Từ đồng nghĩa Lý thuyết Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nha u Ví dụ: Bố - Ba - Cha Một từ có thể có nhiều nghĩa nên có thể tham gia vào nhiều nhóm đồng nghĩa khác nhau. Nếu biết cách sử dụng từ đồng nghĩa đúng chỗ sẽ giúp cách diễn đạt trôi chảy và không lặp từ. Thực hành Bài 1 Tìm các từ đồng nghĩa với các từ sa u a cho b ngã c uống Bài 2 Hai từ in đậm dưới đây có gì giống nhau? Việc sử dụng hai từ ấy có tác dụng gì? a Bác đã đi rồi sao, Bác ơi! Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời (Tố Hữu) b Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến) Bài 3 Phân biệt nghĩa của các từ trong nhóm sau a Nhanh trí, nhanh nhẹn, nhanh nhẩu b Thông minh, khôn, sáng suốt Hướng dẫn giải bài tập Bài 1 a Cho, tặng, biếu: Những từ này chỉ hành động đưa vật nào đó cho người khác một cách chủ động b Ngã, té, trượt: Chỉ hành động mất thăng bằng, không giữ được ở một vị trí cố định c Uống, tu, nốc: Chỉ hành động đưa chất lỏng vào miệng để uống nhưng ở mức độ khác nhau Bài 2 Hai từ đi, thôi đều chỉ về cái chết, mất mát, việc chấm hơi thở Tác dụng sử dụng hai từ ấy có ý nghĩa nói giảm, nói tránh những mất mát đau thương Bài 3 a Nhanh trí chỉ khả năng suy nghĩ của một người thường có ý tưởng nhanh chóng Nhanh nhẹn chỉ thao tác của một người linh loạt, chính xác Nhanh nhẩu được miêu tả về tốc độ, nhanh chóng trong hành động hoặc phản ứng trong tinh huống nào đó Những từ này đều chỉ tốc độ và tính cách con người có phản xạ nhanh trong mọi tình huống b Thông minh là từ miêu tả chỉ khả năng hiểu nhanh, giải quyết vấn đề nhanh chóng Khôn chỉ trí thông minh sắc bén, khả năng suy nghĩ tốt, đánh giá và giải quyết vấn đề hiệu quả Sáng suốt là khả năng nhận thức, suy đoán đánh giá tình huống một cách chính xác.Những từ này đều liên quan đến trí thông minh, khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả
Từ đồng âm Lý thuyết Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng khác nhau về nghĩa, không liên quan gì đến nhau. Muốn xác định được từ đồng âm thì phải dựa vào ngữ cảnh Ví dụ: Trên đường (1) đi học về tôi mua cho mẹ 1 kg đường (2) Thực hành Bài 1 Giải thích các từ đồng âm sau đây: a Con ngựa đá (1) con ngựa đá (2) b Bà già đi chợ cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi (1) chăng Thầy bói gieo quẻ nói rằng Lợi thì có lợi (2) nhưng răng chẳng còn (Ca dao) Bài 2 Lấy hai ví dụ từ đồng âm với từ Bàn Bài 3 Điền các từ sau vào chỗ chấm: Chung quy, chung nhau, chung chung. …(1) Có nghĩa là khái quát, không rõ ràng còn mơ hồ …(2) Có nghĩa là điểm kết thúc hoặc quyết định của một việc gì đó …(3) Có nghĩa là cùng hướng đến một mục tiêu cùng, tang cường mối quan hệ gắn kết Hướng dẫn giải bài tâp Bài 1 a Đá (1) động từ chỉ hành động của con ngựa thật Đá (2) danh từ chỉ con ngựa bằng đá Lợi (1) chỉ ích lợi, phúc lợi, được lợi Lợi (2) chỉ bộ phận của con người, phần thịt chỗ mọc răng ở hàm Bài 2 - Họ đang bàn việc trên bàn mới mua - Quả bóng bàn lăn trên bàn Bài 3 (1) Chung chung, (2) chung quy, (3) chung nhau
Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ Lý thuyết Từ nhiều nghĩa là từ có nhiều nghĩa khác nhau Ví dụ: Bàn, quần, áo, tay, chân… Hiện tượng chuyển nghĩa của từ là hiện tượng làm thay đổi nghĩa của từ tạo ra những từ nhiều nghĩa. Trong từ nhiều nghĩa có nghĩa gốc và nghĩa chuyển, Nghĩa gốc là nghĩa xuất hiện từ đầu là cơ sở để hình thành nghĩa khác. Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc. Ví dụ: Lưng núi thì to, mà lưng mẹ thì nhỏ Từ lưng trong lưng núi là nghĩa chuyển (phần giữa hơi thoải của núi, từ lưng trong lưng mẹ dùng với nghĩa gốc (lưng bộ phận trên cơ thể người) Thực hành Bài 1 Em hãy cho biết từ Xuân trong câu thơ dưới đây đâu là nghĩa gốc, đâu là nghĩa chuyển. Việc sử dụng từ xuân trong câu thứ 2 có ý nghĩa gì? Mùa xuân là Tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân (Hồ Chí Minh) Bài 2 Trong câu sau đây, từ “Quạt” là từ nhiều nghĩa hay chuyển nghĩa của từ? Vì sao? Quạt nan mỏng dính Quạt gió rất dày (Gió từ tay mẹ- Vương Trọng) Bài 3 Giải thích nghĩa của từ báo trong câu sau: a Ở vườn thú có Báo b Tôi vừa nhận được thông báo c Tôi từng học Báo chí Hướng dẫn giải bài tập Bài 1 Xuân trong từ mùa Xuân là nghĩa gốc, chỉ mùa của năm theo chu kỳ của Trái Đất, mùa xuân dánh dấu sự tái sinh, phục hồi của thiên nhiên sau mùa đông lạnh giá. Xuân trong từ càng xuân là nghĩa chuyển (ẩn dụ) chỉ tinh thần lạc quan, hy vọng và khởi đầu mới cho đất nước tươi trẻ, năng động và phát triển hơn. Ý nghĩa của việc sử dụng từ xuân trong câu thứ 2: Đây là phép ẩn dụ giúp thể hiện ý nghĩa cao đẹp của sự phát triển và tiến bộ, tạo nên hình ảnh rõ nét về sự phát triển của đất nước. Làm cho câu thơ tăng sức hấp dẫn và giàu sức gợi cảm Bài 2 Quạt là từ nhiều nghĩa Quạt trong câu 1 chỉ danh từ cái quat, nó thuộc đồ vật được con người tạo ra Quạt trong câu 2 chỉ quạt tự nhiên, quạt này phải có tác động của gió tự nhiên, về mặt bản chất nó mát hơn quạt nan quạt bầng tay. Bài 3 a Báo là con vật b Báo là sự thông báo thông tin nào đó cho người khác c Báo chỉ nghề làm báo, chuyên ngành báo
Nghĩa của từ Lý thuyết Nghĩa của từ là nội dung, tính chất, hoat động, quan hệ mà từ đó biểu thị. Hiểu đơn giản, nghĩa của từ là phần nội dung mà từ biểu thị giúp chúng ta hiểu được nội dung của từ đó. Ví dụ: Mẹ là người phụ nữ có con Mệt là cảm giác mệt mỏi, mệt nhọc không còn đủ năng lượng để hoạt động Thực hành Bài 1 Giải thích nghĩa của các từ sau: Mù mịt, háo hức, tổng kết, múa Bài 2 Điền các từ sau vào chỗ trống sao cho thích hợp: Chung quy, chung kết, chung thành (1) ... Là điểm cuối cùng quan trọng của một chương trình, một dự án hoặc một quá trình nào đó (2) … là tinh thần đoàn kết, tin tưởng lòng thành với một cá nhân hay tập thể (3) …là điểm cuối cùng hoặc kết quả của cuộc tranh luận, thương thảo Bài 3 Điền các từ sau vào chỗ trống sao cho thích hợp; Rạo rực, hồng hồng, man mác, mùa xuân, đùng đục, mướt xanh, siêng năng, trong trong, trời Đẹp quá đi, mùa xuân ơi- mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu (1) … nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng riêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không (2) …như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại lại nức một mùi hương (3) … Thường thường, vào khoảng đó (4) … đã hết nồm, mưa xuân bát đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nên trời (5) … như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy (6) …có niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong (7) … đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền tròi (8) … có những làn sáng (9) … rung dộng như cánh con ve sầu mới lột. (Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai) Hướng dẫn giải bài tập Bài 1 Mù mịt tức là không rõ ràng, không rõ nét, ám chỉ sự thiếu tầm nhìn, mơ hồ không rõ rang trong tầm nhìn hoặc trong suy nghĩ Hát là hoạt động phát ra âm thanh theo tiết tấu hoặc nhịp điệu để truyền đạt một thông điệp hoặc mang tính giải trí Háo hức là trạng thái diễn tả cảm xúc phấn khích trước một hoạt động hay tình huống sắp diễn ra Tổng kết là tổng hợp lại một loạt các thông tin dữ liệu, sự kiện để tạo ra một cái nhìn tổng thể hoặc đánh giá chung về một chủ đề, một quá trình nào đó. Bài 2 (1) Chung kết (2) Chung thành (3) Chung quy Bài 3 (1) Mùa Xuân (2) mướt xanh (3) man mát (4) trời (5) đùng đục (6) rạo rực (7) siêng năng, (8) trong trong (9) hồng hồng.
