Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao có một điểm đáng lưu ý: cái hệ thống không gian xuất hiện trong đời Chí Phèo: Lò Gạch cũ ,nhà của những người nghèo khổ, nhà của bác kiến, nhà tù, Làng Vũ Đại, vườn chuối ven sông, nhà Bá Kiến rồi lại lò gạch cũ. Anh chị hãy phân tích ý nghĩa của sơ đồ trên A Đặt vấn đề B Giải quyết vấn đề 1 Khái quát Không gian là nơi nhân vật hoạt động và tồn tại nhưng không gian trong truyện ngắn Chí Phèo là một loại ngôn ngữ nghệ thuật nhiều tầng ý nghĩa nó góp phần bộc lộ sâu sắc và ấn tượng hơn về chủ đề của tác phẩm là nẻo đường đi tìm nhân cách của một con người khốn cùng 2 Phân tích Vòng không gian trong tác phẩm Chí Phèo: Từ cái lò gạch cũ… vườn chuối ven sông… Đó đều là không gian xuất hiện tuần tự gắn liền với cuộc đời của Chí Phèo và từng điểm không gian ấy có ý nghĩa quan trọng khác nhau đối với số phận của nhân vật Kiểu kết cấu vòng tròn: Có Tác dụng như một tín hiệu nghệ thuật phản ánh cuộc đời quẩn quanh bế tắc của nhân vật trong xã hội. Kết cấu vòng tròn này thường thể hiện ở việc lập lại các tín hiệu đầu tác phẩm và cuối tác phẩm. Thì trong tác phẩm Chí Phèo đó là chi tiết của hình ảnh cái lò gạch cũ, ở đầu tác phẩm cái lò gạch là nơi người ta đã thấy Chí Phèo trần truồng xám ngắt trong chiếc váy đụt. Cuối tác phẩm đó là hình ảnh cái lò gạch thoáng qua trong đầu Thị Nở khi nhìn nhanh xuống bụng của mình -> Ý nghĩa: cái lò gạch bỏ không là nơi ẩn giấu những sinh linh vô thừa nhận điều đó thể hiện cái vòng luẩn quẩn của xã hội. Xã hội ấy sẽ vẫn còn có những Chí Phèo con nối tiếp nhau đời sống, cuộc sống bi kịch cho chính mình và gieo rắc cho những người xung quanh Trong chuỗi của cuộc đời Chí còn có nhiều điểm quan trọng khác: Nhà của những người nghèo khổ: là nơi nương tựa trong cuộc sống nghèo khổ của nhân vật Chí Phèo. Bà góa mù, Vợ chồng bác phó cối không con, họ đều là những người lao động nhọc nhằn nhưng chính họ lại là người cưu mang và nuôi Chí lớn lên bởi họ có tình thương một điều bình thường mà Nam Cao vẫn thường chú trọng Rời khỏi không gian ấy Chí rơi vào nhà Bá Kiến nơi mà Chí bóc lột cả sức trẻ tuổi xuân và lòng tự trọng. Nơi Chí bị tước đoạt bị coi thường với mọi quyền sống mà ai cũng có. Bà Ba vợ Bá Kến đã tước đi quyền tự trọng trong Chí, Bá Kiến đã tước đi quyền tự do của Trí Từ không gian nhà Bá Kiến Chí bị đẩy vào một vòng luẩn quẩn khác đó là nhà tù. Nhà tù đã biến một anh Chí hiền lành trở thành một thằng xa đà ăn mặc, cư xử chẳng giống ai đặc biệt hắn có món nghề “ăn vạ” với bất cứ ai Từ nhà tù Chí Phèo trở về làng Vũ Đại với một bộ dạng mới và không ai trong dân làng nhận ra anh Chí ngày xưa nữa. Dần dần từ tha hóa Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của Làng Vũ Đại. Làng Vũ Đại chính là nơi Chí tìm về sau khi ra tù bởi giống như với mọi người nông dân Chí Phèo đều gắn bó với làng quê của mình nhưng ở đó lại có Bá Kiến kẻ lợi dụng. Người biến Chí Phèo thành quỷ dữ Ở đó cũng có những người dân hiền lành và trong vô thức Chí thèm được trò chuyện được chung sống nhưng tất cả mọi người đều xa lánh tránh mặt Chí bởi họ không coi Chí là một con người Trí tìm đến vườn chuối ven sông gặp Thị Nở cuộc gặp gỡ đêm đó đã khiến Chí nhận ra mình đã già, mình đã có cuộc sống yên bình hiền lành và Chí được biết đến một sự chăm sóc của