Nội dung Biểu hiện của không gian nghệ thuật trong tản văn văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 Nếu ở thời kì trước đó, cảm hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn được đề cao, tôn vinh trong các tác phẩm văn học với những vấn đề to lớn, mang tính tập thể, đậm chất anh hùng ca thì đến giai đoạn này, văn học nói chung và tản văn nói riêng dần được thay thế bằng cảm hứng đời tư, thế sự. Cảm hứng thay đổi dẫn đến những không gian nghệ thuật trong văn học cũng thay đổi, thiên về tái hiện những không gian đời thường, cá nhân của con người. Lí giải cho sự đổi thay về không gian nghệ thuật này là do chiến tranh đã đi qua. Vì vậy, đây là cơ hội để văn học dần trở lại với bản chất thực thụ. Tản văn là mảnh đất màu mỡ để những nhà văn khai thác, bộc bạch những trải nghiệm và cá tính của bản thân. Không gian trong tản văn trở thành nơi để con người phô bày tất cả những cái sần sùi, thô ráp đời thường, thế tục với nhiều những đổi thay thời đại, tiếp cận các vấn đề đạo đức thế sự. Con người đối diện với thực tại cuộc sống muôn hình vạn trạng, được đặt trong các mối quan hệ: giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người công dân, con người xã hội và con người tự nhiên, từ đó mà luôn soi chiếu, đưa ra những suy ngẫm, trăn trở về cuộc đời. Các tác giả tản văn còn trực tiếp bày tỏ thái độ trước những thay đổi của cuộc đời khi con người ta dần đánh mất bản thân, những sụp đổ về tư cách đạo đức, những can thiệp thô bạo của con người đến thiên nhiên. Vì vậy, trên bề mặt những trang sách là không gian hiện thực nhưng ẩn chứa sau câu chữ là tất cả sự nhức nhối, đau đớn, xót xa. Ngoài ra, tản văn là thể loại phù hợp với nhịp sống nhanh, sôi động, hối hả của cuộc sống vào thời điểm bấy giờ, dễ dàng tái hiện nhiều mặt đời sống. Hiếm có thể loại văn học nào có khả năng bám sát đời sống và có hiệu ứng cộng cảm cao như thể loại tản văn. Các không gian chủ yếu được tái hiện trong các tác phẩm tản văn giai đoạn này rất phong phú, đa dạng, có thể kể đến như: vẻ đẹp thiên nhiên, phong cảnh, phong vị quê hương; những nét đẹp truyền thống trong phong tục tập quán, văn hóa dân tộc;… qua đó các tác giả thể hiện cảm quan về xã hội. Có thể kể đến một số những tác giả nổi bật đã để lại những tản văn có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong thời kì này như: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Mai Văn Tạo, Y Phương, Băng Sơn, Tạ Duy Anh, Đỗ Phấn, Lý Lan, Nguyễn Khắc Phê, Đỗ Chu,… Những sáng tác của họ thực sự đã làm nên sự đa diện của tản văn cũng như sự đa diện của hiện thực đời sống. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 3
Tóm tắt: Bài viết bàn luận về những biểu hiện không gian nghệ thuật trong tản văn văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 nói chung và đặc điểm không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư nói riêng. Đó là không gian để những nhà văn khai thác, bộc bạch những trải nghiệm, cá tính của bản thân, phô bày tất cả những đổi thay thời đại. Từ việc nghiên cứu về những đặc điểm không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư, vận dụng vào thiết kế bài dạy dạy học đọc hiểu các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư trong chương trình Giáo dục phổ thông 2018 với hai tác phẩm “Trở gió” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) và “Mùa phơi sân trước” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Chân trời sáng tạo). Từ khoá: tản văn, Nguyễn Ngọc Tư, thế sự, đời tư, thiên nhiên Nam Bộ, Trở gió, Mùa phơi sân trước. Mở đầu Nguyễn Ngọc Tư là một nữ nhà văn mộc mạc, bình dị sinh ra từ mảnh đất thôn quê Nam Bộ đầy nắng và gió. Các sáng tác của chị đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ độc giả qua lối kể chuyện dung dị, dân dã, đậm màu sắc phương Nam. Trong đó, không gian nghệ thuật trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư một mặt thể hiện chất đời thường, miền quê dân dã qua những trang viết thấm đẫm tình cảm của những con người Nam Bộ chân chất, hồn hậu, mặt khác thể hiện những suy tư, trăn trở của chị về sự đổi thay của mảnh đất máu thịt này. Nếu như trước đây, Nguyễn Ngọc Tư có hơi chút “bảo thủ” khi chỉ khai thác cảnh vật, thiên nhiên quê hương mình với cái lí do “cái cảm giác mình chỉ chạm tới lớp áo ngoài của miền đất này khiến tôi nghĩ mình sẽ ở lại lâu hơn” thì càng ở những tác phẩm về sau, không gian nghệ thuật tạo cảm hứng cho nhà văn dường như đã rộng và xa hơn, thậm chí có chút “thành thị”. Thời đại mà chị đang sinh sống thật hiện đại nhưng lại gấp gáp và xô bồ, khiến nhiều lúc tưởng chừng trở nên ngột ngạt, mờ ảo, mịt mù, bó hẹp. Tất cả gói gọn trong một chữ “buồn”, nỗi buồn ấy phảng phất trong không gian như một dấu hiệu để mở ra những suy tư về con người, cuộc đời và về kiếp nhân sinh. Chính vì những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tản văn Nguyễn Ngọc Tư đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở nhiều bộ sách. Trong đó, nhất thiết phải tìm hiểu về không gian nghệ thuật trong các tác phẩm này để thấy được những đặc sắc trong không gian nghệ thuật trong tản văn văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 và giá trị của tản văn Nguyễn Ngọc Tư nói riêng. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 2
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ Khái quát về thời gian nghệ thuật Song hành cùng với không gian nghệ thuật chính là thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật cũng là một yếu tố quan trọng để góp phần tạo nên thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là một hình tượng nghệ thuật, là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ để thể hiện quan niệm về thế giới. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài ngắn khác nhau, với tốc độ nhanh chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại, quá khứ, tương lai khác nhau. Thời gian nghệ thuật mang tính hữu hạn (đặt trong sự đối sánh với thời gian vật chất trong cuộc sống). Nó xác định rõ ràng, mở đầu, kết thúc (là thời gian trần thuật). Thời gian nghệ thuật là thời gian mang tính chủ quan, phụ thuộc cảm nhận tâm lí, trạng thái, cảm xúc, tình cảm của con người. Thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời, con người. Việc tìm hiểu thời gian nghệ thuật là một trong những cách thức hữu hiệu nhất để đi vào khám phá giá trị tác phẩm bởi văn học là nghệ thuật thời gian. Tìm hiểu thời gian nghệ thật còn giúp ta nhìn thấy nhịp điệu cuộc sống mà nhà văn miêu tả. Không chỉ vậy mà nhờ tìm hiểu thời gian nghệ thuật, đọc giả còn hiểu được tâm trạng con người, tâm lí nhân vật. Thời gian tâm lí, đồng hiện trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ Như đã nói ở trên, tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ lấy bối cảnh Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ XX, khi đất nước đang bị phân chia 2 miền Nam, Bắc và chế độ Cộng hòa đang thống trị Miền Nam. Trong tác phẩm, do cách viết dòng ý thức, các tuyến thời gian chia cắt nhau như những đại lộ chằng chịt mà người đọc cảm thấy mình lạc lối trong chính câu chuyện, nỗi hoang mang của các nhân vật. Cảm thấy như mình bị ngập ngụa trong khói thuốc, men rượu để phiêu du cùng những suy tưởng bất tận của chàng thanh niên trẻ xưng “ tôi” cũng chính là người trần thuật – chứng nhân lịch sử. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 6
Không gian gia đình Tác giả còn khắc họa nên không gian trong gia đình nhân vật “tôi”. Nhờ đó, độc giả thấy được bi kịch thời đại đã bao chùm lên bi kịch gia đình, cá nhân. Trong gia đình “tôi”, bố “tôi” là một viên tướng Cộng hòa, chắc hẳn gia đình ấy được bảo vệ cẩn thận, nằm ngoài tầm ngắm của chiến tranh. Nhưng không chiến tranh đã tàn phá tất cả và đây lại là cuộc chiến tranh phi nghĩa và vô lí. Anh Ba tham gia chiến tranh như sự trốn chạy nghiệt ngã trước cái bất lực của sự phản bội, và để chứng minh sự nam tính của mình là sắt thép nhưng cuối cùng anh đã chết khi trong chiến tranh. Còn anh Tư vốn là người thông minh hoc giỏi, được hiều người quý mến, nhưng chỉ sau tình một đêm với Janis đã biến anh trở thành một con người hoàn toàn khác. “Tình yêu đã cướp đi nửa mạng sống của anh, còn nửa mạng còn lại anh đem nó cho chiến tranh… Anh không có lí tưởng cũng chẳng tham lam, anh bước vào cuộc chiến chỉ để chạy trốn cuộc đời, chạy trốn tình yêu… Anh trở về, một sự trở về còn nghiệt ngã hơn cả cái chết”, anh hóa điên dại và kết thúc cuộc đời mình trong căn phòng tăm tối, đóng kín cửa của mình. Thân thể anh mục giũa và thối nát hòa cùng mùi thức ăn hôi tanh, những con mối mọt gặm nhấm thân thể anh. Cái chết đầy đau đớn. Còn ai đau khổ và xót xa hơn người mẹ của họ, một người đàn bà phải chứng kiến hai đứa con trai của mình chết, cái chết do chiến tranh ban tặng. Nếu ở đầu tác phẩm nhân vật tôi nói “trước mặt tôi là chiến tranh, sau lưng tôi là chiến tranh, giữa chiến tranh là tình yêu”. Nhưng đến cuối tác phẩm giữa chiến tranh không còn tình yêu nữa mà thay vào đó là sự hận thù. Một mối tình ngang trái giữa con trai của ngài tướng quân Cộng hòa với My - người con gái biệt động, dũng cảm kiên cường. Hai con người thuộc hai giới tuyến khác nhau, họ yêu nhau nhưng chẳng thể đến được với nhau. “Nếu mãi mãi là xa cách Mãi mãi là ly biệt Đất nước Bắc – Nam hai bờ đoạn tuyệt … Phải chi đừng chia ly Không sông Gianh, Bến Hải Không kẻ ở người đi” Có lẽ họ sẽ yêu nhau và hạnh phúc nếu không có cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy. Khắc họa bối cảnh không gian thời chiến ấy cho ta thấy chiến tranh không mang lại cho ta những điều tốt đẹp, trái lại chỉ là sự chết chóc và hận thù. Nhân vật “tôi” một sinh viên ban Triết, sống bên lề của lịch sử, tưởng chừng chiến tranh sẽ chẳng thể làm anh ta tổn thương nhưng điều chẳng thể ngờ chính nhân vật “tôi” lại là nạn nhân chính của chiến tranh, phải sống trong sự đau đớn dằn vặt, hận thù và yêu thương, anh ta phải chạy trốn trên chính quê hương của mình. Bi kịch thời đại chẳng bỏ xót một ai, nó bao chùm cả nước, con dân vô tội hai bờ Nam – Bắc sống trong cảnh lầm than, chia ly. Qua những không gian được xây dựng, ta thấy được những bi kịch của một thời đại lịch sử được nhuộm bởi màu của máu và nước mắt. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 5
