”, “dòng sông phẳng lì dựng đứng” Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 7
Hành động của nhân vật Truyện ngắn của Mạc Yên ít chú ý đên hành động. Phần lớn là những dòng suy nghĩ lộn xộn của các nhân vật, những dòng suy nghĩ như những mảnh ghép tưởng là tách rời nhau, vô tình được xếp đặt cạnh nhau tạo hiệu ứng chồng xếp của kiểu hội họa lập thể. Tuy nhiên, lối kết cấu đồng hiện lắp ghép này lại có trục lô gic gắn kết đầy bất ngờ. Khi nhà văn đặt bên cạnh trục nhị phân : bất tử- chết, giữa cao cả- thấp hèn, giữa tội ác- tha thứ, giữa ánh sáng và bóng tối.và rồi ánh sáng, cao cả, cái đẹp đã chiến thắng. Để người đọc phát hiện ra quan niệm nghệ thuật và quan niệm con người của nhà văn. Đó là chỉ có cái đẹp của tình người, của sự nhân ái, bao dung mới là bất tử và được người đòi nhớ đến. Nghệ thuật chân chính cần khai thác vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn con người, ca ngợi vẻ đẹp nhân ái của con người. Mỗi nhà văn cần tận tụy giữ gìn sự thanh cao của chính mình và sáng tạo không mệt mỏi để tạo ra cái đẹp cho đời. Sự sáng tạo của người nghệ sĩ là sức sống của nghệ thuật. Tác giả Mạc Yên đã dùng một vài câu văn với giọng kể lạnh lùng, vô cảm khi miêu tả hành động giết người của tên sát nhân. Hắn giết người như một thói quen, như một trò chơi để truy tìm báu vật với một loạt các động từ “ lôi bao tải đặt vào hố”, “đặt”, “chào”, “đưa hai bàn tay vào cổ” “gẫy rắc” “kéo lê bao tải” “ đẩy mẹ Jane xuống hố” Tuy nhiên, sau những hành động lạnh lùng, tàn nhẫn đó. Hắn đã ân hận và đau đớn trước tội ác của mình trước sự vị tha nhân từ của chúa: “Hắn đau đớn gục xuống giáo đường, miệng vẫn nở một nụ cười mãn nguyện”. Có lẽ chưa bao giờ hắn nhận ra được sự yêu thương, sự nhân từ của con người nên hắn khao khát và chẳng còn cách nào khác để người ta nhớ đến mình là biến thành tên hung thủ giết người. Hắn có thể bị mắc một căn bệnh tâm lý đó là căn bệnh sợ sự cô đơn, sợ bị lãng quên, sợ bị vứt bỏ, sợ cả cái chết. Bi kịch cô đơn của hắn có lẽ là bi kịch chung cho loài người. Khi những hành động lạnh lùng của hắn khép lại theo trang sách là lúc hành động của Ông T.A “ gấp sách”, “vặn sáng”, “ trốn vào một góc” “ngước nhìn ra cửa”,“cô đơn ngắm nhìn cái thế giới ảo mộng”” nhìn ra cửa” “nhìn lại căn nhà”"buông tay”” một mũi dao xuyên qua cửa”. Nhân vật được đặt trong không gian căn phòng cũ kĩ hơn bao mươi năm chưa từng có người đến thăm, chưa từng có người bầu bạn. Ông cô đơn trong thế giới riêng của mình và làm bạn với những nhân vật trên trang sách.Thế giới ngoài kia như tách biệt xa lạ với ông, lạnh lùng, khủng khiếp. Bởi vậy,khi có người bên cục lưu trữ đến thì ông như rơi vào trạng thái giả tưởng, hoang tưởng nghĩ rằng tên sát nhân trong truyện là con người thực đang tìm đến mình để làm công việc giết người hàng ngày của anh ta. Sau đó ông từ chối việc chuyển giao vì nghệ thuật không thể sao chép nó. Ông chấp nhận cái chết của mình để bảo vệ sự bất tử của nghệ thuật. Bên cạnh ông là “Ánh sáng chẳng mấy chốc đã ngập tràn trong căn nhà nhỏ. Ánh sáng ấy là thứ ánh sáng cao quý trong tâm hồn người nghệ sĩ già. Từ đó nhà văn khẳng định quan niệm nghệ thuật của mình : Nghệ thuật là địa hạt của sự sáng tạo. Sự sáng tạo là nguồn sống vĩnh viễn của nghệ thuật. Như XantukhopSedrin khẳng định “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Nhà văn Nam cao đã từng nói “ nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối” và “ văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 6