Phân biệt giữa từ ghép và từ láy + Từ ghép có thể đảo ngược các yếu tố trong từ, còn từ láy thì không, bởi từ láy thường có yếu tố gốc như long lanh, bấp bênh… Còn những từ sau: thẫn thờ, tha thiết, thì thầm… là từ ghép. Bên cạnh đó có những từ không thể đảo ngược về trật tự nhưng xét về nghĩa của các yếu tố thì từ đó vẫn được gọi là từ ghép: Đất đai, thành thực, đu đưa, đình đốn, ruộng rẫy… Có những trường hợp đặc biệt thì từ láy vẫn có thể đảo ngược được ví dụ: Khắt khe- khe khắt, lừng lẫy- lẫy lừng + Từ láy là từ không đảo được các yếu tố trong hai yếu tố (tiếng) có một yếu tố có ý nghĩa (gốc) Ví dụ: loanh quanh, om sòm… + Các từ Hán Việt trùng lặp về ngữ âm nhưng chỉ là từ ghép mà không phải là từ láy: Vĩnh viễn, liên miên, tham lam, nhũng nhiễu, nhã nhặn, hải hà, linh tinh, khao khát… 1.2 Thực hành Bài 1. Tìm các từ láy trong đoạn thơ sau: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh (Tố Hữu) Bài 2. Đâu là từ láy, đâu là từ ghép trong những từ sau: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, thăm thẳm, mù mịt, náo nức, lênh khênh, tỉ mỉ, trong trắng. Bài 3. Sắp xếp các từ láy sau vào ba nhóm khác nhau, đặt tên cho mỗi nhóm: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ, lao xao, bâng khuâng, bồn chồn, háo hức, rì rầm, tí tách, ríu rít Bài 4. Điền thêm các tiếng vào các tiếng dưới đây để tạo thành từ ghép chính phụ: Xe..., máy…., bàn…., áo..., bút…. Bài 5. Điền các từ láy sau vào chỗ trống trong đoạn văn dưới đây sao cho thích hợp: Nghiêng nghiêng, rong ruổi, vun vút, ngại ngùng, khát khao, xinh xinh, Những con đường ngút ngàn xa thẳm bỗng như dài ra, tự dãn ra làm (1)…những bước chân (2) ... Mong sao có những bóng da bóng bang những mái quán (3) … Bên bờ cỏ ấy, để bước chân dặm trường ghé vào uống bát nước chè xanh, ăn món bánh đúc riêu cua đầy vị quê hương đang chìm lấp. Hình như nhạc sĩ ve sầu không thích đậu vào cây lúa. Có khi là phải có những chiếc lá xanh to bản bắt nhịp thì nhạc ve mới thành giai diệu du dương? Những dòng sông đào (4) … nhỏ bé, những măt ao đầy bèo tấm, bèo ong là nỗi (5) …thèm thuồng của bao hành khách ngồi bó gối trong xe trên đường ngắn đường dài (6) … gần xa. (Băng Sơn, Mùa lên đường) 1.3 Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: Loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh Bài 2: Từ láy; loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, lênh khênh, Từ ghép: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, trong trắng, tỉ mỉ, thăm thẳm, náo nức, mù mịt Bài 3: Để phân nhóm đúng cần hiểu kỹ ý nghĩa của từ láy Nhóm 1: Gợi tả âm thanh: lao xao, rì rầm, tí tách, ríu rít Nhóm 2; Gợi tả dáng vẻ, hình dáng: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ Nhóm 3: Gợi tả tâm trạng: bồn chồn, háo hức, bâng khuâng Bài 4: (1) ngại ngùng, 2 rong ruổi, 3 nghiêng nghiêng, 4 xinh xinh, 5 khát khao, 6 vun vút
Từ đồng nghĩa 4.1 Lý thuyết Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau Ví dụ: Bố- Ba- Cha Một từ có thể có nhiều nghĩa nên có thể tham gia vào nhiều nhóm đồng nghĩa khác nhau. Nếu biết cách sử dụng từ đồng nghĩa đúng chỗ sẽ giúp cách diễn đạt trôi chảy và không lặp từ. 4.2 Thực hành Bài 1: Tìm các từ đồng nghĩa với các từ sau: a. cho b. ngã c.uống Bài 2: Hai từ in đậm dưới đây có gì giống nhau? Việc sử dụng hai từ ấy có tác dụng gì? a. Bác đã đi rồi sao, Bác ơi! Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời (Tố Hữu) b. Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến) Bài 3: Phân biệt nghĩa của các từ trong nhóm sau a. Nhanh trí, nhanh nhẹn, nhanh nhẩu b. Thông minh, khôn, sáng suốt 4.3 Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: a. Cho, tặng, biếu: Những từ này chỉ hành động đưa vật nào đó cho người khác một cách chủ động b. Ngã, té, trượt: Chỉ hành động mất thăng bằng, không giữ được ở một vị trí cố định c. Uống, tu, nốc: Chỉ hành động đưa chất lỏng vào miệng để uống nhưng ở mức độ khác nhau Bài 2: Hai từ đi, thôi đều chỉ về cái chết, mất mát, việc chấm hơi thở Tác dụng sử dụng hai từ ấy có ý nghĩa nói giảm, nói tránh những mất mát đau thương Bài 3: a. Nhanh trí chỉ khả năng suy nghĩ của một người thường có ý tưởng nhanh chóng Nhanh nhẹn chỉ thao tác của một người linh loạt, chính xác Nhanh nhẩu được miêu tả về tốc độ, nhanh chóng trong hành động hoặc phản ứng trong tinh huống nào đó Những từ này đều chỉ tốc độ và tính cách con người có phản xạ nhanh trong mọi tình huống b. Thông minh là từ miêu tả chỉ khả năng hiểu nhanh, giải quyết vấn đề nhanh chóng Khôn chỉ trí thông minh sắc bén, khả năng suy nghĩ tốt, đánh giá và giải quyết vấn đề hiệu quả Sáng suốt là khả năng nhận thức, suy đoán đánh giá tình huống một cách chính xác.Những từ này đều liên quan đến trí thông minh, khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả
Bài 1. Tìm các từ láy trong đoạn thơ sau: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh (Tố Hữu) Bài 2. Đâu là từ láy, đâu là từ ghép trong những từ sau: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, thăm thẳm, mù mịt, náo nức, lênh khênh, tỉ mỉ, trong trắng. Bài 3. Sắp xếp các từ láy sau vào ba nhóm khác nhau, đặt tên cho mỗi nhóm: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ, lao xao, bâng khuâng, bồn chồn, háo hức, rì rầm, tí tách, ríu rít Bài 4. Điền thêm các tiếng vào các tiếng dưới đây để tạo thành từ ghép chính phụ: Xe..., máy…., bàn…., áo..., bút…. Bài 5. Tìm các từ láy trong đoạn văn sau. Những con đường ngút ngàn xa thẳm bỗng như dài ra, tự dãn ra làm ngại ngùng những bước chân rong ruổi. Mong sao có những bóng da bóng bàng, những mái quán nghiêng nghiêng bên bờ cỏ ấy, để bước chân dặm trường ghé vào uống bát nước chè xanh, ăn món bánh đúc riêu cua đầy vị quê hương đang chìm lấp. Hình như nhạc sĩ ve sầu không thích đậu vào cây lúa. Có khi là phải có những chiếc lá xanh to bản bắt nhịp thì nhạc ve mới thành giai điệu du dương? Những dòng sông đào xinh xinh nhỏ bé, những mặt ao đầy bèo tấm, bèo ong là nỗi khát khao thèm thuồng của bao hành khách ngồi bó gối trong xe trên đường ngắn đường dài vun vút gần xa. 1.3 Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: Loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh Bài 2: Từ láy; loanh quanh, xinh xinh, tha thiết, lao xao, lênh khênh, Từ ghép: Mấp mô, vùng vẫy, đả đảo, tấp nập, trong trắng, tỉ mỉ, thăm thẳm, náo nức, mù mịt Bài 3: Để phân nhóm đúng cần hiểu kỹ ý nghĩa của từ láy Nhóm 1: Gợi tả âm thanh: lao xao, rì rầm, tí tách, ríu rít Nhóm 2; Gợi tả dáng vẻ, hình dáng: lom khom, lù dù, tập tễnh, lọ mọ Nhóm 3: Gợi tả tâm trạng: bồn chồn, háo hức, bâng khuâng Bài 5: 1 ngại ngùng, 2 rong ruổi, 3 nghiêng nghiêng, 4 xinh xinh, 5 khát khao, 6 vun vút