Người đọc có thể thấy được một thể chế chính trị đen tối cùng những âm mưu thủ đoạn chiến tranh bao chùm lên nền trời miền Nam Việt Nam. Vậy xã hội sẽ như thế nào, con người sẽ đi về đâu dưới bầu trời tối kịt ấy? Mở rộng ra, ta còn thấy tác giả đã dựng lên cả không gian rộng – đó là Sài Gòn trong giai đoạn này. Bằng mạch hồi tưởng đứt đoạn của mình tác giả cho chúng ta gặp lại một Sài Gòn trong những thập niên 1960. Ở phương Tây có phong trào tuổi trẻ nổi dậy hướng đến tự do tư tưởng, phong cách năng động cởi mở, cách sống thoáng hơn thật hơn, giải phóng tính dục khác hẳn lối sống Á Đông. Và thế là Sài Gòn đã trở thành “chốn tuyệt vời để hưởng thụ và sa ngã”, “hiện sinh của chủ nghĩa tràn ngập, bọn hippi vong thân”. Một Sài Gòn nông nổi, ngập ngụa trong men rượu, trong những thứ triết lý hư vô để trốn chạy thực tại đầy phũ phàm đầy mất mát. Trong không gian ấy, con người quằn quại, mất phương hướng. Họ cho rằng “Con người có quyền tranh ngôi với thượng đế, là siêu nhân bất diệt. Đám nhân quần sẽ phải phủ phục. Những dân tộc nhỏ mọn chỉ có thể suốt đời làm nô lệ sâu bọ. Cuộc cách mạng nào, không có một cuộc cách mạng nào cả, tất cả sẽ chết, chết hết, cho đến khi có một vị cứu tinh xuất hiện. Tình yêu là tôn giáo duy nhất của chúng ta. Hiện sinh đi, cởi bỏ lớp vỏ trần tục, trần trụi đi, ngập ngụa đi”. Nàng sơn ca Samartha luôn day dứt và dằn vặt với người bạn trai đã chết trận Joey, là nhân vật Khanh lúc nào cũng sẵn sàng tham dự vào một cuộc chiến chỉ để chứng minh mình đang sống, là Amelie không bao giừ thôi thoài nhớ về tình yêu với ngài họa sĩ của nàng. Dường như tất cả các nhân vật đều không phải là những con người hành động, họ luôn ám ảnh trăn trở, day dứt với quá khứ, muốn khao khát làm người cho xứng đáng, muốn được yêu thương hơn nữa là yêu thương người khác. Nhưng dường như tất cả đều vô vọng. Các câu chuyện các số phận cứ lần lượt đen xen nhau dệt thành những đoạn hồi ức miên man, dấp dính những biến động lịch sử. Chiến tranh vẫn đang diễn ra, tiếng súng, tiếng bom hòa chung tiếng người than khóc. Cái chết luôn sẵn sàng chào đón họ. Những con người hiện sinh của chủ nghĩa ngập tràn, sống không lí tưởng, không hoài bão, cũng chẳng đấu tranh. Họ đứng bên lề của lịch sử. Họ chìm đắm trong men rượu chếnh choáng hòa cùng làn khói thuốc mờ ảo hai màu đen trắng. Họ vùi mình vào những cuộc chơi, đám chơi và nhất là tình dục. Trong cái không gian ấy, tác giả đã lột tả lối sống “thoải mái” của bọn hippi: “Vâng, đời là thế! Nào chiến hữu, uống nhé, say nhé, rượu nữa nào, nhạc to lên. Ừ ta bao tất, uống hết đi rồi chết mê li. Những con đĩ ngựa, hãy chổng mông lên nào, kẻo chết mà không kịp hối. Này mấy con ngựa đực đáng thương, những chàng thủy thủ lạc lối sắp đắm tàu, giương buồm lên nào, tuốt vũ khí đi, chúng bây sẽ không giết ai được với cái của ấy cả, bây chỉ có thể làm người ta sướng thôi. Đời thì phải sướng chứ, tại sao phải kiềm hãm sự sung sướng. Nào cùng nhau ta gieo mầm sống ấy, phun nó ra khắp nhâ gian, xưng tụng tên Chúa nào, vì cái nền hòa bình chết tiệc, nào thì Amen”. Hay khi tác giả miêu tả tiếng cười lanh lảnh của Janis – người yêu anh ba “tra tấn những tâm hồn thiếu nữ non tơ, những trái tim gái già khao khát của những người làm công”, hơn thế tiếng cười ấy còn “khiến lũ gà mái sau nhà mắn đẻ hơn”. Và hơn thế là tình một đêm giũa cô gái phương Tây phóng khoảng ấy – người yêu anh Ba với anh Tư. Một mối tình đã hủy hoại hoàn toàn một trí tuệ uyên bác, một con người tài giỏi được tất cả mọi người yêu quý. Tác giả còn tập trung khắc họa mối tình giữa nhân vật “tôi” và Neige, họ yêu nhau bình thản như chẳng hề có chiến tranh. “Tôi” bình thản chải tóc cho Neige trong dinh tổng thống, mặc ngoài cánh cửa sắt của dinh phủ là một cuộc biểu tình đẫm máu, họ bình thản chải tóc cho nhau trong khi “tiếng súng xa xa, những chiếc dùi cui đánh tới tấp vào cơ thể co rút của một thanh niên, máu phun ra từ những cái đầu vỡ”… Họ lờ đi như chẳng có chiến tranh, lép mình bên lề của lịch sử, chỉ biết ăn, chơi, và làm tình. Thật khốn nạn! Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 4
Nội dung Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ Khái quát về không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới. Không gian nghệ thuật tồn tại trong thế giới nghệ thuật, tồn tại cùng các phạm trù nghệ thuật khác (quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, điểm nhìn)…. Mỗi nhà văn khi sáng tác luôn tự xây dựng một thế giới nghệ thuật riêng. Thế giới đó tồn tại hai trục: trục không gian và trục thời gian. Trong trục không gian và thời gian đó, con người được tạo nên như thế nào. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, thể hiện quan niệm về mô hình thế giới của nhà văn đó. Không gian vật lí, địa lí ở ngoài chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi thể hiện quan niệm về mô hình thế giới của nhà văn. Không gian nghệ thuật góp phần tạo dựng môi trường tinh thần cho con người hoạt động, con người được bộc lộ bản thân; thể hiện chiều kích tâm hồn của người nghệ sĩ, không gian đa chiều; và còn mang đậm tính dân tộc. Không gian xã hội Trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ, tác giả đã dựng lên câu chuyện hấp dẫn về một thời kì biến động của đất nước, viết về thời kì quá vãng của cha ông, một giai đoạn với nhiều biến cố rối ren, quá nhiều sự kiện trong suốt khoảng thời gian từ cuối những năm 1950 đến năm 1989 và tập trung vào năm 1967, trước sự kiện chiến cuộc Mậu Thân năm 1968. Tiểu thuyết xây dựng dựa trên bối cảnh lịch sử thời đại, đất nước hai miền chia cắt, theo hai thể chế chính trị khác nhau. Miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thống nhất đất nước, còn miền Nam là sự nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (Mỹ gọi là Việt cộng). Miền Nam – người anh em ruột thịt của miền Bắc dưới sự thao túng của đế quốc Mỹ đã thành lập thể chế Việt Nam Cộng hòa với Ngô Đình Diệm là tổng thống đầu tiên. Sau khi Ngô Đình Diệm bị ám sát trong cuộc đảo chính do tướng Dương Văn Minh cầm đầu năm 1963, một loạt chính quyền quân sự được thành lập nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau đó nắm quyền trong giai đoạn 1967 - 1975 với một chính quyền dân sự do người Mỹ hậu thuẫn. Trong tiểu thuyết Mộ phần phần tuổi trẻ Huỳnh Trọng Khang đã hư cấu trong chính cái lịch sử không thể xê dịch, của cái đã rồi, cái người ta đã nhúng vào và không bao giờ có thể làm lại, nhất là chiến tranh. Từ đó cho chúng ta thấy rõ bi kịch thời đại: “Những đất nước bị chia cắt, những dân tộc không có quyền định đoạt số phận của mình. Những dân tộc cô đơn chịu án lưu đày trên mặt đất. Lũ thực khách phàm ăn bội bạc ngồi đây chúng quyết định cắt đôi nó. Ai cho chúng cái quyền làm điều đó, cái quyề n phân tách, chia cắt cả một dân tộc, trao vào tay hai anh em thanh kiếm và xui họ giết hại lẫn nhau”. Huỳnh Trọng Khang đã phản ánh không gian hiện thực bối cảnh xã hội hai miền Nam – Bắc lúc bấy giờ. Mượn bối cảnh không gian ấy, tác giả cất cao nên tiếng nói của chủ nghĩa nhân đạo, lên tiếng tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ bằng câu hỏi tu từ “Ai cho chúng cái quyền làm điều đó, cái quyền phân tách, chia cắt cả một dân tộc, trao vào tay hai anh em thanh kiếm và xui họ giết hại lẫn nhau”. Tội ác kinh tởm nhất của bọn đế quốc là dùng người Việt trị người Việt. Trong mỗi trận đánh, chiến lược của chúng đều thay đổi nhưng có một điều chẳng bao giờ thay đổi là âm mưu “dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Chúng gieo giắc những âm mưu, làm nảy mầm mâu thuẫn dân tộc, anh em một nhà tương tàn lẫn nhau. Và chúng – những kẻ xâm lược chỉ việc đứng sau giật dây, ngư ông đắc lợi. Thử hỏi anh em một nhà giết hại lẫn nhau, một cuộc chiến vô nghĩa liệu có ai là không xót xa? Mở đầu tác phẩm, Huỳnh Trọng Khang đã xây dựng nên không gian một bữa tiệc của những người đứng đầu phe Cộng Hòa. Qua đó, người đọc thấy rõ được bộ mặt thể chế Việt Nam Cộng hòa. Tác giả đã khéo léo xây dựng nên bối cảnh để con trai tướng quân có cơ hội ăn tiệc với ông Diệm, ông Nhu, ông Thiệu và cả các tướng lĩnh để có thể mô tả chân tướng giớ i chóp bu Sài Gòn một thời. Cảnh mở đầu này không phải chỉ đơn giản là một bữa tiệc lớn mà “ngay cả trên bàn tiệc này, người ta cũng đang âm mưu cho một cuộc chiến tranh”. Mỗi miếng ăn đưa vào miệng nhân vật lại như mở ra một phân đoạn quá khứ hay tương lai. Những miếng ông Nhu nhai trệu trạo vì thèm thuốc là dấu hiệu của một nền chính trị sau này bị đục khoét đến mọt rỗng bởi á phiện mà nền văn minh phương Tây giáng xuống cõi Á Đông này. Không có một thứ vũ khí nào lợi hại cho bằng nó, nó mạnh mẽ công phá từ cá nhân đến gia đình, đục khoét các ngân khố đến mức trống rỗng. Hay cái thủ lợn giữa bàn là điềm báo trước cảnh hàn h quyết tổng thống và ông cố vấn ngay giữa thủ đô ngụy quyền yêu dấu của ông… Như vậy, có thể thấy, không gian là yếu tố quan trọng để con người hoạt động, bộc lộ bản thân. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 3