bàn tay đàn bà như thế vườn chuối đã trở thành không gian của tác giả. Dường như nó đã kéo Chí tỉnh dậy khỏi những cơn say triền miên bất tận trong cuộc đời Nhưng Chí không có quyền trở lại làm người lương thiện và Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến nơi Chí giết chết thủ phạm đã gây ra bi kịch và tự kết liễu bi kịch cuộc đời bằng cái chết. Vậy nhà Bá Kiến đã trở thành không gian tập trung nhất của xung đột đó là xung đột giữa Chí Phèo (một người nông dân bị bần cùng hóa) và Bá Kiến (một tên địa chủ gian xảo) xung đột bắt đầu từ khi Chí bị đi ở tù, xung đột trên khi Chí trở về làng ăn vạ lần nào Bá Kiến cũng thắng nhưng trong xung đột cuối cùng thì Bá Kiến không thể nào lường hết được và đã bị Chí Phèo đâm chết. Có thể coi đây là một vòng luẩn quẩn có tính chất cơ đọng nhất của bi kịch bởi cho dù Chí đã tìm đúng kẻ thù của mình nhưng vẫn rơi vào bế tắc và chỉ còn có cách duy nhất là tìm đến cái chết 3 Đánh giá Chuỗi điểm vòng trong tác phẩm là mô hình ngắn gọn cho mô hình chủ đề Chí Phèo diễn biến theo vòng và mức độ của bi kịch thông qua chuỗi điểm vòng này người đọc thấy được số phận và bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng Tám nói chung và bi kịch của Chí Phèo nói riêng C Kết thúc vấn đề Khi tìm hiểu vào chuỗi điểm vòng trong chủ đề Chí Phèo người đọc thấy rõ sự thành công của tác giả trong việc khắc họa về số phận về bi kịch chủ đề nhân vật. Đồng thời càng nhận thức sâu sắc hơn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Đọc tiếp: Cho đoạn văn mở đầu “Hắn vừa đi… không ai biết” anh chị hãy phân tích ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao qua đoạn văn và chỉ ra ý nghĩa tác dụng của nó?
Cho đoạn văn mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi… cả làng Vũ Đại cũng không ai biết” anh chị hãy phân tích ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao qua đoạn văn mở đầu và chỉ ra ý nghĩa tác dụng của nó? A Đặt vấn đề B Giải quyết vấn đề I Khái quát 1 Giới thiệu về ngôn ngữ kể chuyện Là một yếu tố hết sức quan trọng trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ kể chuyện chính là ngôn ngữ của người kể chuyện một loại nhân vật do tác giả sáng tạo trong lúc kể chuyện 2 Đặc sắc của ngôn ngữ kể chuyện Truyền thống và ngôn ngữ trong tác phẩm hiện đại trong văn của Nam Cao: Trong tác phẩm tự sự truyền thống nhân vật kể chuyện thường đứng ở ngôi thứ ba số ít như một người vô hình nhưng lại biết hết thấy trước mọi việc (gọi là người kể chuyện vạn năng) hay người kể chuyện đầy quyền uy. Trong tác phẩm tự sự hiện đại nhân vật kể chuyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít và thường xưng tôi. Giữ vai trò là người chứng kiến có thể là người tham gia trực tiếp vào các sự kiện của truyện. Tuy nhiên dù xuất hiện ở hình thức nào thì nhân vật người kể chuyện cũng phải dùng lời kể, lời tả để thuật lại các sự việc biến cố miêu tả về nhân vật về cuộc sống Tác phẩm của Nam Cao: Trước Nam Cao Tác phẩm tự sự thường theo một mô hình lý tưởng mỗi tác phẩm tự sự thường là một truyện ngắn thể hiện một chủ thể để tất cả mọi câu chữ mọi tình tiết trong tác phẩm đều nhằm tập trung làm nổi bật chủ đề ấy. Trong mô hình nghệ thuật lý tưởng này thì cốt truyện là điểm tựa của tự sự, thì nhân vật là điểm tựa chính của cốt truyện và tính cách