Phương pháp làm bài đọc hiểu Yêu cầu của phần đọc hiểu phải đảm bảo được mức độ: Nhận biết- Thông hiểu-Vận dụng a. Nhận biết: Các câu hỏi được lấy từ văn bản với những yêu cầu thường đi kèm cụm từ “nêu ra, chỉ ra, xác định đối với các nội dung + Nêu phương thức biểu đạt + Nêu nội dung đoạn trích + Nêu thể loại văn bản + Nếu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác… + Xác định kiểu câu + Xác định từ loại, cụm từ, biện pháp tu từ + Xác định phương thức biểu đạt + Xác định, giải thích nội dung của câu thơ, đoạn thơ + Xác dịnh nhân vật và phân tích đặc điểm của nhân vật + Xác định thông tin được thể hiện, phẩn ánh trực tiếp trong văn bản + Chỉ ra tính liên kết của đoạn văn + Chỉ ra điểm chung và điểm khác biệt về nội dungg b. Thông hiểu: Các yêu cầu thường đi kèm cụm từ: “Vì sao, tại sao, lý giải, giải thích…” như: + Giải thích ý nghĩa nhan đề + Giải thích cụm từ… + Rút ra bài học hoặc thông điệp có ý nghĩaa… c. Vận dụng: Đây là phần yêu cầu có sự tư duy và tính sáng tạo, học sinh phải biết vận dụng những kiến thức từ đoạn trích, ngữ liệu để giải thích các vấn đề và biết nêu lên quan điểm bản thân. Các yêu cầu thường đi kèm cụm từ: “Cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá…”
Cách Làm bài đọc hiểu văn bản 1. Văn bản văn học - Đặc điểm ngôn từ: Ngôn từ trong văn bản mang tính nghệ thuật và thẩm mỹ để làm bài thêm sống động, cuốn hút và giàu hình tượng. - Đặc điểm về hình tượng: Hình tượng trong văn học là biểu tượng đời sống, hàm chứa ý nghĩa khái quát do tác giả gửi gắm mà người đọc cần phải nhận ra. - Đặc điểm về ý nghĩa; Nó là ý nghĩa trong văn bản, thể hiện hiện thực đời sống được nhà văn nắm bắt và gợi lên qua hình tượng. Ý nghĩa của văn bản văn học còn thể hiện qua nhân vật, sự kiện và những chi tiết mà tác giả sử dụng ngôn từ tạo nên. Những ý nghĩa đó được chia thành các lớp; đề tài, chủ đề, cảm hứng, tính thẩm mỹ, triết lý nhân sinh. - Đặc điểm về phong cách sáng tạo của nhà văn: Mỗi văn bản văn học ra đời đều mang dấu ấn riêng của tác giả, chính những phong cách đó làm cho văn bản văn học hêm phong phú, mới mẻ. => Vì vậy khi đọc hiểu văn bản cần bám sát vào đặc điểm của thể loại, ngôn từ để tìm hiểu hình tượng nghệ thuật mà tác giả khắc họa để hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của văn bản. Đồng thời phải so sánh văn bản này với văn bản khác cùng đề tài để thấy được sự độc đáo, mới lạ của nhà văn. 2.Văn bản Nhật dụng Văn bản nhật dụng là văn bản có tính thời sự, quan trọng, bức thiết đối với cuộc sống hàng ngày của con người, của xã hội như; môi trường, dân số, chiến tranh, ứng dụng công nghệ…các văn bản nhật dụng rất đa dạng về đề tài và thể loại. Vì vậy khi đọc hiểu văn bản nhật dụng cần xác định được chủ đề của văn bản, cách thức triển khai để nâng cao ý thức, trách nhiệm bản thân với các vấn đề đời sống xã hội.
Tóm tắt tâm lí nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc Nhân vật ông Hai trong bài văn thể hiện một tâm trạng đau đớn, uất ức và xấu hổ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Mô hình phân tích nhân vật dưới đây giúp đi sâu vào tâm trạng và suy nghĩ của ông Hai trong hoàn cảnh khó khăn này. Tâm trạng sững sờ và xấu hổ Ông Hai trải qua một biến cố lớn từ niềm vui và niềm tin cao quý đột nhiên chuyển thành sự sững sờ, xấu hổ khi nghe làng theo giặc. Tâm trạng của ông lão được miêu tả qua cảm xúc đau lòng, "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân." Điều này thể hiện sự gián đoạn đau đớn, như một cú sốc tinh thần. Mất niềm tin và uất ức Ông Hai trải qua sự mất mát lớn không chỉ về niềm tự hào của làng mà còn về hạnh phúc cá nhân. Niềm tin, niềm tự hào về làng đột ngột sụp đổ khi ông phải đối mặt với sự thật đau lòng. Sự uất ức và hụt hẫng đẩy ông vào tâm trạng tuyệt vọng. Nỗi ám ảnh và tình trạng bế tắc Tin đồn và nghi ngờ làm ông Hai trở nên ám ảnh. Ông sống trong sự bế tắc, không biết phải làm gì và không có hướng đi rõ ràng. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài nhưng cảm giác lo lắng và e sợ. Tìm kiếm sự yên bình và quyết đinh khó khăn Ông Hai tìm kiếm sự yên bình và tránh xa khỏi ánh sáng công bố làng. Cuộc sống bình yên của ông bị đảo lộn, và ông trở nên như một người bị tống giam trong chính ngôi nhà của mình, không dám đối diện với thế giới bên ngoài. Lựa chọn giữa ở lại và về quê âm trạng khó khăn và đau đớn của ông được thể hiện qua quá trình ông phải đối mặt với quyết định khó khăn giữa ở lại và về quê. Ông Hai, mặc dù đau khổ, nhưng cuối cùng quyết định ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh và kháng chiến, đặt niềm tin của mình vào sự giải phóng và độc lập của đất nước. Tâm hồn thủy chung và sâu sắc Cuộc trò chuyện của ông với con trai thể hiện lòng thủy chung sâu sắc với làng Chợ Dầu và tình yêu với quê hương. Dù đau đớn, ông vẫn giữ vững niềm tin vào kháng chiến và lòng yêu nước, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam. Trong tất cả, nhân vật ông Hai trong bối cảnh khó khăn này đặt ra những thách thức lớn về tâm trạng và quyết định, nhưng cũng thể hiện sự mạnh mẽ và lòng thủy chung của một người nông dân Việt Nam trước thách thức phải đối mặt.