Tóm tắt: Vấn đề nghiên cứu thi pháp học luôn là một vấn đề được quan tâm. Chỉ có tiếp cận tác phẩm từ góc độ thi pháp học mới có thể rút ra được những kết luận về phương diện nghệ thuật của văn học, giúp ta nghiên cứu văn học với tư cách là một bộ môn nghệ thuật. Tiếp cận văn học từ góc nhìn thi pháp học còn giúp ta có sự nhìn nhận đúng đắn hơn về bản chất của văn học nghệ thuật. Nghiên cứu thi pháp cho thấy nghệ thuật không phải sự mô phỏng, bắt chước mà là sản phẩm sáng tạo, mang tính chủ quan của người nghệ sĩ. Thế giới trong tác phẩm là thế giới nghệ thuật, không đồng nhất với thế giới hiện thực, là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, có điểm tương đồng nhưng không đồng nhất, có không gian, thời gian, con người riêng. Nghiên cứu thi pháp học là đi nghiên cứu về các phạm trù như cốt truyện, kết cấu, thể loại, quan niệm về con người, không gian, thời gian nghệ thuật… trong tác phẩm. Bài viết này sẽ trình bày việc phân tích phạm trù không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ của Huỳnh Trọng Khang để từ đó thấy được mối quan hệ giữa văn chương và sự thật lịch sử, thấy được sự sáng tạo của tác giả. Mở đầu Văn học bắt nguồn từ hiện thực, tái hiện lại hiện thực. Tuy nhiên khi viết văn tác giả không thể chỉ sao chép máy móc hiện thực mà phải từ cái nền tảng ấy sáng tạo nên câu chuyện của riêng mình, dưới con mắt nhìn của mình, tạo nên nét độc đáo của cá nhân. Khi sáng tạo văn học, nhà văn có quyền hư cấu những con người, sự kiện, hoàn cảnh “ngoài sử” để khắc họa thêm chiều sâu của tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh xã hội có dung lượng hiện thực lớn, cuốn hút công chúng. Bức tranh xã hội ấy hay còn chính là một thế giới nghệ thuật mà trong đó nhà văn thỏa sức tung tẩy ngòi bút, thả sức tưởng tượng, làm nổi bật lên những mảnh đời và số phận con người. Thế giới nghệ thuật trước hết được cấu thành bởi không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Bằng những đan xen của hiện thực và quá khứ, giữa tình yêu và chiến tranh, giữa văn chương và sự thật lịch sử, tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ của tác giả Huỳnh Trọng Khang đã thành công xây dựng một thế giới nghệ thuật thú vị đưa đến cho bạn đọc góc nhìn hoàn toàn mới lạ nhưng không kém phần hấp dẫn, lôi cuốn. Viết về một quá vãng biến động, với lối viết già dặn nhuần nhuyễn bằng chính ngòi bút sắc sảo của mình, tác giả đã xây dựng nên không gian nghệ thuật cùng thời gian nghệ thuật đặc sắc dựa trên diễn biến của những sự kiện lịch sử, thời đại xã hội lúc bấy giờ. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 2
Dấu hiệu thời gian trong bức tranh “Chợ Tết” Dấu hiệu thời gian mà chúng ta có thể nhận diện đầu tiên khi đọc tác phẩm được thể hiện qua nhan đề “Chợ Tết”. Bản thân “Tết” đã là một dấu hiệu thời gian, Tết chính là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, là dấu mốc đánh dấu kết thúc một năm và là thời điểm để đón chào một năm mới mang theo nhiều niềm tin và hi vọng. Tết chính là niềm vui, sự gặp gỡ, đoàn tụ của mọi gia đình, sự tấp nập của phiên chợ cũng chính là muốn có những thứ đủ đầy nhất cho năm mới, chính sự lo toan của những ngày giáp Tết đã tạo nên cái không khi hối hả, tấp nập của nhà nhà, người người trong phiên chợ. Dấu hiệu thời gian thứ hai được thể hiện qua các tín hiệu nhận diện thời gian từ sáng tinh sương của thiên nhiên trước khi phiên chợ bắt đầu rồi đến sự tấp nập ồn ào của phiên chợ với các hoạt động mua, bán của con gười từ già tới trẻ, từ các cô yếm thắm đến các em nhỏ “nép đầu bên yếm mẹ” và kết thúc bằng tiếng chuông chùa buổi tối vang xa gọi những người đi chợ trở về sau một ngày chuẩn bị cho Tết. Dấu hiệu thười gian trong tác phẩm còn được thể hiện qua hình ảnh “Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ/Nước thời gian gội tóc trắng phau phau”. Dấu ấn của thời gian được thể hiện qua mái tóc trắng phau của bà cụ, có thể hiểu, thười gian tuyến tính được thể hiện qua mái tóc của bài cụ, bà cụ trong những năm tháng của tuổi trẻ có lẽ cũng giống như những đứa trẻ cũng “lon xon” theo mẹ đi chợ Tết rồi qua thời gian, khi tóc đã “trắng phau phau” bà cụ lúc này đang ngồi bán hàng bên “miếu cổ”, “miếu cổ” được đặt cạnh hình ảnh “bà cụ” càng làm cho dấu ấn thời gian được thể hiện rõ ràng hơn – sự phôi phai theo năm tháng của cả người và vật. “Miếu cổ” và “bà cụ” chính là chứng nhân của thời gian, làm nổi bật thêm cái không gian của phiên chợ xưa. Kết luận Đoàn Văn Cừ đã thành công trong việc khắc họa không gian và thời gian một cách đặc sắc. Bức tranh chợ Tết hiện lên trong khung cảnh nhộn nhịp, cui tươi đi kèm với đó là sự hối hả của dòng người. Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ mang màu sắc đặc trưng riêng của Tết từ màu sắc đến đồ vật dùng để cúng được bày bán trong chợ. Qua phiên chợ ta có thể thấy được màu sắc thời đại, màu sắc của quê hương xứ sở qua một bức tranh rất đỗi thân quyen của ngày Tết những năm tháng cũ. Với Chợ Tết Đoàn Văn Cừ đã xây dựng thành công không gian của phiên chợ quê với sự tấp nập nhộn nhịp những ngày chuẩn bị cho Tết. Đó là nét hồn nhiên và bộn bề nhưng lại đậm chất giản dị của cuộc sống. Với thơ ông ta cảm nhận được con người là trung tâm của mỗi khổ thơ và chính thời gian đã làm cho tác phẩm này thấm đượm một nền tảng văn hóa sâu xa. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Chợ Tết phần 1
Không gian của phiên Chợ Tết “Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa […] Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.” Thời khắc bình minh lên cũng là lúc báo hiệu một ngày mới đã đến và cũng là nơi xuất hiện sự nhộn nhịp của phiên “Chợ Tết” mang đậm dấu ấn xưa. Trong không gian thiên nhiên sáng mai vô cùng tinh khôi ấy ta bắt gặp được hình ảnh của những con người đi chợ với sự háo hức, vui tươi. Có thể nói đi “Chợ Tết” cũng giống như đi trẩy hội. Không gian nhộn nhịp vui tươi được tô điểm bằng những tiếng cười, tiếng nói của những con người đi “Chợ Tết”, qua hình ảnh “người các ấp tưng bừng ra chợ Tết”. Khung cảnh người người chuẩn bị cho phiên chợ diễn ra tấp nập, nhộn nhịp với sự tham gia của các độ tuổi “thằng cu, cụ già, cô yếm thắm, thằng em bé, người gánh lợn..”. Đối tượng soi chiếu của phiên “Chợ Tết” được thể hiện qua hình ảnh con người kết hợp với hoạt động như “vui vẻ kéo hàng, chạy lon xon, bước lom khom, che môi cười, chạy đi đầu, đuổi theo sau,..” Không gian của phiên chợ được thể hiện qua màu sắc điển hình, màu sắc đặc trưng mà mỗi khi Tết đến không thể thiếu- màu đỏ. Tết đến, nhà nhà người người đều ưa chuộng sắc đỏ bởi đã từ lâu, trong tâm thức của người Việt, màu đỏ luôn mang một ý nghĩ đó là màu sắc của may mắn, của tài lộc, của tình yêu đủ đầy và hạnh phúc. Việc sử dụng màu đỏ hay các màu sắc tươi sáng phù hợp với không khí của Tết và làm cho không khí của Tết trở nên vui tươi hơn. Không khí đặc trưng của phiên chợ quê xưa còn được nhận diện qua sự hối hả, vội vàng của người người đi sắm Tết, nhà nhà đi sắm Tết “Người mua bán ra vào đầy cổng chợ”, bức tranh không khí ngày Tết ngoài sự hối hả vội vàng còn được nhận diện qua “giấy nghiên, bút đỏ, thơ xuân, hàng tranh, vàng mã, bánh pháo, mẹt cam, gạo nếp, gà trống…” những đặc trưng không chỉ Tết xưa mà đến ngày nay cái không khí ấy vẫn còn được lưu giữ. Mỗi người trong phiên chợ ấy đảm nhận một công việc khác nhau và đều được Đoàn Văn Cừ miêu tả với các dáng vẻ riêng. Đó chính là con người bình dị, hiền lành, chân thành và vô cùng sinh động. Không gian kết thúc phiên chợ “Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm […] Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ” Chợ phiên kết thúc khi chuông chùa đã văng vẳng vang lên, tiếng chuông tối từng tiếng kêu vang như nhắc nhở mọi người trở về sau một ngày dài, không gian cuối ngày được thể hiện qua hình ảnh người người lũ lượt ra về trên con đường nhỏ viền quanh mép đồi, ánh dương lúc này đã không còn rực rỡ, không còn mang màu sắc vui tươi sống động mà thay vòa đó là ánh dương vàng của hoàn hôn từng vệt dài kéo lê trên cỏ, chợ tàn, người về hết đem theo sự tấp nập vui nhộn trở về, phiên chợ quê trở lại không khí vốn thuộc về nó, lặng yên với lá đa rụng tơi bời. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Chợ Tết phần 4