Dòng ý thức nhân vật Tác giả Mạc Yên không miêu tả về ngoại hình nhân vật và đi sâu vào dòng ý thức của họ. Dòng ý thức là khái niệm xuất hiện chủ yếu trong văn học hiện đại. Nó nhằm hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, liên tưởng, cảm xúc. Thuật ngữ này là trường hợp cực đoan của độc thoại nội tâm khi mcác mối liên hệ khách quan với môi trường thực tại khó bề khôi phục lại.[31;107] Mạc Yên xây dựng nhân vật của mình chủ yếu qua những dòng ý thức, dòng hồi tưởng. Nhân vật luôn sống với những dằn vặt và đau khổ của chuyện quá khứ, những suy nghĩ miên man “Xây dựng dòng ý thức, các nhà văn cố ý vứt bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện, không chú ý bối cảnh, ngoại cảnh, câu văn không dùng dấu chấm, dấu phẩy. Các nhà văn sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật mới như đảo ngược thời gian, thời gia n đồng hiện, hòa trộn thực hư, hiện tại, quá khứ, tương lai”. [23, tr.93]. Trên thế giới, dòng ý thức có thời điểm trở thành một “xu hướng sáng tạo văn học” và đã từng có những đại diện tiêu biểu Jame Joyce – Ulysses, Marcel Proust – Đi tìm thời gian đã mất. Song, kể từ lúc Hemingway vận dụng kỹ thuật dòng ý thức vào truyện ngắn nổi tiếng Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro (1936), đến nay, ở truyện ngắn, sức mạnh tiềm tàng của kỹ thuật ấy đã ảnh hưởng vô số nhà văn trên khắp thế giới. Đọc truyện ngắn Mạc Yên, độc giả sẽ gặp ở đây lối trần thuật dung dị, đề tài thường chẳng to tát, người kể chuyện cứ điềm nhiên (có phần tưng tửng), cái đắc địa nhất nằm ở cách xây dựng dòng ý thức nhân vật. Vì vậy, độc giả tiếp xúc với truyện có cảm giác như đang thâm nhập vào bên trong để “xem trộm” nhật ký tâm trạng của mỗi người. Nhân vật không theo một quy luật, một nguyên tắc trước sau của thời gian hiện thực mà theo cách cảm nhận riêng. Cùng với nó, sự đồng hiện thời gian càng khắc sâu dòng ý thức, làm cho độc giả cảm nhận sâu sắc hơn về nhân vật để rồi trải lòng ra thấu hiểu cõi nhân sinh trong hành trình của mỗi kiếp người. Đi vào “Bất tử”, mọi sự kiện như bị xoá nhoà bởi dòng ý thức miên man của các nhân vật: nhân vật hắn,nhà văn T.A, nhân vật Tôi .Người kể chuyện ( anh lưu trữ) kể câu chuyện về cuộc đời của nhà văn T.A và những tác phẩm của ông. Trong đó có câu chuyện của tên sát nhân giết người hàng loạt, đã giết mẹ Jane để mong nhân loại nhớ đến mình. Ông nhà văn vĩ đại ấy đã bị thiêu trụi trong những xấp giấy gom hơn 30 năm qua để bảo vệ sự bất tử của nghệ thuât sáng tạo khi chống lại sự sao chép, mô phỏng nghệ thuật của người đời. Những nhân vật đều mang trong mình một kiểu cô đơn đến bất tận. Thì ra, cuộc sống của con người Hậu hiện đại là thế: người ta dườn g như tự đánh mất mình, đánh mất những giá trị đạo đức cao đẹp và đánh mất tình thương yêu. Tuy nhiên khi sự sống thể xác của hai con người vĩ đại kia kết thúc là lúc hai con người tội lỗi nhận ra sai lầm và thức tỉnh rằng “ một thế giới rất rộng, một con người tầm thường vẫn cô đơn, một giấc mơ cháy rực màu sai lầm” và “dù có chôn chung trong một tinh cầu, dù có nhớ cùng dòng kí ức, giá trị của hắn và mẹ Jane là hoàn toàn khác biệt. Hắn đau đớn gục xuống sàn giáo đường, miệng vẫn nở một nụ cười mãn nguyện” Sự mãn nguyện của một con người đã nhận ra chân lý của sự bất tử. Bất tử của tình người và nghệ thuật. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 5