Nêu cảm hứng bao trùm và mạch cảm xúc của bài thơ Viếng Lăng Bác *Cảm hứng bao trùm Bài thờ là niềm xúc động thiêng liêng và thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót thương của nhà thơ khi lần đầu ra thăm Lăng Bác. Cảm hứng đó đã bao trùm toàn bộ bài thơ với giọng điệu thành kính, nghiêm trang phù hợp với không khí thiêng liêng ở Lăng Bác. *Mạch cảm xúc: -Theo trình tự không gian và thờii gian. Cảm xúc đầu tiên chi phối tác giả là khung cảnh xung quanh lăng Bác (nhìn từ xa), ấn tượng nhất là hàng tre bát ngát trong sương. -Tiếp theo là cảnh trước lăng Bác và đoàn người nối nhau như bất tận, ngày ngày vào viếng lăng Bác. -Cảm xúc khi vào lăng, di hài của Bác gợi những hình ảnh đẹp mang ý nghĩa biểu trưng; mặt trời, trời xanh. - Cuối cùng là cảm xúc khi sắp phải rời xa Bác trở về miền Nam =>Mạch cảm xúc đã tạo nên bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc và hơp lí.
Phân tích nhân vật Vũ Nương Người phụ nữ là đề tài quen thuộc mà nhiều nhà văn, nhà thơ lấy đó làm chủ đề cho mạch cảm xúc của mình, dặc biệt là trong văn học thời trung đại. Hồ Xuân Hương đã thành công với bài thơ “Bánh trôi nước”. Với Nguyễn Dữ thành công đó là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Qua nhân vật trong tác phẩm ông đã tô cáo, lên án xã hội phong kiến đầy bất công nhất là với những người phụ nữ phẩm hạnh nhưng khổ đau, oan trái. Chuyện người con gái Nam Xương được trích trong truyền kì mạn lục, ghi chép tản mạn những câu chuyện có thật và đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm. Văn bản này có nguồn gốc từ câu chuyện “Vợ chàng Trương” cả hai tác phẩm đều nói về người phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến. Mở đầu tác phẩm đã giới thiệu rất rõ về ngoại hình cũng như phẩm chất của nhân vật Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” đây là câu giới thiệu hàm ẩn mọi tố chất của người phu nữ, công- dung- ngôn-hạnh. Nhưng phẩm chất tốt đẹp bao nhiêu thì lại oan nghiệt bấy nhiêu. Ngay ở đoạn đầu tác giả đã cho ta thấy rất rõ một cuộc hôn nhân bất bình đẳng của nàng. Nàng xuất thân con nhà nghèo nhưng vì Trương Sinh mến dung hạnh nên xin mẹ trăm lạng vàng cưới về. Nhân vật Trương Sinh được tác giả giới thiệu hoàn toàn trái ngược với Vũ Nương, Trương Sinh xuất thân con nhà hào phúng nhưng ít học, tính hay đa nghi và đề phòng vợ quá mức. Chứng tỏ một điều rằng sự bất công về con người trong xã hội càng hiện lên rõ nét. Xét về góc độ khách quan thì một người phụ nữ xinh đẹp,tài giỏi như Vũ Nương thì xứng đáng được một cuộc sống hạnh phúc, viên mãn nhưng ở câu chuyện này thì hoàn toàn khác, nàng không được tự do yêu thương, không được quyền chọn lựa. Trương Sinh lấy nàng về như một hình thức mua bán mà chính Trương Sinh cũng không yêu thương gì nàng mà chỉ lấy nàng vì “mến”. Mặc dù vậy nhưng Vũ Nương hết lòng yêu thương chồng, biết chồng đa nghi nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình phải thất hòa. Cuộc sống bên chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Nàng bịn rịn tiễn dặn chồng và khoogn mong muốn gì ngoài sự “bình yên” của chồng. Bên cạnh đó nàng còn thấu hiểu nỗi vất vả của chồng sắp phải chịu. Những chi tiết đó đã chứng tỏ nàng là người phụ nữ vì gia đình “nghi gia nghi thất” phẩm hanh ấy càng được bộc lộ rõ hơn khi ở với mẹ chồng. Sau khi chàng đi được một tuần thì nàng sinh con, đặt tên là bé Đản. Vì nhớ con trai nên mẹ chồng đã sinh ốm. Lúc này, nàng vừa làm con, vừa làm mẹ, vừa làm cha, một mình nàng gánh vác mọi công việc của gia đình chồng. Đối với mẹ chồng, Vũ Nương là người con hiếu thảo, ngoan hiền. Trong lúc chồng đi xa, nàng vừa chăm sóc mẹ già đau ốm vừa nuôi con nhỏ. “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật mà lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơi”. Phẩm chất ấy của nàng đã được chính người mẹ chồng đánh giá cao khi bà ở phút lâm chung. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan. Khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không chỉ vì trách nhiệm của một nàng dâu mà còn thể hiện tình yêu thương hết lòng đối với chồng ngoài mặt trận. Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật sự yêu mến,trân trọng qua từng hành động,cử chỉ qua đó khắc họa rõ nét phẩm chất người phụ nữ. Đối với đứa con bé bỏng của mình thì nàng hết mực yêu thương và tìm cách lấp đi cái thiếu thốn phải xa cha mà con mình đã chịu thiệt thòi. Nàng đã lấy “cái bóng” của mình để dỗ dành con, nói với con đó là cha để làm vơi bớt nỗi nhớ chồng và xoa dịu sự thiếu thốn khi vắng cha của bé Đản. Và rồi “cái bóng” đã trở thành người cha trong tâm trí của một đứa trẻ ngây thơ mới 3 tuổi. Sau ba năm xa cách, khi trở về cứ nghĩ rằng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tai họa ập đến cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây ngô của trẻ con: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi đêm nào cũng đến.., làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ thất tiết. Dù Vũ Nương có hết lời phân trần, có tha thiết giãi bày để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can, biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Chính chi tiết, và phân đoạn này càng cho chúng ta thất rõ sự vô học của Trương Sinh. Nếu Trương Sinh có học thức thì sẽ không xử lý như vậy. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào tế bào mỗi cá nhân đã dung túng, cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Như vậy một lần nữa cái quyền tự bảo vệ mình và được người khác bảo vệ cũng không có. Hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Một hành động tưởng chừng như ngu xuẩn nhưng đặt ở vị trí ngày đó, xã hội đó, người chồng đó thì không có cách nào khác là phải tìm đến cái chết. Chúng ta đặt ra một gỉa thiết; Nếu Vũ Nương không chết thì biết đâu đó chính Trương Sinh cũng hành hạ nàng đến chết, khi này nàng sống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần mà nỗi oan ức không được giãi bày?Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Và rồi, một hôm bé Đản gọi bóng Trương Sinh là cha, lúc này Trương Sinh mới biết mình nghi oan cho vơ. Chàng đã lập đàn giải oan nhưng Vũ Nương chỉ hiện về trong chốc lát rồi biến mất. Qua tác phẩm ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần phải trải qua khó khăn, cực nhọc trong cuộc sống nhưng vẫn vượt lên số phận nhưng càng cố gắng thì sự oan nghiệt càng đến gần, nàng vẫn là nạn nhân của chế độ nam quyền đầy bất công và thối nát. Nàng chính là nạn nhân của xã hội phong kiến cũng là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Qua văn bản này Nguyễn Dữ đã ca ngơi người phụ nữ dung hạnh nhưng đầy bất hạnh.Dồng thời cũng tố cáo, lên án xã hội đầy bất công thời phong kiến, một xã hội bất bình đẳng, chà đạp lên tinh thần và thể xác người phụ nữ. Đọc tác phẩm ta càng thấy ngòi bút sắc bén của tác giả và những giá trị nhân văn sâu sắc mà ông muốn gửi gắm cho bạn đọc.