Không gian nghệ thuật trong bài thơ Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ Không gian thiên nhiên “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, […] Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.” Ngày từ đầu tác phẩm, không gian của một phiên chợ miền quê xưa được mở ra với những hình ảnh thiên nhiên đầy màu sắc và sống động. Ta bắt gặp khung cảnh của một buổi sáng tinh sương với ánh bình minh chiếu sáng rạng ngời, cả ngôi làng như chìm trong sự thanh khiết của tạo hóa. Không gian được thể hiện qua hệ thống hình ảnh vô cùng tinh tế với “dải mây trắng” đang dần dần chuyển sang màu đỏ hồng khi được ánh sáng của mặt trời chiếu vào, nắng lên cũng khiến cho những “giọt sương” rơi xuống mái nhà tranh mang ánh “hồng lam”, không gian chuyển đổi từ cao đến thấp, từ những tầng mây, những giọt sương rồi thu lại trong tầm mắt đó là những con đường chay xung quanh mép đồi. Không gian thiên nhiên còn được thể hiện qua hình ảnh “sương trắng rỏ đầu cành”, những đám mây vẩn hồng đã nhường chỗ cho những tia nắng nhảy múa trên cánh đồng lúa, núi non chập trùng uốn mình nhấp nhô trong màu “áo the xanh”, đồi thì mang sắc đỏ cam dưới ánh bình minh. Tất cả những hình ảnh thiên nhiên được nhà thơ sử dụng đều có tác dụng mở ra một không gian yên bình của một làng quê ven lưng núi với những đặc trưng không thể nhầm lẫn với bất kì nơi đâu. Buổi sáng khi mặt trời lên, từng lớp sương mờ giăng phủ kín trên những mái nhà tranh cứ như thể ôm lấy, quấn lấy mái nhà rồi để trở về không gian gần hơn lại tụ thành những giọt sương trắng nhỏ trên đầu cành, nắng lên cao, sương trút xuống, những tia nắng len lỏi qua từng đám mây soi sáng mọi vật làm nổi bật không gian của buổi sáng ở làng quê thật yên bình và sống động với những sắc màu. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Chợ Tết phần 3
Tóm tắt Bài nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu không gian nghệ thuật trong tác phẩm “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ. Bài viết triển khai tìm hiểu các không gian nghệ thuật xuất hiện trong bài thơ gồm có không gian thiên nhiên, không gian của phiên Chợ Tết xưa và không gian khi kết thúc phiên chợ. Từ không gian nghệ thuật chỉ ra môi quan hệ giữa không gian và thời gian được thể hiện qua tác phẩm. Từ khóa: Đoàn Văn Cừ, Chợ Tết, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật. Mở đầu Tác phẩm văn chương được xem là một sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Với mỗi tác phẩm của mình, tác giả sẽ để lại những dấu ấn cá nhân riêng mang đậm phong cách của bản thân. Tác phẩm văn chương có thể được coi là những đứa con tinh thần đại diện cho nhà văn để từ đó nói lên tư tưởng về nghệ thuật, về cuộc đời bởi “Văn học là nhân học” và nhà văn có thể phản ánh hiện thực xã hội, thể hiện tình yêu thương hay ca ngợi những điều tốt đẹp trong cuộc sống qua những đứa con của mình. Cũng chính vì vậy mà ngôn ngữ hay cách xây dựng phương diện nghệ thuật trong một tác phẩm văn chương thường được chọn lọc, trau chuốt rất kĩ lưỡng và khắt khe. Khi khai thác một tác phẩm văn chương không nhất thiết phải thể hiện rõ nét hết tất cả các phương diện nghệ thuật. Mà tùy vào mỗi tác phẩm sẽ có cách thể hiện nghệ thuật khác nhau và có một vài phương diện nghệ thuật chính. Trong bài nghiên cứu này chúng tôi sẽ tập trung đi vào nghiên cứu phương diện không gian nghệ thuật qua góc nhìn thi pháp để làm rõ không gian nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ. Nội dung Không gian nghệ thuật Trong Một số vấn đề thi pháp học hiện đại giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn.” Trong quyển Thi pháp học, tiến sĩ Phạm Ngọc Hiền cho rằng: “Không gian nghệ thuật là không gian phi hiện thực, không thể đo đếm chính xác được, tồn tại trong cảm nhận chủ quan. Không gian nghệ thuật là loại không gian cảm tính thể hiện cách nhìn, cách cảm nhận độc đáo của tác giả.” Từ những khái niệm, quan điểm, cách nhìn về không gian nghệ thuật trên, có thể nhận xét chung rằng: Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật góp phần xây dựng môi trường tinh thần cho con người hoạt động và bộc lộ bản chất. Đồng thời góp phần thể hiện chiều kích tâm hồn của người nghệ sĩ với xu hướng giải phóng bản thân ra khỏi chật chội của cuộc sống hằng ngày để hướng tới không gian cao rộng hơn. Với mỗi nhà thơ, không gian nghệ thuật đều mang đậm dấu ấn cá nhân, dấu ấn dân tộc và màu sắc thời đại. Nhà thơ nào cũng cắm rễ sâu vào mảnh đất quê hương của anh ta, màu sắc thời đại thể hiện rõ qua từng thời kì chiến tranh hay hòa bình. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Chợ Tết phần 2
Đặt vấn đề Thi pháp học từ lâu đã được coi là một trong những bộ môn khoa học quan trọng, được nhiều người vận dụng để khám phá, phân tích, khai thác văn bản văn học. Đặc biệt, khi chương trình dạy học phổ thông đang trong quá trình đổi mới, năng lực người học được đề cao, việc áp dụng Thi pháp học vào giảng dạy bộ môn Ngữ Văn lại càng cần thiết. Trong chương trình giáo dục phổ thông, các tác phẩm văn học nước ngoài luôn là một trong những thể loại khá khó tiếp cận đối với không chỉ người học mà còn cả với người dạy. Sự khác biệt về văn hóa, lối sống, đặc điểm tính cách, thế giới quan,… khiến người học khó mà cảm nhận được hết giá trị của tác phẩm. Với việc áp dụng Thi pháp học vào giảng dạy các tác phẩm văn học nước ngoài, người dạy sẽ loại bỏ được những yếu tố khác biệt giữa các nền văn hóa. Đồng thời, tập trung vào yếu tố hình thức bên ngoài. Điều này không chỉ giúp người học dễ dàng đi sâu tìm hiểu tác phẩm mà còn khiến việc giảng dạy, định hướng của giáo viên trở nên gần gũi, dễ tiếp cận hơn. Với chủ đề “Quyền năng của người kể chuyện” trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 10, học kì II, bộ Kết nối tri thức và cuộc sống, bài viết này sẽ chủ yếu đi sâu vào việc vận dụng thi pháp học để hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (Trích “Những người khốn khổ” - Victor Hugo). Trong giới hạn bài làm, người viết sẽ tập trung vào phần Đọc - Hiểu tác phẩm để giúp người đọc thấy rõ hơn cách áp dụng Thi pháp học để dạy một tác phẩm trong chương trình phổ thông. Nội dung chính Tìm hiểu tác giả, tác phẩm Tác giả: - Victor Hugo là lãnh tụ của phái lãng mạn, theo chủ nghĩa lãn mạn tích cực. - Chủ nghĩa lãng mạn của Hugo gắn liền với hiện thực. Tác phẩm: * Tiểu thuyết “Những người khốn khổ”: - Thể loại: Tiểu thuyết lãng mạn: + Không bị giới hạn về dung lượng. + Có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hướng tiếp cận cả bề rộng và bề sâu. => Nhìn cuộc sống theo cảm hứng đời tư. - Ngôi kể: + Ngôi kể thứ ba. + Người kể toàn tri. => Mang đến cái nhìn khách quan, dễ dàng đi sâu vào nội tâm nhân vật. * Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”: Được rút ra từ chương 4, quyển 8, phần thứ nhất của tiểu thuyết “Những người khốn khổ”. Phân tích văn bản “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”: Bối cảnh: Không gian: Tại bệnh xá -> Không gian hẹp, ngột ngạt. Thời gian: Khi Phăng-tin đang nóng lòng chờ đợi đứa con gái thân yêu. Nhân vật Giăng Van-giăng: Lai lịch, xuất thân: - Vì nghèo nên phải đi ăn trộm. - Phải chịu cảnh tù đày suốt 19 năm. => Hoàn cảnh khốn khó, đọa đày. - Được thức tỉnh bởi lòng tốt, sự vị tha của giám mục Mi-ri-en -> Quyết tâm trở thành người tốt. => Con người đi lên từ bùn lầy, khổ đau. => Con người nếm trải. Con người, tính cách: Con người của tình yêu thương và trách nhiệm: - Lời nói, thái độ với Phăng-tin: Nhẹ nhàng, vỗ về. - Hành động: + Đứng ra đầu thú để cứu một người vô tội -> Sẵn sàng từ bỏ cuộc sống mới ổn định vì người khác. + Hứa tìm lại con gái cho Phăng-tin. + An ủi Phăng-tin khi cô hoảng sợ trước Gia- ve. + Ngồi lặng người nhìn xác của Phăng-tin. + Ghé lại, thì thầm vào tai Phăng-tin. + Chỉnh chu lại trang phục, vén gọn tóc, vuốt mắt cho Phăng-tin. + Khẽ nâng tay Phăng-tin lên, đặt lên đó một cái hôn. => Thể hiện sự yêu thương, trân trọng dành cho một mảnh đời bất hạnh. => Chất nhân văn trong một con người khốn khổ. b, Con người dũng cảm: - Thái độ, hành động với Gia-ve lúc ban đầu: + “Cúi đầu” khi bị Gia-ve nắm cổ áo. + “Không giằng tay ra”, chỉ “hạ giọng” cầu xin thêm ba ngày để tìm con gái cho Phăng-tin. => Điềm tĩnh, từ tốn, nhún nhường. - Thái độ, hành động với Gia-ve sau cái chết của Phăng-tin: + “Gỡ tay hắn ra như gỡ bàn tay trẻ con”. + “Giăng Van-giăng đến bên giường, […] đừng quấy rầy tôi lúc này””. + Sau khi chỉnh chu lại cho Phăng-tin, ông “đứng dậy, quay về phía Gia-ve: “Giờ anh muốn làm gì thì làm””. => Quyền uy, mạnh mẽ, quyết liệt. Kết luận: Thái độ, hành động của Giăng Van- giăng đối lập hoàn toàn với Gia-ve. Nhân vật Gia-ve: Ngoại hình, công việc: - Ngoại hình được miêu tả như một con ác thú. - Công việc: Một thanh tra -> Đại diện cho pháp luật, sự công bằng. Con người độc ác, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại: - Lời nói: + Xưng: “tao”, “ta”; gọi Giăng Van-giăng là “mày”, “thằng”. -> Thái độ kiêu ngạo, ngông cuồng, hạ thấp người khác. + “Gia-ve không nói “Mau lên!”, hắn nói “Mau-u lêênh!”. Không có vần nào ghì nổi giọng nói của hắn. Không phải là tiếng người nói mà là tiếng ác thú gầm”. + “… hét lên”. + “Gọi ta là ông thanh tra”. + “Nói to, nói to lên! Ai nói gì với ta là phải nói to!”; “Tao bảo mày nói to lên cơ mà”. -> Thái độ điên cuồng, man rợ. - Hành động: + “Hắn không làm như thường lệ. […] móc vào người Giăng Van-giăng”. + “phá lên cười”, “quát”, “giậm chân”, “nhìn Phăng-tin trừng trừng, túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng Van-giăng”, “phát khùng lên”,… => Hành động điên cuồng như một con thú dữ. Kết luận: Sự đối lập giữa công việc, nghĩa vụ, tính chất của một con người thực thi pháp luật Tổng kết: Tác phẩm thành công khắc họa hai nhân vật trái ngược nhau: Giăng Van-giăng và Gia-ve. => Tạo sự xung đột giàu kịch tính. với hành động của một kẻ độc ác, điên cuồng. Tổng kết Có thể khẳng định việc áp dụng Thi pháp học vào dạy học các tác phẩm trong chương trình phổ thông là vô cùng có giá trị. Không chỉ riêng với văn học nước ngoài, ta còn có thể vận dụng nó để phân tích, giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam. Điều này không chỉ giúp bản thân người dạy nắm rõ tổng quan chủ đề học mà còn khiến bài giảng trở nên thực tế, khoa học và gần gũi hơn với người tiếp nhận. Đồng thời, nâng cao khả năng phát triển năng lực người học.