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT CÔ ĐƠN TRONG TRUYỆN NGẮN “BẤT TỬ” CỦA MẠC YÊN Biểu hiện quan niệm nghệ thuật về con người tập trung qua cách miêu tả nhân vật. Nhân vật là phương tiện , yếu tố để thể hiện quan niệm nghệ thuật con người của nhà văn trên các phương diện: tên gọi, dòng ý thức, hành động, ngôn ngữ... Tên gọi: Mờ hóa và tẩy trắng tên nhân vậtTop of Form “Nhân vật là thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây,…được gán cho những đặc điểm giống với con người” [28, tr. 1254]. Sinh ra trên đời ai cũng có một cái tên, khi cha mẹ đặt tên cho con, cái tên chứa một ước mơ hay một kỷ niệm nào đó trong cuộc đời. Đi vào tác phẩm văn học đặt cho nhân vật một cái tên hoặc tẩy trắng tên nhân vật đều theo sự sắp đặt có tính trước của nhà văn, điều này cũng cần một tiêu chí thích hợp để khiến “con người này” khác với số đông hoặc giống với số đông, khiến sản sinh được hiệu ứng nghệ thuật tương ứng hoặc cho thấy khuynh hướng của nhà văn phản ánh ý chí của tác phẩm. Việc đánh mất xuất xứ hoặc “cô đặc” cái tên đến tận cùng thể hiện bước tìm tòi đổi mới của các tác gia hiện đại, tiêu biểu: Lâu đài (F.Kafka), Trăm năm cô đơn (G.Marquez), A.Q, (Lỗ Tấn) và Chí Phèo (Nam Cao)…Cái tên chỉ như một kí hiệu nhưng chứa đựng mọi ước mơ hoài bão của ông bà, cha mẹ. Nhà văn Lỗ Tấn đặt tên A.Q chẳng những họ mơ hồ mà tên “cũng không có gì làm chứng”. A.Q thiếu thốn về mặt vật chất nhưng lại “giàu phép thắng lợi tinh thần” tồn tại phổ biến trong “linh hồn người nước chúng ta” và ảnh hưởng nhiều nước trên thế giới lúc đó. Cái tên A.Q nực cười, nhưng sau tiếng cười khiến cho con người ta thức tỉnh một cách sâu sắc. Trong làng truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX, Nam Cao đã từng đau đầu với Những chuyện không muốn viết (1942), vì viết cái gì, đặt tên gì họ cũng bảo ám chỉ họ. Đến khi Chí Phèo xuất hiện. Chí xem như hiện tượng có một không hai ở Việt Nam. Chí không có họ hàng, bà con, không lý lịch, người đời chỉ biết anh sinh ra từ cái lò gạch bỏ hoang, chết đi và tái sinh quanh quẩn đâu đó cũng ở cái lò gạch cũ. Chí vừa cái riêng cũng vừa cái chung cho bao kiếp người “chết mòn” cả về thể xác lẫn linh hồn. Khát vọng trong Chí có bùng lên rồi vội vàng lịm tắt như tiếng thét đòi lương thiện ở nhà Bá Kiến. Sang thế kỷ XXI, tiếp nối và cách tân, nhà văn Mặc Yên đã làm mờ hóa và tẩy trắng tên nhân vật đậm đặc trong sáng tác của mình. Nhân vật chính không có lý lịch, không tên tuổi. Xét từ góc độ kết cấu và cách xây dựng nhân vật, mờ hoá và tẩy trắng tên nhân vật thích hợp với hoàn cảnh sống và biểu hiện số phận nhỏ bé lẽ loi của nhân vật. Từ đầu truyện đến cuối truyện ta không biết nhân vật tên gì, đến từ đâu? vì vậy, buộc chúng ta định danh nhân vật