nhân vật là nội dung cơ bản nhất của nhân vật. Trước Nam Cao để phù hợp với mô hình lý tưởng ấy tác phẩm tự sự tôn trọng nguyên tắc khách quan trong phản ánh về đời sống: tất cả các sự kiện biến cố con người khi ở trong tác phẩm tự sự đều được kể, miêu tả từ bên ngoài vì vậy mà ngôn ngữ kể chuyện thường là lời gián tiếp và lời nhân vật là lời trực tiếp thể hiện về ý thức. Giọng điệu của người kể chuyện thì vô hình nhưng đầy quyền uy. Đến với Nam Cao khác với nhiều nhà văn trước và cùng thời. Nam Cao thường nhập thân hóa thân vào nhân vật để kể chuyện. Điều này có lẽ thể hiện rõ nhất trong tác phẩm của Nam cao như Lão Hạc, Đôi Mắt… bên cạnh đó Nam Cao thường sử dụng rộng rãi lời bán trực tiếp lời của người kể chuyện Nhưng thể hiện qua giọng điệu ý thức của các nhân vật => Người ta có thể lắng nghe được nhiều giọng nói đại diện cho những ngôn ngữ khác nhau trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao điều này thể hiện rõ nhất trong đoạn mở đầu của Chí Phèo II Phân tích 1 Lời văn bản trực tiếp Ở đoạn văn mở đầu của tác phẩm Chí Phèo người đọc thấy khá rõ nét lời văn bán trực tiếp chiếm một tỷ lệ khá lớn không chỉ có ngôn ngữ kể chuyện ngôn ngữ nhân vật mà ta còn thấy hai loại ngôn ngữ ấy hòa trộn vào nhau rất khó tách biệt a Lời của người kể chuyện Lời thông báo: “hắn vừa đi vừa chửi… bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửi => đây không phải là lời thông báo thuần túy khách quan nó còn bao hàm cả sự đánh giá bình luận hơn thế ngôn ngữ người kể chuyện đã khẳng định cho ta thấy rõ đây là một kiểu người say rượu hay gây gổ và nhất là đang chứa một nỗi uất ức. Muốn trút bỏ muốn phá bỏ đối với con người này chửi như một thói quen chửi sau khi đã uống rượu và hắn mượn rượu để chửi Tiếp sau lời thông báo là lời miêu tả của người kể chuyện. Bắt đầu hắn chửi trời rồi hắn chửi đời thế cũng chẳng sao…” Nhưng cả làng vũ đại ai cũng nhủ (người kể chuyện). Trong những câu văn này người kể chuyện miêu tả về cách chửi của nhân vật. Qua ngôn ngữ này ta thấy cách chửi của Chí Phèo rất độc đáo: chửi những gì rất to tát, trừu tượng, vu vơ…(trời, đời) đến những cái gì rất gần gũi, hữu hình đó là chửi Làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân Hắn để Hắn khốn khổ như vậy. Trong tâm thức của người viết “Trời” rất linh thiêng, đời là tất cả của sự sống, làng là cánh đồng nơi con người ta lớn lên gắn bó. 3 đối tượng ấy trong nhận thức của con người là cao quý nhất thiêng liêng nhất. Vậy Chí Phèo chửi toàn đối tượng kiêng kỵ chửi như thể Chí Phèo phải tức tối bực bội đến mức nào b Lời nhân vật Bên cạnh cái giọng nói của người kể chuyện qua lời bán trực tiếp ta còn nghe thấy giọng nói của một đám đông vô hình. Đám đông ấy chính là người dân sinh sống trong Làng Vũ Đại những con người vốn không muốn dây dưa với chí phèo nên tất cả ai cũng tưởng chắc chắc nó chừa mình ra. Những lời trần thuật nửa trực tiếp ấy cho ta thấy rõ kết quả trong Hành động chửi và hoàn cảnh của Chí Phèo để ta thấy được phản ứng của những người nghe chửi là tất cả đều im lặng không ai chửi lại Chí Phèo. Tức là không ai muốn giao tiếp với Chí Phèo dù là cách sơ đẳng nhất nghĩa là không ai coi Chí Phèo là một con người Đọc tiếp: Cho đoạn văn mở đầu “Hắn vừa đi… không ai biết” anh chị hãy phân tích ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao qua đoạn văn và chỉ ra ý nghĩa tác dụng của nó? (tiếp)