Có lúc không gian tâm linh lại hoà vào không gian thực khiến người đọc tin vào những gì đang diễn ra. Đó là không gian gò Thuồng Luồng với hình ảnh về cái nộm rơm chứa hồn cốt người con gái đầy thần bí của Tào khiến Sao vẫn tin mình chính là con Thuồng Luồng trong lời nguyền đi cùng chiếc nộm rơm. Và ngay trong không gian Sao về nhà chồng sau li hôn cũng nhuốm màu sắc tâm linh huyền ảo. Đó là không gian bến nước vào lúc cuối ngày với “sương mù bay dầy trên mặt nước” chỉ có duy nhất một cái thuyền buôn đỏ lửa nấu ăn tối, đậu dềnh dàng sát bờ chở rất nhiều chã đất nung và liễn sành màu da lươn xếp đầy khoang thuyền buôn. Đò cuối ngày chỉ có cô lái đò và Sao. Nhưng chuyến đò ấy lại trải qua rất nhiều cản trở bởi những bè chuối ở đâu đó trôi về bến đông lắm. Hình ảnh những bè chuối trôi dạt về bến gợi liên tưởng đến hình ảnh những cái bè chuối chở thai dị dạng bị người làng thả trôi. Vậy đâu chỉ có nỗi đau của Sao mà còn có biết bao nỗi đau của những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Nỗi đau chiến tranh chưa kịp nguôi mà nỗi đau hậu chiến tranh lại ập đến. Dù cô lái đò khuyên nhủ: “Không cập bến này được đâu! Quay lại thôi. Hay là cập bến khác, chị nhá” nhưng Sao vẫn quả quyết: “Cô gái ơi! Bến này đã chót sang thì sang đến cùng”. Đó là hình ảnh của những con người can đảm biết đối diện với sự khốc liệt, đau đớn, mất mát của chiến tranh dẫu họ biết nó vô cùng dai dẳng. Đò cập bến nhưng cái mà Sao luôn thấy trong mắt mình đó là hình ảnh của “chiếc thuyền buôn chở chã đất nung và liễn sành màu da lươn, lửa vẫn lập loè sáng đỏ”. Hình ảnh đó đặt ra vấn đề về nỗi đau thương về số phận, cuộc đời của những con người thời hậu chiến đặc biệt là nỗi đau của những người phụ nữ. Họ có khả năng sinh con nhưng lại không có được những đứa con cho mình, bị hiểu lầm, dèm pha và lạnh nhạt. Kết luận Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn “Mười ba bến nước” không chỉ là không gian cụ thể nhỏ hẹp gắn với cuộc sống thường ngày của con người làng Yên Hạ và cuộc sống của nhân vật Sao mà còn mang tính biểu tượng cho cuộc sống của biết bao con người thời hậu chiến đặc biệt là những người phụ nữ. Họ phải đối mặt với những hậu quả tàn khốc và dai dẳng từ chất độc màu da cam do chiến tranh để lại. Nhưng không vì thế mà những con người ấy mất đi sự nghị lực phi thường và và tấm lòng bao dung. Họ đã biết vượt qua cái ranh giới của những dị nghị, định kiến để chia sẻ, cảm thông với nhau. Đồng thời, ta cũng thấy được khát vọng được thấu hiểu, được nhìn nhận đúng đắn về hậu quả của chiến tranh. Giữa cái rất thực của không gian đời sống là sự đan bện của các yếu tố huyền ảo có phần tâm linh. Nó như một phương tiện để nhà văn gửi gắm những triết lí và lí giải những ẩn ức của nhân vật. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mười ba bến nước phần 1
Không gian huyền ảo có tính tâm linh trong “Mười ba bến nước” Trong sáng tác của mình, nhà văn Sương Nguyệt Minh không chỉ tập trung khắc hoạ không gian hiện thực đời sống con người mà nhà văn còn xây dựng lên những không gian huyền ảo mang tính tâm linh. Hai không gian ấy có lúc được phân biệt rõ ràng nhưng có lúc nó đan xen lẫn nhau. Không gian huyền ảo thường gắn với thời gian về đêm cùng với hình ảnh của ánh trăng hoặc xuất hiện trong giấc mơ của nhân vật Sao. Không gian huyền ảo được nhà văn dựng lên nhằm gửi gắm triết lí của cuộc sống, giải toả những ẩn ức của nhân vật. Không gian huyền ảo gắn với những câu chuyện huyền thoại về hình ảnh con thuồng luồng xuất hiện trong tuổi thơ và giấc mơ của nhân vật Sao nơi bến sông. Từ khi sống sót qua cơn lũ khủng khiếp, Sao luôn nghĩ rằng mình đã được Thuồng Luồng dưới sông cứu sống. Rồi qua câu chuyện của dân gian kể lại “vào một đêm trăng”, “sương mù bay la đà mặt sông”, “sóng óc ách vỗ vào hang núi”. “Thằng ăn trộm người làng Yên Hạ về khuya, đò nghỉ. Chỉ gặp duy nhất chiếc thuyền đánh cá đêm chở đầy sương mù chui từ trong hang nước ra, lướt nhẹ đến”. Hắn được cô gái chở qua sông nhưng lại định dở trò đồi bại với cô gái. Nhưng hắn hoảng hốt “nhận ra cô gái chỉ có phần ngực trở lên là giống người, còn thân mình rắn, bàn chân tay nhái có màng”. Hoảng quá, hắn biết vừa chạm phải con Thuồng Luồng. Thuồng Luồng và bến nước như làn sương mù huyền thoại, bí ẩn vô cùng với tuổi thơ của Sao. Không gian huyền ảo còn được khắc hoạ trong giấc mơ của nhân vật Sao cũng gắn liền với hình ảnh con thuồng luồng. Sao mơ về không gian đồng ruộng nơi đã hạ sinh đứa con đầu lòng. Ở đó có đám thợ gặt đội nón mê, ngồi bệt xuống cỏ hút thuốc lào chờ cho cái thai nhi hết ngáp để bỏ vào cái liễn sành màu da lươn, đậy nắp đem đến gò Mã Giáng chôn. Lại có đêm Sao mơ thấy những cái thai ấy được bỏ trên bè chuối thả trôi ở bến nước sông Hoàng Long. Không gian bến sông có con Thuồng Luồng tóc đen dài xoã sượi, vai trần trắng, vú căng mẩy như vú con gái, nhưng mình rắn, bàn chân tay nhái có màn g mỏng bơi đến đẩy bè chuối vào bờ. Rồi những lần đi kéo vó tôm cùng chồng nơi bến sông, cô cũng mơ thấy một không gian có màu trăng bàng bạc, sương giăng mờ ảo. Cùng với đó là anh Tào đào ngũ đang đặt những hài nhi đỏ hon hỏn lên mấy cái bè chuối và dùng tay đẩy ra xa bờ. Các bè chuối quay tròn, nhẩn nha trôi... Rồi chị Sao nhảy ùm xuống nước, chìm ngỉm. Khi các vòng sóng lặng, bất chợt Thuồn g Luồng nhô lên, tóc dài đen, vai vú con gái, nhưng mình rắn. Nó đột ngột quẫy lộn đầu xuống, hai bàn chân nhái có màng giơ khỏi mặt nước. Lại ngoi lên. Con Thuồng Luồng bơi, đẩy bè chuối vào bờ... Hoảng quá, Sao căng mắt nhìn, không thấy anh Tào nữa. Mấy cái bè chuối cũng biến mất. Chỉ thấy đàn vịt trời lông trắng bay vọt lên, kêu váng mặt sông. Không gian giấc mơ với hình ảnh thuồng luồng đẩy bè chuối có cái thai của Sao vào bờ trở đi trở lại trong những không gian hư ảo nhuốm màu tâm linh. Tất cả mọi người dân làng Yên Hạ không một ai chấp nhận những cái thai dị dạng đổ lỗi cho Sao. Họ coi đó như điềm gở, ma quái nên thả nó trôi theo dòng nước mặc kệ sống chết. Bởi thế hình ảnh thuồng luồng như một biểu tượng của sự thấu hiểu, cảm thông chia sẻ. Đó là hình ảnh xuất hiện như để giải toả những ẩn ức về cuộc đời của nhân vật Sao: không sự thấu hiểu, bị người đời đối xử bạc bẽo và oan ức không thể hoá giải. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mười ba bến nước phần 6
Tác giả cũng tập trung khắc hoạ không gian ruộng đồng cuối mùa gặt với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, bình dị, yên ả đến lạ lùng “cào cào, muồm muỗm dồn đến đám lúa cuối cùng” nhiều lắm, “thợ gặt bỏ liềm hái vồ tới tấp”. Sau bao năm chiến tranh tàn khốc, làng Yên Hạ mới có những ngày tháng yên bình đến thế. Nhưng đối lập với vẻ yên bình ấy lại là nỗi đau đớn đến tột cùng của nhân vật Sao. Chính tại “bờ ruộng ẩm ướt, ngổn ngang lúa tươi và cuống dạ vừa cắt” Sao đã hạ sinh đứa con đầu lòng. Đối với một người mẹ đó là giây phút hạnh phúc. Nhưng đối với cô là nỗi đau đớn và ám ảnh đến cùng cực. Cô hạ sinh “một cục thịt đỏ hỏn chỉ có cái miệng tròn tối om, há ra ngậm vào như cá mắc cạn ngáp lúc sắp chết”. Người ta bàn ngay đến chuyện đem nó chôn ở gò Mã Giáng hay thả bè chuối trôi sông. Họ cho đó là lỗi của Sao thậm chí xa lánh, ghẻ lạnh. Những đứa con dị dạng ấy đâu phải là lỗi của Sao như người ta vẫn nghĩ, vẫn thấy mà lỗi chính là nằm ở kẻ thù. Sự dị dạng của bào thai là hệ quả khủng khiếp của chất độc màu da cam mà chồng của cô đã phải hứng chịu từ cuộc tranh. Bến nước thứ mười ba là không gian đầy xót xa, cay đắng. Lẽ ra cuộc đời người phụ nữ chỉ truân chuyên mười hai bến nước; nhưng người phụ nữ của thời hậu chiến lại phải bị xô dạt, trôi nổi thêm một bến nước nữa - bến thứ mười ba. Bến làm vợ đợi chờ chồng ra trận nơi