dựa vào nghề nghiệp, tuổi tác… Tên nhân vật trong truyện “ bất tử” được gắn với ngôi xưng như: hắn( tên giết người hàng loạt) cách gọi tên này thể hiện thái độ miệt thị, phê phán. Hắn bị đánh mất, nói đúng hơn bị tước mất lý lịch. Tính chất phiếm chỉ này cho thấy Hiện đại và Hậu hiện đại con người không còn cá nhân rực sáng như một bản thể trọn vẹn mà chỉ như một mảnh vỡ, một phiến đoạn cuộc đời. Nhà văn cố tình làm mờ hóa và tẩy trắn g tên nhân vật. Vì vậy, họ không còn cá nhân đơn lẽ mà cái chung của mọi số phận. Điều đó nói lên con người trong xã hội Hậu hiện đại bất tận trong cõi cô đơn, nhiều khi họ loay hoay để cố gắng thoát sự cô đơn “ đấy, dưới chân Người, có ai mà không như hắn đâu? Ấy thế mà rất đơn giản để người đời nhớ nhau, còn hắn làm hết tất cả để mọi người đừng quên mình”, cố gắng tìm kiếm đâu là “vàng đâu là rác” trong cuộc đời này. Và rồi cuối cùng trong tình yêu thương con người, hắn chợt nhận ra : “ dù có chôn chung trong một tinh cầu, dù được nhớ cùng dòng kí ức, giá trị của hắn và giá trị của mẹ Jane là hoàn toàn khác biệt”. Vậy để bất tử con người ta phải có lòng nhân từ, bao dung. Và mỗi tác phẩm nghệ thuật bất tử là phải khai khác, đề cao giá trị nhân văn đó qua mỗi ngòi bút sáng tạo của nhà văn. Bên cạnh đó ông T.A ( nhà văn), anh (người làm trong bộ phận chuyển giao), cả mẹ Jane cũng dễ lẫn vào những ông nhà văn, bà xơ, nữ tu của thiên chúa giáo . Trong những tác phẩm khác của anh, Mạc Yên cũng lựa chọn những tên gọi với thủ pháp mờ hóa, tẩy trắng tên nhân vật như: Giáo sư G, vợ anh quay phim, ông chủ nhiệm, cô đóng phim, một quân nhân, đoàn hình nhân.. ( liên truyện), Gã, Hắn (cái chết pruh nơi lưng chừng trời), thầy hiệu trưởng ( lời thời gian).. để thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của anh. Họ xuất hiện đột ngột, không xuất xứ, hệt như bị vô tình ném ra giữa cuộc đời – những thân phận vô danh trong vòng quay bất tận của cuộc sống. Cách định danh như thế làm cho con người có nguy cơ bị thủ tiêu, bị hủy hoại bản sắc cá nhân, đánh mất quan hệ với đồng loại – nhân tố cốt lõi làm nên chân giá trị của mỗi cá thể như quan niệm về con người và thế giới của văn chương truyền thống. Với thủ pháp này, người viết buộc người đọc tiếp xúc với hình tượng bằng điểm nhìn từ phía bên ngoài. Nhân vật dường như chỉ là cái bóng của hiện thực, là những khuôn mặt tượng trưng cho một loại người trong xã hội: vô tình, vô lương tâm, bàng quan, lố bịch, hợm hĩnh, vật dục,… Ở họ luôn tiềm tàng nỗi lạc loài, cô đơn, tâm trạng hoài nghi trước cuộc sống, mất khả năng giao tiếp, khó hòa hợp với thế giới xung quanh. Qua cách gọi tên nhân vật của mình, mỗi nhà văn đều thể hiện cách cắt nghĩa lý giải về con người, thể hiện quan miệm của mỗi nhà văn về thân phận người. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 4
Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn “Bất tử”(Mạc Yên) Mạc Yên tên thật Nguyễn Mạc Yên Hải, sinh năm 1992, theo đuổi chuyên môn kiến trúc, đạo diễn, đã học tại Đại học Cần Thơ. Truyện của Mạc Yên thiên về tư duy gợi hình, mang tính chất trừu tượng, khi đọc phải phát huy trí tưởng tượng xem hành động của nhân vật ta mới có thể hình dung ra được ý tác giả muốn gửi gắm. Là một tác giả trẻ nhưng đã có nhiều truyện ngắn, như “Cái chết pruh nơi lưng chừng trời”, “Lời của thời gian”, “ bất tử” được giới thiệu trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam là một thành tích đáng quý… Anh đặt ra vấn đề con người cô đơn trong cuộc sống đương đại. Thể kỉ XXI là thế kỉ của thời đại bùng nổ khoa học công nghệ, mọi vấn đề của cuộc sống được phơi bày trên mạng xã hội. Con người chìm trong thế giới ảo. Hạnh phúc tron g thế giới ảo đó. Họ dần dần cách xa với thế giới hiện thực. Họ cô đơn. Họ hoang mang về giá trị của cuộc sống hiện tại. Họ hoài nghi và cả thất vọng rùi loay hoay đi tìm đâu là giá trị đích thực của cuộc sống này? Rồi họ thức tỉnh và nhận ra rằng:chỉ có Cái Đẹp mới là bất tử: cái đẹp của con người : lòng bác ái và nhân từ, cái đẹp của nghệ thuật cần đề cao lòng nhân từ và bác ái, đề cao đạo đức đồng thời mỗi tác phẩm nghệ thuật là một sản phẩm của sự sáng tạo độc đáo. Cô đơn là trạng thái bi kịch, là nỗi đau tinh thần lớn nhất của con người. Đặc biệt là con người của cuộc sống hiện đại. Mạc Yên quan niệm sâu sắc về điều đó khi xây dựng người nghệ sĩ cô đơn. Phẩm chất nổi bật của người nghệ sĩ là nhạy cảm và tha thiết với Cái Đẹp. Bởi vậy, họ dễ trở nên lạc lõng giữa đời thường. Nhưng đồng thời, họ cũng là những người nhiều ảo tưởng, về thế giới, về bản thân mình. Họ đem Cái Đẹp đến giữa cõi đời dung tục, đặt sự mơ mộng giữa những toan tính lạnh lùng, muốn cho cuộc đời tràn đầy tiếng hát và cuộc sống thì như trên sân khấu. Và họ thất bại. Những thất bại người đời thấy tất yếu, nhưng với họ thật khó mà san sẻ. nhân vật nghệ sĩ T.A trong truyện ngắn nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong tác phẩm: “ đã hơn 30 năm cánh cửa kia chưa từng vang lên âm thanh đó”,” ông chỉ giỏi trốn vào một góc, cô đơn ngắm nhìn cái thế giới ảo mộng mong manh trong trí nhớ, cô đơn” “ không ! các cậu sai rùi ngay cả thời điểm này các người vẫn đang sai lầm! Tất cả đều là của tôi, tất cả thế giới của tôi đều là của tôi”, “ tôi sẽ không để các cậu bóp chế thế giới của tôi. Nếu có thể hãy cứ để nghệ thuật chết trước loài người” Đó là những nghệ sĩ đơn độc trong hành trìn h đi tìm Cái Đẹp. Họ ý thức và chấp nhận điều đó. Tình yêu nghề và bản lĩnh của họ thể hiện rõ nét ở đây. Trong nỗi đau của sự cô độc này, còn có cả niềm kiêu hãnh “Trốn vào một góc , cô đơn ngắm nhìn cái thế giói ảo mộng mong manh trong trí nhớ” Nhưng có nỗi cô độc khác, lớn hơn, không chỉ với những người nghệ sĩ, đó là nỗi cô đơn của con người giữa “biển người mênh mông”. Đây là nỗi đau lớn của kiếp người. Đọc “bất tử” chúng ta không thể không bị ám ảnh bởi cảnh không hiểu được nhau, không hiểu đúng về nhau, bởi vậy mà khó chia sẻ được nỗi niềm của nhau. Nhân vật hắn trong truyện 13 lần nhắc đến mong muốn “ người ta sẽ nhớ hắn”, rồi cả anh bên cục lưu trữ cũng nhắc đến cụm từ “đơn độc” liên tục trong khi trò chuyện với nhà văn “tôi biết tôi còn trẻ quá đơn độc và cũng không thể đại diện cho những quan niệm cũ xưa gửi đến ông lời xin lỗi”. Những nỗi niềm trong họ đâu dễ nói ra. Mà khi nói ra, biết đâu, lại làm tổn thương ai đó. Vậy là họ âm thầm chấp nhận, âm thầm chịu đựng sự cô đơn. Cô đơn là điều kiện thử thách