Tính đến thời điểm hiện tại, bên cạnh sắn, ngô, khoai thì cây lúa nước là một trong những thực phẩm được tiêu thụ nhiều nhất trên đất nước hình chữ S ta, Là một trong những những nguồn thu nhập chính của nhà nông và là giống cây dễ chăm sóc và dễ trồng nhất. Cây lúa, và phổ biến nhất là lúa nước xuất hiện nhiều nhất ở Đông Nam Á khoảng cách đây hơn 10000 năm về trước và được con người nơi đây thuần hóa đem về canh tác và dần lúa nước trở thành nguồn thu nhập chính của họ. Như vâỵ có thể nói, Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước đầu tiên và là trung tâm phát triển ngành nông nghiệp lúa nước lớn trên thế giới. Lúa vốn là một loài cây hoang dã, tổ tiên của nó là một loài cây dại thuộc chi Oryza trên siêu lục địa Gondwana cách đây khoảng 130 triệu năm về trước, sau bởi vì quá trình phân tách lục địa mà loài này bị trôi dạt về các vùng đất khác nhau, quá trình tiến hóa đã cho ra nhiều giống lúa có cấu tạo khác biệt. Và lúa nước của Việt Nam có tên khoa học là Oryza Sativa thuộc họ lúa Poaece vẫn thường được gợi với cái tên quen thuộc là lúa hoặc lúa nước, được trồng chủ yếu ở hai đồng bằng lớn sông Hồng và sông Cửu Long, ngoài ra còn được canh tác ở nhiều đồng bằng nhỏ vùng duyên hải miền Trung nước ta, hoặc trên các vùng núi Tây Bắc, hình ảnh những ruộng bậc thang đầy sức sáng tạo của người dân trên những ngọn đồi, ngọn núi cao sừng sững đã trở thành một trong những hình ảnh, kỉ niệm đáng nhớ cho những vị khách du lịch đến đây chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của thiên nhiên và con người. Lúa nước được chia ra làm hai loại dựa vào hàm tính amilopectic (hàm lượng quyết định tính dẻo) trong hạt gạo. Gạo tẻ có hàm lượng amilopectic chiếm khoảng 80% còn của gạo nếp thì cao hơn khoảng 90% vì vậy gạo nếp ăn dẻo và dín hơn. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu và lai tạo giống, người ta còn dựa và hình dáng, đặc điểm mà chia ra làm nhiều giống lúa khá nhau. Còn về ý nghĩa, trong những năm khoảng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hình ảnh cây lúa được gắn với hình ảnh hậu phương vững chắc à hình ảnh của công cuộc xây dựng nước nhà, lấy gốc là nông nghiệp, của Đảng và nhà nước. Ngoài ra, khi nhắc đến cây lúa nhiều người sẽ nghĩ đến hình ảnh người nông dân cần cù, siêng năng, một nắng hai sương trên cánh đồng lúa xanh bát ngát thẳng cánh cò bay là đại diện cho sự ấm no, đủ đầy cho mọi nhà. Hay trong những ngày lễ lớn, xôi – một món ăn truyền thống không thể thiếu trong mâm cỗ của người Việt ta từ xưa đến nay. Hoặc trong những ngày tết cổ truyền hình ảnh cả gia đình ngồi luộc bánh trưng, bánh giày cũng là một kỉ niệm khó quên của những người con xa quê hương. Hay ngược về thời xa xưa, hình ảnh chàng hoàng tử lang luu sử dụng gạo để làm bánh trưng, bành giày cúng bái trời đất, dâng lên vua Hùng, qua đó ta có thể thấy được sự quan trọng của hoa gạo, cây lúa trong đời sống thường ngày xung quanh ta. Bình dị, giản dị cả trong đời sống vật chất và tinh thần, cây lúa là người bạn của nông dân là nguồn thu nhập nông nghiệp chính của nước tavaf là hậu phương vững chắc của ta trong những năm kháng chiến đầy khó khăn.
PHẦN I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tác giả Tác giả Xéc-van-tét (1547-1616) là nhà văn người Tây Ban Nha. Ông vốn là binh sĩ bị thương năm 1571 trong một cuộc huỷ chiến và bị bắt giam ở An- giê từ năm 1575 đến năm 1580. Trở về Tây Ban Nha, ông sống một cuộc đời cực nhọc, âm thầm mãi cho đến lúc công bố tiểu thuyết Đôn- ki-hô-tê. 2. Tóm tắt nhân vật Văn bản đánh nhau với cối xay gió trích trong tiểu thuyết ấy. Tác phẩm Đôn-ki-hô-tê, một lão quí tộc nghèo sống với cháu gái và bà quản gia vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ. Lão lục tìm những đồ han gỉ của tổ tiên để trang bị cho mình, phong cho con ngựa còm của lão là chiến mã Rô-xi-nan- te còn bản thân lão lão là Đôn-ki-hô- tê xứ Man- cha. Còn người phụ nữ lão thầm yêu thì được lao ban cho cái tên công nương Duyn-xi-nê-a.Cuối lần ra đi thứ nhất Đôn-ki-hô-tê vốn đã nhắm bác nông dân ở cạnh nhà, nghèo và đông con, lương thiện, "nhưng phải mỗi tội là kém thông minh". Đôn-ki-hô-tê bảo bác hãy đi theo chàng vì có thể trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào đó, chàng sẽ chiếm được một hòn đảo và sẽ trao cho bác cai trị. Bị những lời hứa hẹn tốt đẹp cám dỗ, Sancho Panza (tên bác thợ cày) bỏ cả vợ con, nhà cửa, đi làm giám mã cho ông láng giềng Cuộc hành trình trừ lũ gian tà, cứu người lương thiện đã diễn ra và sau nhiều phen thất bại ê chề, cuối cùng ốm nặng. Dôn-ki-hô- tê mới nhận ra tác hại của truyện hiệp sĩ. Lão viết di chúc và qua đời. PHẦN II.PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VÀ CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HAI NHÂN VẬT 1. Phân tích và so sanh hai nhật vật Ở đoạn trích Đôn-ki- hô- tê đánh nhau với cối xay gió có rất nhiều chi tiết hay và ý nghĩa đặc biệt là cuộc đối thoại và sự tương phản giữa hai nhật vât Đôn-ki-hô-tê và San-cho Pan xa, vậy nét đặc sắc mà tác giả đã xây dựng qua đoạn trích này là gì? Chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu. Ngay trong đoạn trích, ta thấy hai nhân vật Đôn-ki-hô-tê và San-cha Pan- xa đã có nhiều nét khác nhau về tất cả mọi mặt, từ ngoại hình cho đến tính cách. Đối với nhân vật Đôn-ki-hô-tê