hòn tên mũi đạn, mòn mỏi trong chiến tranh mà không được làm mẹ. Cái đau đớn, tê tái ở bến mười ba này là người vợ không phải vô sinh để làm gái tân vĩnh viễn, cô vẫn hữu sinh mà không một lần làm mẹ… Những lần sinh nở ra quái thai, quái thai bị trôi sông biệt tích; nhưng người đàn bà còn đó phải gánh lấy nỗi đau danh dự như chính tâm hồn mình bị tật nguyền. Bên cạnh không gian tự nhiên, sinh hoạt của làng Yên Hạ, tác giả cũng tập trung khắc hoạ không gian nhỏ hẹp của căn buồng nhà chồng mà Sao ở. Cô Sao lấy anh Lãng hôm trước thì hôm sau anh phải ra chiến trận. Không gian riêng tư nhỏ bé gắn với những ngày tháng sống trong cô đơn, vò võ chờ chồng. Cô “nằm một mình ôm gối, nhớ chồng, trằn trọc chờ sáng” rồi lôi cái áo cũ bạc màu của chồng ra ấp vào mặt nhưng nỗi nhớ càng nôn nao, da diết hơn. Sương Nguyệt Minh không hề che giấu những cảm xúc riêng tư thầm kín thậm chí là cả cảm xúc ái ân của vọ chồng, trai gái – điều mà trước đây không bao giờ người ta nói đến trong thời kì chiến tranh. Không gian nhớ nhung của Sao tràn ngập những khao khát ái ân. Sao thấy vô cùng “khốn khổ” nhất là mấy ngày áp kỳ kiêng kị sử dụng sô màn của đàn bà”, “hai bầu vú cứng nhưng nhức”, “nhũ hoa sân lại”, “má đỏ hồng tươi tắn”, “mắt long lanh”, “lúc nào cũng chỉ mong chồng về”. Không gian nhỏ hẹp gắn với những khao khát rất thực của Sao. Nó như một tiếng nói chân thực mà tàn nhẫn về những gì mà chiến tranh mang lại. Tác giả đã nói đến cái khát vọng của những người vợ có chồng đi chiến đấu đến độ chân thực nhất. Nếu không có sự cảm thông, thấu hiểu và trân trọng thì tác giả không thể thấy được cái khao khát mãnh liệt của Sao. Không gian thực trong truyện ngắn là không gian của những khát khao hạnh phúc và của những cay đắng, xót xa của người phụ nữ thời kì chiến tranh và hậu chiến tranh. Người phụ nữ vừa có những cái truyền thống nhưng cũng rất mạnh bạo và hiện đại. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mười ba bến nước phần 5
Không gian thực trong truyện ngắn “Mười ba bến nước” Không gian thực trong tác phẩm chính là không gian tự nhiên, đời sống sinh hoạt của làng Yên Hạ nơi có dòng sông Hoàng Long chảy qua và không gian gia đình của nhân vật Sao. Không gian ấy được tái hiện qua hồi tưởng của chính nhân vật này ở những thời điểm khác nhau, vị trí khác nhau. Đầu tiên, đó là không gian tự nhiên gắn với hình ảnh dòng sông Hoàng Long vào mùa lũ trong kí ức của Sao. Trời không mưa nhưng nước từ thượng nguồn đổ về khiến lũ dâng cao đầy dữ dằn “nước cuốn rều rác, cành tươi, củi khô... cuồn cuộn”. Đê sông Hoàng Long vỡ “nước réo ồ ồ”, “chó tru”, “gà quác”, “trâu, bò phá gióng”, “dê phá chuồng kêu khản giọng”, “dân kinh hoàng, nháo nhác chạy lụt như chạy loạn”. Sao kịp trèo lên cây đa đầu làng nhưng cuối cùng cũng bị lũ cuốn trôi, dạt vào gò Thuồng Luồng và nằm trơ trơ ở đó. Mẹ Sao cho rằng chính con thuồng luồng dưới sông Hoàng Long đã vớt Sao ở bến nước đưa lên đây. Đó cũng là không gian mang nỗi ám ảnh trong tâm hồn nhân vật trong suốt quãng đời còn lại. Đó còn là không gian bến nước làng Yên Hạ. Nó không chỉ gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đây mà còn gắn chặt với những bước ngoặt trong cuộc đời của Sao. Bến nước ấy là không gian chứng kiến cuộc đời, số phận nghiệt ngã và khốn nạn của chính nhân vật. Bước ngoặt đầu tiên gắn với không gian này chính là việc Sao trở thành vợ anh Lãng – bộ đội thời chiến. Sao được rước về nhà chồng bằng chiếc thuyền đi qua bến nước làng Yên Hạ. Cũng chính tại bến sông này, cô đã lấy nậm nước đem về rửa chân cho mẹ chồng để mong mẹ con hoà thuận bớt xung khắc. Thuyền cập bến cũng chính là lúc Sao cảm thấy băn khoăn: “Người ta hay ví bến đời với bến nước. Con gái mười hai bến nước. Lúc ấy, tôi chẳng biết mình đang ở bến thứ bao nhiêu”. Phải chăng đó là dự cảm về số phận, cuộc đời đầy vô định của chính nhân vật. Không gian bến sông cũng đã chứng kiến bước ngoặt thứ hai trong cuộc đời của Sao. Sông Hoàng Long qua làng Yên Hạ chia thành hai bến tắm. “Bến tắm đàn bà phía đầu nguồn, bến tắm đàn ông ở phía hạ nguồn, cách nhau vài trăm bước”. Trong một lần tắm ở bến sông, Sao không may bị chuột rút. Anh Tào – người từng yêu Sao lại vô tình đi ngang qua thấy vậy liền xuống cứu. Đúng lúc đó, ông xã đội và hai dân quân bắt gặp. Hai người rơi vào tình cảnh đầy trớ trêu “tình ngay lí gian”. Cô bị người làng dè bỉu cho là loại người trăng gió “bạc tình”. Nước sông dù nhiều nhưng sao rửa hết được những lời đồn đại đầy cay nghiệt của thiên hạ. Bởi thế với Sao, cô điều cô lo sợ nhất chính là anh Lãng đi đánh giặc không về. Bởi cô vừa mất chồng lại chẳng có người minh oan cho mình. Và cuối cùng, ngày anh Lãng trở về cũng là ngày Sao được minh oan, lấy lại được tấm lòng trong sạch của mình. Cay đắng, xót xa hơn cả, bến sông ấy cũng là nơi Sao quyết định ra đi. Sau năm lần sinh nở với những hình hài dị dạng và trước sự cầu xin của mẹ chồng, cô chấp nhận cưới vợ mới cho chồng. Lúc chồng cô vào phòng hạnh phúc là lúc cô ôm túi đồ, chạy cùn cụt ra bến nước, ới đò sang sông về nhà mẹ. Đó là không gian bến đời đục ngàu đầy cay đắng mà cô phải chịu đựng. Sao đã đi qua bến nước thứ mười hai của mình trong nỗi niềm tủi cực, chua chát và buồn thương. Không gian bến nước cũng là nơi chứng kiến một quyết định táo bạo nhưng đầy nhân hậu của Sao. Khi nghe anh Tào kể lại câu chuyện về người vợ mới của chồng cũng sinh con bị dị tật. Cô vợ mới không chịu được cũng bỏ đi. Mẹ chồng thì đau ốm còn chồng cô thì lặng thầm chịu đựng. Thế là Sao quyết định qua nốt bến thứ mười ba – quay trở về nhà chồng sau li hôn. Không phải cô là người sống cam chịu, nhẫn nhục mà là một người đầy tình thương và tinh thần trách nhiệm với gia đình chồng. Bởi cô ý thức được mẹ chồng và chồng đang cần cô và hai vợ chồng cũng đang rất cần nhau. Không gian ngày trở về, ngày quyết định bước chân đến bến thứ mười ba là một không gian đặc biệt. Một không gian đầy “sương mù đã bay dầy trên mặt nước”, giữa không gian bến nước là hình ảnh của một chiếc thuyền buôn chở rất nhiều chã đất nung và liễn sành màu da lươn. Hình ảnh những chiếc liễn sành màu da lươn gắn liền với câu chuyện những cái thai dị dạng của Sao sinh ra được người làng bỏ vào nó để đem chôn ở gò Mã Giáng hay thả bè chuối trôi sông. Không phải ngẫu nhiên hình ảnh này trở đi trở lại trong nhiều không gian khác nhau của tác phẩm. Phải chăng nó chính là nỗi ám ảnh đầy mất mát của không chỉ nhân vật Sao mà còn là của cả những con người thời kì hậu chiến. Tưởng rằng chiến tranh qua đi đau thương sẽ kết thúc nhưng ai ngờ nỗi đau sau chiến tranh còn dai dẳng gấp nghìn lần. Những đứa trẻ bị dị tật chính là do hậu quả của chất độc màu da cam trong chiến tranh gây ra. “Mấy năm nay người ta dùng nhiều liễn sành màu da lươn” chính là hình ảnh khốc liệt nhất cho những di chứng mà chiến tranh để lại. Bến nước thứ mười ba mà Sao quyết định bước đến lần này nó cũng đầy những khó khăn, cản trở. Những bè chuối san sát chặn đứng trên sông chặn đằng trước đằng sau, vây chung quanh. Trước tình hình ấy, cô lái đò khuyên Sao không cập được bến này thì cập bến khác. Nhưng Sao vẫn quyết định: “Bến này đã chót sang thì sang đến cùng”. Cập bến này cũng đồng nghĩa với việc Sao phải chấp nhận biết bao nhiêu thử thách, khó khăn. Bến thứ mười ba là bến của lòng dũng cảm, của tấm lòng bao dung và nhân hậu. Sao đã vượt lên trên những dị nghị, định kiến thông thường; bước qua nỗi ám ảnh đầy đau thương để bước đến chăm lo, yêu thương, săn sóc cho gia đình chồng. Cô luôn ý thức được bổn phận của mình đối với gia đình chồng nhưng hơn hết đó là ý thức của tình người. Sao vừa có cái truyền thống nhưng cũng có những nét hiện đại, táo bạo. Đó là hai mặt đối lập trong bản chất người phụ nữ ngày hôm nay. Họ luôn đấu tranh để thoát khỏi những những ràng buộc lạc hậu của tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng mới, khẳng định vị thế trong xã hội mới. Trong cuộc đấu tranh ấy, những người phụ nữ làng quê bao giờ cũng bị tư tưởng truyền thống lấn lướt kìm chế. Bởi ở họ, cái tình, cái nghĩa bao giờ cũng sâu nặng thuỷ chung. Họ biết làm tròn bổn phận của người con, người mẹ, người vợ, biết hy sinh và hưởng thụ. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mười ba bến nước phần 4