phẩm chất làm người của họ. Tuy nhiên, càng tìm kiếm càng vô vọng. Càng vô vọng lạii càng khao khát kiếm tìm. Họ đơn độc . Họ tìm lối thoát cho thực trạng cô đơn. Cũng đề cập đến nỗi cô đơn của con người nhưng chúng tôi nhận thấy quan niệm của Mạc Yên rất khác. Cô đơn luôn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của co n người. Nhưng đọc truyện của anh, chúng ta cảm nhận rất rõ niềm cô đơn mà không thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật của anh tự ý thức về sự cô đơn. Họ nhận ra rằng chỉ có tình người mới một lẽ sống mới làm ta hạnh phúc và bất tử. Tất cả thế xác, tài sản, danh tiếng rùi sẽ bị chôn vùi theo năm tháng chỉ có tình người và nghệ thuật là bất tử. Cô đơn trong quan niệm của Mạc Yên là tiếng chuông cảnh tỉnh để con người tìm về cái Đẹp, cái Thiện. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 3
TÓM TẮT Mạc Yên là một tác giả trẻ xuất hiện trong cộng đồng văn học hiện đại và hậu hiện đại ở Cần Thơ, Việt Nam. Anh nổi tiếng bởi những sáng tác truyện ngắn độc đáo với những quan niệm nghệ thuật sâu sắc về con người cô đơn qua kết cấu mảnh ghép. Tác giả trẻ khám phá các khía cạnh khác nhau của con người cô đơn trong các tác phẩm của mình đặc biệt là truyện ngắn “ Bất tử”. Anh có cái nhìn sắc bén về tâm lý và suy ngẫm về mặt tinh thần của con người, đồng thời mang đến những ý tưởng mới lạ và sáng tạo trong việc diễn đạt những suy nghĩ đó. Cây bút sáng tạo của Mạc Yên được biết đến với cách viết mới lạ và độ sâu không ai biết chắc khi tạo ra những câu chuyện với cấu trúc mảnh ghép, khiến người đọc phải suy ngẫm và tự điền vào những khoảng trống để hiểu rõ hơn về nội dung và thông điệp của tác phẩm. Việc này tạo ra một sự tương tác đặc biệt giữa tác giả và người đọc, khiến cho truyện ngắn của anh trở nên đặc sắc và thú vị. Sự sáng tạo của Mạc Yên đã mang lại cho tác giả trẻ một vị trí đáng chú ý trong văn học đương đại. Qua đó, độc giả cảm nhận được những khía cạnh sâu sắc về con người và cuộc sống. Từ khóa: Mạc Yên, truyện ngắn “ bất tử”, con người cô đơn. MỞ ĐẦU Nhà văn Gorki đã từng nhận định: “Văn học là nhân học” – con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Một nhà văn không thể miêu tả hiện thực nếu không thông qua hình tượng nghệ thuật và không có quan niệm nghệ thuật của mình về con người. Vì thế con người cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các tác giả văn học, thông qua đó là nhà văn gửi gắm những thông điệp, triết lí mang đậm tính nhân văn. Ý thức được vấn đề ấy, Nhà văn Mạc Yên đã mang đến cho văn học Việt Nam một làn gió mới, một cái nhìn mới đầy tính nhân văn về vấn đề con người và cuộc ở thời kì hiện đại và hậu hiện đại. Truyện ngắn “Bất tử” là một trong số những tác phẩm thể hiện rõ nhất quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn của tác giả. Đó là kiểu người nghệ sĩ cô đơn, con người cô đơn trong cuộc đời rộng lớn này. Truyện ngắn đặt ra vấn đề về cuộc sống đương đại: vì sao con người cô đơn? Biểu hiện của con người cô đơn trong cuộc sống? Làm thế nào để con người bớt cô đơn? Xã hội loài người sẽ ra sao nếu chìm đắm trong thế giới cô đơn ấy? Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong truyện ngắn Bất tử phần 2