được xuất thân trong gia đình quý tộc nghèo, cái tên của ông là do chính ông đặt ra thể hiện vị thế của mình trong xã hội. Còn với San- cha Pan xa ông là người nông dân hiền lành, chất phác. Về hình dáng San cha Pan- xa vừa béo, vừa thấp cưỡi trên lưng con lừa, với bầu rượu và cái túi hai ngăn đựng thức ăn, thuốc cao và những vật dụng thiết thực khác, ngược lại Đôn-ki-hô-tê thì cao lênh khênh, ngồi trên lưng con ngựa. Con ngựa hiện thân của năng lực, may mắn, hạnh phúc và quyền thếđồng thời con ngựa cũng thể hiện nghị lực, sáng tạo và sức sống mãnh liệt. Còn con lừa thì biểu tượng cho sự khiêm nhường, hiền lành, hòa bình. Hay nói cách khác, con lừa chỉ biết làm việc nặng nhọc dưới sự chỉ bảo của ông chủ mà không cần suy nghĩ hay trí thông minh. Tác giả xây dựng mặt đối lập này nhằm cho người đọc nhận thức điểm mạnh và điểm yếu của nhân vật trong câu chuyện. Sự đối lập ấy hết sức khéo léo và tài tình. Về tính cách của hai nhân vật cũng khác nhau hoàn toàn, Đôn-ki-hô-tê hì dũng mãnh, trọng danh dự và luôn nghĩ đến việ chung còn San- cha Pan xa thật thà, nghĩ đến cuộc sống của riêng mình. Trong suy nghĩ của Đô-ki-hô- tê thì có nhiều ảo tưởng, hão huyền và thiếu thực tế, ngược lại giám mã thì lại hết sức tỉnh táo và thực tế dẫn đến thực dụng. Tất cả những sự khác biệt đó cũng dẫn đến mục đích của hai nhân vật khác nhau, đối với Đôn-ki-hô-tê thì muốn trở thành hiệp sĩ lang thang trừ gian trừ tà và giúp người lương thiện, đó là mục đích cao cả mà lão mong muốn thực hiện được. Còn giám mã chỉ mong hưởng chiến lợi phẩm những thứ tầm thường trong cuộc sống Qua cách xây dựng nhân vật ở hai mặt đối lập, ta thấy tác giả đang muốn khắc họa sâu hơn về thực tế đời sống lúc bấy giờ, nhằm cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về cái tầm thường và cái cao cả trong thời kỳ Phục Hưng. Vậy cái cao cả và tầm thường đó là gì? Chúng ta hãy tìm hiểu đoạn đối thoại của hai nhân vật và những tình tiết bất ngờ. 2. Trận chiến và kết thúc Khi đến cánh đồng, Đôn-ki-hô- tê “chợt” thấy những chiếc cối xay gió, đây là yếu tố bất ngờ cộng thêm số lượng những chiếc cối xay gió “ba bốn chục chiếc” phần nào giải thích hoang tưởng chợt xuất hiện trong đầu Đôn- ki-hô- tê bởi trong các tiểu thuyết lão đọc thì những trận chiến thường xảy ra bất ngờ với số lượng lớn của kẻ địch. Chàng muốn chia sẻ hoang tưởng của mình cho giám mã và muốn nhấn mạnh những điều mà giám mã quan tâm nhất đó là “chiến lợi phẩm, giàu sang phú quí, chính đáng, phụng sự Chúa” Lúc này, San cho Pan xa hỏi lại, những tên khổng lồ nào cơ Đôn- ki-hô- tê trả lời: Những tên mà anh nhìn thấy ở trước mặt kia kìa. Cánh tay chúng rất dài, có cái tới gần hai dặm Nhưng giám mã lại rất tỉnh táo trả lời và cảnh báo ông chủ: Xin ngài coi chừng, đó chỉ là những cối xay gió, cái vật trông giống cánh tay là những cánh quạt… Vì mục đích cao cả và sự quyết tâm, chàng hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê quyết tâm kết liễu “những tên khổng lồ, hung tợn” “quét sạch cái giống xấu xa này khỏi Trái Đất” mặc cho giám mã có lời khuyên. Hơn nữa, lão cùng trách giám mã “chẳng hiểu gì” Hắn xông lên và trong đầu đinh ninh phía trước có những tên khổng lồ. Như vậy trong đầu hắn luôn nghĩ đến kẻ xấu xa và những thứ tầm thường cần phải xóa khỏi Trái Đất, hắn không hề nghĩ đến sự tồn tại hữu hình của nó trong hiện tại. Đôn- ki- hô- tê hiện thân của một chàng hiệp sĩ thực hiện cái cao cả, ở chi tiết : “Lũ….kia, không được chạy trốn! Có ta là hiệp sĩ, một thương một mã đến đọ sức với bọn ngươi đây” Ở câu này đã thấy rõ sự quân tử từ Đôn-ki-hô-tê, chàng hiệp sĩ vì lý tưởng tốt đẹp, “một thương một mã” là đấu tay bo, đấu không cần nhiều bọn mà chiến đấu đúng nghĩa quân tử như các hiệp sĩ mà lão đã đọc trong tiểu thuyết. Chàng thể hiện lòng dũng cảm và niềm tin chiến thắng của mình, chàng thúc ngựa lên với với lòng quyết tâm, dũng cảm, chống kẻ thù quyết liệt. Nhưng kết cục trận chiến trong chóng vánh chỉ để lại thương tích cho hiệp sĩ. ‘ngọn giáo gãy tan tành, cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh ra đất” “Đôn-ki-hô- tê nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng” Mặc dù thấy trận đấu gây ra tiếng cười bởi lý tưởng cao cả nhưng không thực tế của chàng nhưng chúng ta vẫn khâm phục tinh thần sự hào hùng đó. Lúc này, giám mã thúc lừa tới và buông lời trách móc nhưng chàng hiệp sĩ vẫn kiên quyết không tin vào những cái “ai cũng biết” . Và chàng đã thuyết phục được giám mã qua tình tiết đầy lạc quan về ông pháp sư, như vậy ta thấy ngoài đấu tranh với thực tại thì chàng còn đấu tranh với cả thế giới siêu nhiên đầy pháp thuật đó là tên pháp sư. Và rồi hai thầy trò tiếp tục cuộc hành trình về nơi đông người, ở chi tiết này cho ta thấy rõ hơn mục đích cuối cùng của chàng hiệp sĩ là “bênh vực kẻ yếu” .Điều đáng chú ý, cho dù đau đớn về thể xác nhưng chàng vẫn không kêu lên và vẫn phản đối giám mã San- cho Pan- xa. Vết thương không đáng lo ngại, điều mà chàng lo lắng đó là vũ khí, chàng liền nghĩ đến trong tiểu thuyết có hình ảnh “ nhổ cây” làm vũ khí một lần nữa đã được sự đồng tình từ giám mã 3. Bức tranh sinh hoạt tinh thần và vật chất Chàng Đôn-ki-hô-tê chằng buồn ăn, hắn chỉ nghĩ đế tinh thần là chủ yếu còn tên giám mã thì “ngồi một cách rất thoải mái trên lưng lừa, lấy cái ăn ở trong cái túi hai ngăn” ở chi tiết này cho thấy bác giám mã hết sức bình tĩnh và nghĩ về vật chất còn tinh thần bác giám mã không hề nghĩ đến. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn ở đoạn sau: Sancho Panza “vừa đi theo chủ vừa ăn một cách khoái trá, thỉnh thoảng nghiêng bầu rượu tu một hơi ngon lành khiến tay chủ quán rượu sành sỏi nhất ở Malaga cũng phải phát ghen”. Sancho Panza hết sức thoải mái trong thế giới vật chất. Chính đây là lúc bác có thể suy nghĩ, hay đúng hơn là “cảm nhận” cuộc sống: “Vừa đi vừa nhắm rượu, Sancho quên cả những lời hứa hẹn của chủ; bác cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu này tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Sancho Panza vốn ra đi vì “hòn đảo” giàu sang phú quí mà chủ bác hứa cho khi lập được chiến công, vậy mà giờ đây “quên cả lời hứa hẹn của chủ”. Lời hứa hẹn ấy quá xa vời, nhất là trong khi vừa trải qua một thất bại! Đối với Sancho Panza, cả “nguy hiểm” đã qua và sẽ đến cũng không thật quan trọng. Trong khi ăn uống, Sancho Panza chỉ nhìn thấy cái trước mắt, trước mắt là có cái mà ăn uống và “không đến nỗi vất vả”. Như vậy là bác giám mã hài lòng. Còn đối với Đôn-ki-hô-tê lúc ngủ chàng cũng nghĩ đến vũ khí của mình “bẻ một cành khô” cho dù không có cây sồi và cũng không đủ khả năng để nhổ cây, một cành khô là đủ, cái gì thiếu đã có trí tưởng tượng của chàng hiệp sĩ. Quan trọng là tinh sẵn sàng chiến đấu và khát vọng lập chiến công. Tinh thần ấy của Đôn-ki-hô-tê được cũng cố thêm rất nhiều nhờ hướng tới người tình nương lý tưởng, chàng không ngủ cả ở thế giới thực tế. Còn giám mã thì ngược lại “Sau khi đánh chén no say, bác làm một giấc đến sáng, và nếu như chủ không gọi, chắc bác cũng chưa buồn dậy, mặc cho ánh nắng chiếu thẳng vào mặt, mặc những tiếng chim hót líu lo đến mừng một ngày mới” Tuy nhiên, thức dậy khỏi giấc ngủ chưa phải là đã tỉnh ngay: “Vừa mở mắt, Sancho Panza đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì thấy nó nhẹ hơn hôm trước mà xem chừng trên quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy”. Vẫn những toan tính vật chất tầm thường ấy! Còn chàng hiệp sĩ thì cũng đâu đã tỉnh khi “không ăn sáng vì, như ta thường nói, nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi”. Vẫn cái tinh thần phi vật chất ấy! Qua đoạn trích này tác giả dã cho chúng ta thấy hai nhân vật là hai tư tưởng đối lập nhau nhưng bổ sung cho nhau. Một người thì hướng đến tinh thần, nghĩ đến cái cao cả tốt đẹp. Còn một người thì nghĩ đến cái giản dị, tầm thường trong cuộc sống đó là vật chất. Nếu tổ hợp hai yếu tố này trong cùng một người thì sẽ trở thành một người hoàn mĩ nhưng ở mỗi cá nhân, có điểm này lại mất điểm kia. Chính vì vậy tác giả muốn cho người đọc thấy được sự biện chứng giữa vật chất với tinh thần, tất cả phải hài hòa thì mới tạo nên môt cá nhân hoàn chỉnh. Nếu thiên về tinh thần nhiều quá thì sẽ trở thành nhân vật Đôn-ki-hô-tê ảo tưởng quá sức, một gã gầy còm cao lênh khênh. Còn thiên về vật chất lại trở thành kẻ tầm thường như Sancho Panza, mập mạp và không có trí tưởng tượng. 4. Tư tưởng chủ đạo mà tác giả muốn gửi gắm Ở phân đoạn này ta thấy sự tưởng tượng của Đô-ki-hô-tê đã lên cao cho dù những chiếc cối xay gió đó không có gì lạ lẫm với người dân Tây Ban Nha đặc biệt với một quí tộc nghèo như chàng. Vậy tại sao chàng lại có hành động như vậy? Câu trả lời đơn giản là vì Đôn-ki-hô-tê bị ảo tưởng quá sức, trong tâm trí chỉ mong thực hiện những nhiệm vụ cao cả, và lấy sức mình để bảo vệ kẻ yếu. Nhưng sự ảo tưởng đó đã gây nên tiếng cười cho bạn đọc, chàng đã trở thành kẻ điên rồ. Nhưng may mắn thay, mặc dù hoang tưởng, nhưng Đôn Ki-hô-tê lại là người có lối suy nghĩ nhân văn, tích cực. Những chiếc cối xay gió chính là những thứ tầm thường trong cuộc sống nên chàng muốn tiêu diệt chúngTrong đầu óc nhà quý tộc, hễ cứ gặp ai, cũng hình dung họ như là những nhân vật trong sách kiếm hiệp. Đến nỗi, một cô gái mà ai cũng biết xấu xí, nhưng Đôn Ki-hô-tê lại cho rằng rất đẹp, là tình nương. Ai bị đánh thua trận, bắt buộc phải về gặp tình nương kể lể. Nhưng cũng thông qua nhân vật , tác giả đã lên án bất công, cần sự công bằng, tự do cho con người. Đồng thời chế giễu thói hư danh, sống theo trào lưu tầm thường, mà đánh mất đi chính mình. Trong tác phẩm này kẻ thù tầm thường về tư tưởng chính là cha sứ, kẻ luôn ngăn cản cái cao đẹp, nhân văn. Cũng chính nhân vật Đôn-ki-hô-tê đã cho ta thấy chế độ nhân quyền được đề cao , con người được xem là chúa tể của vu trụ chứ không như xã hội trước đó chủ yếu coi trọng thần quyền. Tác giả muốn gửi gắm sự nhân văn, con người được coi trọng, bình đẳng, nhân ái giữa con người với con người. Chủ nghĩa nhân văn khẳng định đời sống thực tế, ca ngợi niềm vui và hạnh phúc trần thế, khẳng định tình yêu là cao đẹp, con người có quyền theo đuổi danh vọng và của cải, khẳng định địa vị, phẩm giá con người qua nhân cách, bất cứ xuất thân như thế nào. Nhân vậy Đôn-ki-hô- tê đại diện cho con người mang lý tưởng nhân văn cao đẹp đầy tài năng và trí tuệ như những kì quan của thiên nhiên. Cho dù thất bại trong đau đớn nhưng vẫn không bỏ cuộc. Một lần nữa ta khẳng định đây chính là chủ đề xuyên suốt nhân văn thời lỳ Phục Hưng mà con người hướng đế. Đôn-ki-hô-tê thực hiện lý tưởng phi thực tế, còn Sancho Pan xa thực hiện thực tế phi lý tưởng.
Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945 đến 1975 1.Bối cảnh Khai sinh nước VN Dân chủ Cộng hòa 1945; toàn quốc kháng chiến chống Pháp 9 năm (1946-1954); chia cắt hai miền Nam – Bắc (1954-1975),kháng chiến chống Mỹ, tiến tới thống nhất đất nước (1964 - 1975) 2. Lực lượng sáng tác Bao gồm: văn nghệ sĩ,trí thức: gia nhập Đảng, tham gia kháng chiến; nhà văn hóa,giáo dục 3. Khuynh hướng cảm hứng - Miền Bắc: cảm hứng lãng mạn công dân, tuyên truyền kháng chiến cứu nước 1945-1954; cuộc đấu tranh tư tưởng giữa khuynh hướng “tự do hóa văn nghệ” và “đảng cộng sản lãnh đạo, vào quỹ đạo VH XHCN” 1956-1964; khuynh hướng sử thi và lãng mạn 1965-1975 - Miền Nam: 1955-1975: đề cao chủ nghĩa quốc gia; thể hiện tinh thần phản kháng; tôn vinh truyền thống văn hóa dân tộc; tái hiện thân phận con người; văn học đại chúng; Đây là thành tựu của hiện đại hóa 4. Thể loại, ngôn ngữ Ở gia đoạn này thể loại chủ yếu là thơ, trường ca, ký, tùy bút, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu thuyết. Một số tác phẩn tiêu biểu như: Vợ chồng A Phủ, Đòng Chí, Lặng lẽ Sa Pa, Đất nước… 5. Tác giả tiêu biểu - Văn học kháng chiến chống Pháp: Quang Dũng 1921-1988, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Tố Hữu, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Trần Đăng; Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Nguyễn Thành Long - Văn học chống Mỹ: Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Thị Xuân Quý; Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ, Việt Phương; Dương Hương Ly, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Anh Đức, Chu Văn, Nguyễn Tuân
Giai đoạn hình thành văn học hiện đại 1. Bối cảnh lịch sử Nước ta phải chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai cuộc khai thác thuộc địa; tiếp xúc kéo dài với văn hóa phương Tây, nền giáo dục quốc ngữ có bước phát triển → hình thành “văn đoàn” lớn, xung đột: dân tộc, giai cấp, văn hóa 2. Lực lượng sáng tác Bao gồm: Trí thức Tây học, công-nông-binh, một bộ phận tác giả tham gia cách mạng/bí mật, một bộ phận tác giả hợp pháp/công khai 3. Khuynh hướng cảm hứng - Khuynh hướng lãng mạn: văn xuôi lãng mạn, Thơ mới - Khuynh hướng hiện thực: phóng sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết (trào phúng) - Khuynh hướng yêu nước, cách mạng: thơ ca, hò, vè, phóng sự… 4. Thể loại, ngôn ngữ - Thơ: ba dòng: (ảnh hưởng) thơ Pháp, Đường thi, thuần Việt; đa “xóm thơ”: sông Thương, Tự lực, Phương Đông, Huế, Bình Định, Hà Tiên… - Văn xuôi: phóng sự, truyện ngắn (trào phúng), tiểu thuyết (trào phúng), - Kịch thơ - Khảo cứu, dịch thuật - Phê bình văn học 5. Tác giả tiêu biểu -Thơ mới: 1932-35: Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên; 1936-39: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên - Kịch thơ: Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Yến Lan, Vũ Trọng Can, Vũ Hoàng Chương, Phan Khắc Khoan… - Tự lực văn đoàn: Nhất Linh 1906-1963, Khái Hưng 1896-1947, Thạch Lam 1910-1942, Tú Mỡ 1900-1976… Xem thêm: Tiến trình văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII- XIX
Giai đoạn 1: Từ thế kỷ X- XIV 1.Bối cảnh lịch sử Kết thúc thời Bắc thuộc, kiến tạo và bảo vệ thành công các triều đại quân chủ độc lập (Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần): chiến thắng ngoại xâm phương Bắc; mở đầu công cuộc “Nam tiến” Giai đoạn này đặt nền văn hóa đa tôn giáo hòa đồng 2. Lực lượng sáng tác - Thiền sư, vua, quan/tướng, tôn thất, nhà nho (hành đạo, ẩn dật)… thi xã Bích Động. Ở giai đoạn này lực lượng sáng tác không có nhân dân bởi lực lực nông dân không được đi học chỉ có thiền sư, vưa, nhà nho mới được học chữ. 3. Quan nhiệm văn học Thiên về đề cao chức năng giáo huấn; văn học chức năng (VHCN) ở trung tâm 4. Khuynh hướng cảm hứng: Chủ dề xuyên suốt là yêu nước, tôn giáo,thiên nhiên, thế sự (manh nha), nhân đạo 5. Thể loại: - Văn học chữ Hán: +Văn học chức năng: chiếu, hịch, văn khắc/văn bia, văn chép sử - sử kí, thần phả/thần tích, truyện tôn giáo, kệ/thi kệ, Tự/Bạt … +Văn học nghệ thuật: manh nha Truyện truyền kì LNCQL; thơ lục ngôn (Trần Ngạc); thơ thất ngôn, ngũ ngôn, cổ phong; Phú… - Văn học chữ Nôm: thơ thất ngôn tứ tuyệt (Hà Ô Lôi, Điểm Bích); Phú Nôm Giai đoạn này đặt nền móng cho văn học nước nhà 6. Tác giả tiêu biểu - Trần Nhân Tông: Trần Nhân Tông thi tập, Thạch Thất mỵ ngữ... - Tác giả Thiền sư: Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Huyền Quang/Lý Đạo Tái… - Tôn thất: Trần Quốc Tuấn, Trần Tung, Trần Quang Khải, Trần Quang Triều, Trần Nguyên Đán… - Tg quan/tướng: Lí Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An, Đặng Dung Giai đoạn 2: Từ thế kỉ XV- XVII 1. Bối cảnh lịch sử Kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi, mở ra triều đại Lê sơ (Hậu Lê),100 năm thịnh trị của quốc gia quân chủ (độc tôn) Nho giáo (1428-1527),gần 200 năm cát cứ phân tranh: Nam Bắc triều, Trịnh – Nguyễn (Lê trung hưng, Đàng Ngoài – Đàng Trong) 2. Lực lượng sáng tác Lực lượng sáng tác văn học ở thời kì này khá đông đảo, bao gồm: Nhà nho ( hành đạo, ẩn dật),vua,chúa,quan, Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn. Đặc biệt vào khoảng thế kỉ thứ XVII, nền văn học có thêm sự xuất hiện của văn học Đàng Trong (Đào Duy Từ, Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Hữu Hào...). Quan niệm văn học Chức năng thẩm mỹ dần được coi trọng; VHNT đi dần vào trung tâm 4. Khuynh hướng cảm hứng Hầu hết các tác phẩm văn học trong thời kì này là sự kết tinh của tinh thần yêu nước, tình yêu thiên nhiên, những suy nghĩ về đạo lí, thế sự của các tác giả. Ẩn sâu trong các tác phẩm đó là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà các tác giả muốn gửi vào sự đời. 5. Thể loại ngôn ngữ Văn học chữ Hán: +Văn học chức năng: cáo, chiếu, biểu, tấu, văn bia, thư, văn chép sử, … +Văn học nghệ thuật: Thơ các thể thất ngôn, ngũ ngôn, trường thiên; Truyện truyền kì; Tự/Bạt; manh nha Kí, … - Văn học chữ Nôm: Thơ Đường luật Nôm, diễn ca lịch sử với thơ STLB và LB; Phú Nôm; Truyện thơ Nôm (Đường luật), Khúc vịnh, Hát nói, … Ở giại đoạn này được phát triển mạnh mẽ 6. Tác giả tiêu biểu - Nguyễn Trãi và “văn học Lam Sơn”: Quốc âm thi tập, Ức trai thi tập, Bình Ngô Đại Cáo,... - Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn: Hồng Đức quốc âm thi tập - Nguyễn Bỉnh Khiêm: Dại Khôn, Cảnh Nhàn,... - Nguyễn Dữ: Truyền kì mạn lục - Nguyễn Húc: Phong vũ thán, Hàn dạ độc lập,... - Thái Thuận: Lữ đường thi - Nguyễn Bảo: Châu Khê thi tập - Đặng Minh Khiêm:Giang Tây khúc thuyền thi tập - Trịnh Căn, [Trịnh Cương, Trịnh Doanh] …:Khâm Định Thăng Bình Bách Vịnh Tập Xem thêm: Tiến trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIIi- XIX
Bài văn mẫu hay nhất về lòng khiêm tốn Một trong những đức tính tốt đẹp của con người đó là khiêm tốn. Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người, luôn cố gắng, nỗ lực không ngừng học tập và rèn luyện.Nếu trong xã hội ai cũng có lòng khiêm tốn và ý chí vươn lên thì xã hội ngày càng tốt đẹp và phát tiển hơn. Đức tính khiêm tốn được thể hiện qua lời ăn, tiếng nói, cử chỉ hành động và cách ứng xử của mỗi người. Người có nhân cách, có phẩm chất, có lòng tự trọng thì sẽ khiêm tốn. Như chúng ta thấy Bác Hồ là một tấm gương điển hình về lòng khiêm tốn, Bác không nhận mình là nhà thơ giỏi, Bác chỉ nhận mình là người yêu thơ. Bên cạnh những tấm gương về lòng khiêm tốn thì vẫn tồn tại một số cá nhân kiêu ngạo, kiêu căng, coi trời bằng vung và coi thường mọi người, những người này cần phê phán để họ hiểu được giá trị của lòng khiêm tốn. Khi có lòng khiêm tốn sẽ giúp con người luôn luôn phấn đấu, rèn luyện, không ngừng học hỏi để phát triển bản thân, giúp họ nhanh chóng chạm đến vinh quang mà họ mong muốn. Qua đây, mỗi học sinh chúng ta cần rèn luyện đức tính khiêm tốn để hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng mối quan hệ bền vững trong xã hội, sớm chạm dến thành công trong cuộc sống.