Nội dung Truyện ngắn “Mười ba bến nước” xoay quanh nhân vật Sao sống ở làng Yên Hạ. Một cô gái từng bị nước sông Hoàng Long cuốn dạt vào nằm trơ trơ trên gò Thuồng Luồng. Trong tâm trí của Sao chỉ còn lời của mẹ “Con Thuồng luồng vớt mày ở bến nước đưa lên đây đấy, mày ạ”. Mười sáu tuổi, Sao được anh Tào người làng Yên Hạ rất mến và thường hay trêu đùa cô. Hành động Tào quẳng nộm rơm xuống hố để yểm bùa cho đứa con gái yêu Tào nếu bỏ Tào thì sẽ bị phát điên, thành con Thuồng Luồng nhưng lại khiến Sao cuồng tin. Tào nhập ngũ rồi Sao thấy mọi người đồn anh đã anh chết nơi bom đạn. Sao lấy anh Lãng – bộ đội thời chiến. Hai người lấy nhau hôm trước thì hôm sau Lãng phải về đơn vị. Sao đợi mỏi mòn, vò võ một mình. Nhưng quãng thời gian ấy, cô lại bị dân làng nghi ngờ có quan hệ bất chính với Tào. Cô lại càng mong nhớ chồng nhiều hơn, bởi chỉ có chồng cô mới có thể chứng minh cô là người trong sạch. Chiến tranh kết thúc, chồng cô may mắn trở về. Cô sinh liền 5 lần thì cả năm đều là những cục thịt đỏ hỏn rồi có lần thì những cục thịt ấy giống như bọc trứng thuồng luồng vậy. Cứ ngỡ chồng trở về cô sẽ có cuộc sống hạnh phúc, nhưng hậu quả chiến tranh, hậu quả chất độc màu da cam đã dập tắt những mơ ước, hạnh phúc thậm chí làm gia đình cô tan nát. Chồng cô khi biết được đồng đội của mình là anh Hà Văn Nênh vợ đầu cũng đẻ con bị dị dạng nhưng đến người vợ thứ hai lại sinh ra được đứa con trai lành lặn. Trước tình huống ấy, mẹ chồng đã cầu xin cô hãy thương chồng và gia đình chồng để có người nối dõi. Cô đau đớn chấp nhận li hôn chồng. Cay đắng hơn, cô nuốt nước mắt vào trong để đi ăn hỏi, đi xin cưới, đi rước dâu để lấy vợ mới cho chồng. Người vợ mới của chồng lại chính là bạn của mình. Lúc cô dâu vào buồng hạnh phúc thì cũng là lúc cô lặng lẽ ra lối cửa sau, cắp quần áo về nhà mẹ đẻ. Những tưởng đời người phụ nữ chỉ có mười hai bến nước, nào ngờ còn bến thứ mười ba! Vô tình gặp anh Tào, cô nghe tin vợ mới của chồng cũng “sảo non ra một bọc, bà đỡ đếm được mười một cục thịt đỏ lòm. Cứ như trứng thuồng luồng đẻ trứng ấy”. Cô vợ mới cũng không chịu được "cái nợ" nhà chồng nên bỏ đi. Mẹ chồng ốm rất nặng, có dễ không qua khỏi. Chồng cũng đang âm thầm, lạnh tanh chịu đựng. Thế là, cô đành “gắng qua nổ bến nước thứ mười ba” bởi anh Lãng đang cần cô và lúc này, hai người đang rất cần nhau. Cô lên chuyến đò cuối ngày để quay về, chấp nhận hi sinh phần còn lại của cuộc đời. Nhưng chuyến đò hôm nay khác lạ, sang sông biết bao nhiêu vất vả. Lên bờ rồi, cái cô nhìn thấy chỉ còn là chiếc thuyền chở chã đất nung và liễn sành màu da lươn, lửa vẫn lập loè sáng đỏ. Trong “Mười ba bến nước”có sự xuất hiện của hai kiểu không gian đó là không gian thực và không gian huyền ảo. Mỗi không gian trong tác phẩm đều là nơi để các nhân vật bộc lộ mình gắn liền với dấu ấn thời đại thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn Sương Nguyệt Minh. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mười ba bến nước phần 3
Tóm tắt Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa về Thi pháp học một cách rạch ròi và được mọi người nhất trí. Định nghĩa của nhà lí luận Nga V.Girmunski về Thi pháp học được mọi người chấp nhận rộng rãi hơn cả: “Thi pháp học là bộ môn khoa học nghiên cứu thi ca (văn học) như là một nghệ thuật”. Như vậy, thi pháp học có thể hiểu là một bộ môn khoa học nghiên cứu về các quy tắc, các thủ pháp nghệ thuật, các phương thức nghệ thuật, các hình thức nghệ thuật… của một tác phẩm văn học – những yếu tố góp phần tạo nên tính độc đáo của các tác phẩm đó. Bởi vậy, tìm hiểu tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp học là một hướng đi giúp chúng ta có sự nhìn nhận đúng đắn hơn về bản chất của văn học nghệ thuật. Thi pháp học chú trọng đặc biệt đến những yếu tố hình thức của tác phẩm văn học như: hình tượng nhân vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, kết cấu, cốt truyện, điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại... Chính vì thế, bao giờ nội dung trong tác phẩm cũng phải được suy ra từ hình thức, đó là "hình thức mang tính nội dung". Do đó, phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Do đó, khi tìm hiểu về truyện ngắn “Mười ba bến nước” của nhà văn Sương Nguyệt Minh cũng cần đi sâu phân tích các khía cạnh hình thức để rút ra được những ý nghĩa, thông điệp và quan niệm của nhà văn. Bài viết này đi sâu tìm hiểu tác phẩm ở khía cạnh là không gian nghệ thuật của truyện ngắn. Từ khoá: Thi pháp học, không gian, “Mười ba bến nước” Mở đầu Truyện ngắn là một thể loại của văn học. Là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nội dung thể loại truyện ngắn bao gồm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự, sử thi… nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ. Trong truyện ngắn nói riêng và các thể loại khác nói chung thì không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Nó là một hiện tượng nghệ thuật, phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới. Việc nghiên cứu tìm hiểu về không gian nghệ thuật là rất quan trọng bởi nó góp phần tạo dựng môi trường tinh thần cho con người hoạt động, được bộc lộ bản thân. Không gian nghệ thuật còn góp phần thể hiện chiều kích tâm hồn của người nghệ sĩ, thấy được dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ, dấu ấn dân tộc, dấu ấn thời đại. Trong thể loại truyện ngắn, không gian không trải dài giống như tiểu thuyết mà nó là không gian hẹp, nhỏ bé. Không gian trong truyện ngắn “Mười ba bến nước” của Sương Nguyệt Minh là không gian nhỏ hẹp gắn với làng Yên Hạ, với bến nước và gia đình của nhân vật Sao. Nó không phải là không gian hoàn toàn giống với hiện thực như người ta vẫn nhìn thấy trong đời sống. Nhà văn đã pha vào đấy ít nhiều huyền thoại và những éo le không dễ có trong đời thường. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mười ba bến nước phần 2
Thế thì bi kịch lỡ làng trong tình yêu của con người đến từ đâu? Nguyễn Bính cũng không dưới một lần khắc khoải đi tìm câu trả lời. Thiết nghĩ, một trong những lí do lớn nhất (có thể tìm thấy trong thơ Nguyễn Bính) khiến cho đôi người chẳng thể “gặp gỡ” được nhau, ấy chính là họ cứ lặng im, cứ ngần ngại, cứ chẳng đủ tự tin mà nói lên tiếng lòng của mình. Cái lỡ làng giờ đây đồng hiện trong sự im lặng - nghĩa là không gặp gỡ, nghĩa là tan giấc mộng thành đôi. Cái im lặng vô hình vô ảnh lại hóa thành giậu mồng tơi ngăn cách đôi bên: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờ n. Hai người sống giữa cô đơn, Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi. Giá đừng có giậu mùng tơi, Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng. (Cô hàng xóm) “Giậu mùng tơi” là một trong những hình ảnh hiển hiện rõ nhất mặc cảm ngăn cách trong thơ Nguyễn Bính. Chính vì mặc cảm ấy khiến người ta dù có tình cảm với nhau là thật đi chăng nữa cũng chẳng thể “gặp gỡ” nhau, thấu hiểu và tin yêu nhau. Ao ước “Giá đừng có giậu mùng tơi”, vì thế cũng chính là ao ước có thể vượt qua mặc cảm ngăn cách trong lòng mình để dũng cảm khẳng định tình yêu. Nhưng tất cả rồi cũng chỉ là “giá như…” Cảm thức lỡ làng không chỉ cho “phận mình” mà còn là nỗi niềm đầy cảm thương, tiếc cho đời “chị” - một người con gái như bao người con gái trong xã hội xưa, ngậm ngùi, đắng cay chịu kiếp “lỡ bước sang ngang”. Lỡ dở là khi giấc mộng va đập với hiện thực, thành ra tan vỡ: Chuyến này chị bước sang ngang Là tan vỡ giấc mộn g vàng từ đây (...) Một lần này bước ra đi Là không hẹn một lần về nữa đâu…” Thế có nghĩa là, bi kịch lỡ dở đâu phải bi kịch của một người, một đời. Nó là bi kịch đã có tự muôn kiếp. Biết bao thân phận đã sống một cuộc đời lỡ dở, đã trải qua những cuộc tình lỡ dở. Nhất là những người con gái, ôm ấp cho mình những mộng đẹp về tình yêu, nhưng nhận lại thì chỉ là những mối duyên “lỡ bước”, đành nhắm mắt đưa chân mà ngậm ngùi chịu đựng. Bi kịch lỡ dở trong bài thơ này có sức khái quát lớn hơn, được thể hiện xót xa đến ám ảnh: (...)Mườii năm gối hận bên giường Mười năm nướ c mắt bữa thường thay can h Mười năm đưa đám một mình Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên Mười năm lòng lạnh như tiền Tim đi hết máu mà duyên không về. (Lỡ bước sang ngang) Thêm một giấc mơ tan vỡ, thêm một kiếp người lỡ dở: “Thế là tàn một giấc mơ/ Thế là cả một bài thơ não nùng”. Bởi trót lầm nên mới lỡ, bởi trót hi vọng nên mới thất vọng, bởi trót tương tư mà gặp hiện thực phũ phàng:“Mười hai bến nước xa lăng lắc/ Lầm tự ngày xưa, lỡ đến giờ.”. Nguyễn Bính viết nhiều, viết hay về con người lỡ dở như thế có lẽ xuất phát ngay từ chính cuộc đời và (những) cuộc tình của ông. Gặp gỡ nhiều nhưng “gặp gỡ” thì chẳng thấy, cứ khắc khoải đi tìm, khắc khoải mộng mơ để rồi vỡ tan khi đối diện với hiện thực. Con gái nhà thơ - bà Nguyễn Bính Hồng Cầu chia sẻ: “Hồi nhỏ, tôi cũng giận ba tôi lắm. Nhưng lớn lên tìm hiểu, tôi vỡ lẽ, cuộc đời ba tôi bất hạnh nhiều. Nhiều vợ nhưng không ai hiểu ông. Và ông cứ phải đi tìm cái bóng hạnh phúc cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vào đêm giao thừa năm 1966…” Kết luận “Thơ ca mãi mãi là cái đỉnh cao nổi tiếng ấy, cao hơn tất cả các ngọn núi Anpơ, nằm lăn trong cỏ, trước chân ta, đến độ chỉ cần cúi xuống một chút là ta có thể nhìn thấy nó và nhặt nó lên”. Câu nói nổi tiếng ấy của nhà thơ Nga Pasternac phải chăng cũng chính là nói về thơ Nguyễn Bính: những vần thơ giản dị của ông cứ tồn tại và sống đời sống riêng của nó. Nó tồn tại như lẽ tự nhiên của cuộc đời vốn tồn tại như vậy. Nó như một bảo tàng cất trữ những “mã văn hóa” để chúng ta tìm thấy một mảnh hồn với những cảnh, những tình, những tâm sự rất Việt Nam, trong đó có những tâm sự về cái lỡ dở của tình cảm, của phận người. Nhà phê bình văn học Ngô Thảo từng chia sẻ: “Người Việt bây giờ sống xa xứ rất nhiều. Sống ở xứ người thì đã hẳn. Nhưng bao người sống ở trong nước mà không còn cư trú ở làng quê. Tất cả họ tìm thấy trong những vần thơ Nguyễn Bính tiếng lòng và sự đồng vọng nhữn g tình cảm thiêng liêng của họ.” Nhà báo Trác Thúy Miêu từng nói: “Thời gian qua đi, chúng ta sẽ quên đi người tình, nhưng cuộc tình là thứ ở lại mãi.” Chừng nào mỗi chúng ta còn biết yêu, còn tương tư, còn ôm ấp hi vọng lẫn nếm trải những ngậm ngùi, dở dang, lỡ làng trong tình yêu, chừng đó những câu thơ của Nguyễn Bính vẫn còn nói hộ lòng ta nhiều lắm. Đọc tiếp: Hình tượng con người lỡ dở trong thơ Nguyễn Bính phần 1
Con người lỡ dở trong tình yêu (duyên phận lỡ làng) Nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính là những con người mang nhiều tâm sự trong tình yêu, mà bao trùm lên tất cả, ấy là mặc cảm về một tình yêu lỡ dở, về những mối duyên phận lỡ làng. Tình yêu ấy cũng như bao tình yêu tự ngàn xưa và mãi về sau, bắt đầu từ những giây phút tương tư. Mới đầu, chàng trai quê bước vào tương tư đúng với dáng điệu rụt rè của một “người nhà quê” - rụt rè đến độ chẳng dám đối diện với tình cảm của chính mình: “Cái gì như thể nhớ mong? Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!” Rõ “Quyết là không nhớ nàng!”, nhưng tình yêu nào phải câu chuyện của lí trí. Nó là nhớ mong, là rung cảm thường trực - là “bệnh của tôi” ấy chứ: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, Một người chín nhớ mười mong một ngườii. Gió mưa là bệnh của giời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.” (Tương tư) Đến đây thì chàng trai thôn quê cuối cùng cũng đã thật thà với tình cảm của chính mình, gọi được tên nó ra mà chẳng cần trốn tránh nữa. Nó là nhớ, là mong, là “tôi yêu nàng” đấy thôi. Khát vọng gặp gỡ, nhớ mong đôi khi còn hóa thành mộng mơ, trao cho con người ta những hi vọng thật đẹp: “Tước đay se võng nhuộm điều ta đi. Tưng bừng vua mở khoa thi, Tôi đỗ quan trạng, vinh quy về làn g. Võng anh đi trước võng nàng… Cả hai chiếc võng cùng sang một đò…” (Giấc mơ anh lái đò) Anh lái đò là một hóa thân khác của nhà thơ khi truyền tải giấc mơ gặp gỡ - một giấc mơ thật đẹp, thật vẹn tròn, mang màu sắc của những câu chuyện “vinh quy bái tổ”. Từ chuyện anh lái đò chở cô gái sang bãi tước đay mà nghĩ đến sợi đay, rồi từ sợi đay lại nghĩ đến võng đay nhuộm điều - chiếc võng đại diện cho ước vọng vinh quy, ước vọng hạnh phúc: “Cả hai chiếc võng cùng sang một đò”. Song, mộng tưởng gặp hiện thực thì lại hóa bẽ bàng, sự va đập ấy khiến những giấc mơ trở nên tan vỡ: Đồn rằng đám cưới cô to, Nhà trai thuê chín chiếc đò đón dâu. Nhà gái ăn chín nghìn cau, Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn… Lang thang tôi dạm bán thuyền, Có người trả chín quan tiền, lại thôi! Qua đoạn thơ ngắn này, nhà thơ dùng chữ “chín” đến bốn lần (chín chiếc đò, chín nghìn cau, chín nghìn tiền cheo tiền cưới, chín quan tiền). Theo quan niệm của phương Đông và cũng là theo hệ số thập phân, 9 là con số lớn nhất của hàng đơn vị, nó chỉ thiếu 1 nữa là chuyển sang hàng khác, hàng chục, là trở nên ‘mười phân vẹn mười”. Số phận của anh lái đò dang dở có lẽ do thiếu con số 1 quan trọng đó chăng? Giấc mơ quan trạng chẳng thành như anh lái đò cũng lỡ dở, dẫu nó thành hiện thực rồi thì cũng chẳng tránh khỏi lỡ dở trong chuyện tình. Quan trạng vinh quy, duy chỉ có một người “chạnh buồn”, ấy là cô gái: “Từ ngày cô chửa thành hôn/ Từ ngày anh khoá hã y còn hàn vi/ Thế rồi vua mở khoa thi/ Thế rồi quan Trạng vinh quy qua làng…”Những “từ ngày”, những “thế rồi” như những lời bâng quơ, như cố tìm một giọng khách quan nhất mà kể câu chuyện nhưng cũng chẳng thể tránh khỏi xót xa, hụt hẫng. Nguyễn Bính có lẽ là một trong những người viết nhiều nhất, hay nhất, thậm chí đến ám ảnh về sự lỡ dở. “Lỡ” mất nhau nghĩa là hụt đi cơ hội gặp gỡ, “dở” là tình yêu chưa đến độ thành chung. Phải chăng “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở” bởi lẽ nếu đi tiếp sẽ vấp phải hiện thực, “dở” lại trở thành “lỡ” mất rồi. Cô gái trong “Mưa xuân” cũng vì ôm ấp những mộng tưởng yêu thương mà hụt hẫng khi người yêu lỗi hẹn: Chờ mãi anh sang anh chả sang Thế mà hôm nọ hát bên làng Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn Ðể cả mùa xuân cũng lỡ làng! Vẫn là mưa xuân, nhưng khác với “mưa xuân phơi phới bay” mở đầu bài thơ, thì nay “mưa xuân đã ngại bay”; hoa xoan từ “lớp lớp rụng vơi đầy” giờ “đã nát dưới chân giày”, “có một thôi đê” ngắn mà giờ “có ngắn gì đâu một dải đê”... Tâm cảnh đối chiếu với ngoại cảnh, khiến cho ngoại cảnh giờ đây chất chứa đầy tâm sự, khiến “cả mùa xuân cũng lỡ làng”. Cái lỡ làng ấy hiển hiện trên “nước mắt đôi dòng”, cái lỡ làng khiến người ta vừa cảm thương, vừa nuối tiếc, vừa đồng điệu, nhất là những ai đã từng ôm ấp một mối tình đầu không trọn vẹn. “Bài thơ khép lại một lỡ làng. Nhưng bi kịch lỡ làng vẫn sẵn chờ thi sĩ trên cả mười hai bến nước của một đời thơ. Và tôi chắc rằng, mãi về sau nữa, mỗi lần đọc, “Mưa xuân” sẽ vẫn cứ rơi xuống lòng ta từng chấm lạnh như ngày nào.” (Chu Văn Sơn) Đọc tiếp: Hình tượng con người lỡ dở trong thơ Nguyễn Bính phần 4