c Giọng nói của Chí Phèo Giọng của thằng khùng một thằng say “tức thật, ờ thế này thì tức thật tức chết đi được mất”...” sự xuất hiện lời của đối tượng được kể đã làm cho câu chuyện biến hóa mà chân thực giúp cho người kể hóa thân xâm nhập sâu vào thế giới của nhân vật. Nhưng những lời trần thuật nửa trực tiếp này cũng hàm chứa sự thông cảm của nhà văn với một kẻ bị cự tuyệt, chối bỏ cô đơn đến cùng cực. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự vật vã để tìm ra căn nguyên nỗi khổ của mình d Tác dụng Bằng cách sử dụng lời bán trực tiếp Nam Cao đã làm nổi bật tâm lí nhân vật một cách chân thực và sinh động nhất. Đọc văn Nam Cao người đọc nhận thấy con người như đang đi lại suy nghĩ chứ không phải nhà văn đang kể tả về họ Việc đưa vào những lời trần thuật khác nhau nhằm làm mở rộng nội dung tạo nên tính đa nghĩa cho ngôn ngữ kể chuyện. Đoạn văn trước hết đã miêu tả tài tình một trạng thái tâm lý đầy mâu thuẫn đó là trạng thái nửa tỉnh nửa say và phải là thằng say thằng kùng hoặc là một kẻ mất trí thì mới chửi bới lung tung như vậy. Nhưng khi say Chí Phèo vẫn biết tức, hắn vẫn nhận ra cái thân hắn khổ hình như không phải vì say mà Chí Phèo chửi vì muốn chửi nên Chí Phèo đã say. Vì vậy Người đọc thấy trong tâm hồn u mê ấy luôn âm ỉ một nỗi phẫn uất Đặc biệt đoạn văn này giúp ta hiểu được một thói quen không giống ai Chí Phèo và một tình thế rất riêng mà Chí Phèo đã rơi vào: trong con người Chí Phèo là một nỗi cô đơn khổng lồ Đoạn văn mở đầu này không chỉ giới thiệu về nhân vật mà còn thể hiện khá rõ về nhân vật khiến ta dự đoán được thiên chuyện sẽ đi theo hướng nào. Thiên chuyện ấy sẽ đi theo hướng đặt ra và giải đáp các câu hỏi hắn là ai? Vì sao Hắn chửi? tức là sẽ cho ta hắn là ai. Vì sao Hắn chửi, lai lịch của Chí Phèo, quá trình lưu manh hóa. Tiếng chửi ở phần mở đầu đã dẫn đến tiếng thét đòi quyền sống của Chí ở cuối tác phẩm Ngôn ngữ của đoạn văn mở đầu còn hé mở nguyên tắc tự sự đầy sự cách tân của nhà văn Nam Cao các nhà văn hiện thực dồn sức để giải đáp cho các câu? Diện mạo thực trạng của con người, xã hội trong hiện tại như thế nào? Đó là chủ nghĩa hiện thực hơi bầy còn trong tác phẩm của Nam Cao lại là lời giải đáp cho câu hỏi vì sao con người và đời sống lại ra nông nỗi ấy như thế chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa phân tích, giải thích lý giải vậy Nam Cao đã vượt qua lối văn kể tả thông thường để đi sâu vào lối văn phân tích. Chính vì vậy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để cho Chí Phèo chửi đời. Đoạn văn mở đầu này đã chuẩn bị cho tác phẩm rẽ sang mạch khác đó là cách phân tích, giải thích kẻ nào sẽ phải chịu trách nhiệm trước bi kịch của Chí Phèo. 2 Hình thức của câu văn và từ ngữ Câu văn: người đọc ấn tượng một loạt câu văn ngắn, rất ngắn trong đoạn mở đầu. Bắt đầu Hắn chửi trời Hắn chửi đời, những câu văn ấy tạo nên nhịp điệu kể chuyện nhanh dồn dập tạo kịch tính cho chuyện. Ngoài ra còn những câu văn ngắn đặc biệt “có hề gì, tức thật, thế này thì tức thật… có trời mà biết” Người đọc tưởng chừng như đoạn văn bị cắt ngắn sé vụn để mình được chứng kiến tận mắt sự vật vã của Chí Phèo trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người Tác giả đã sử dụng một loạt từ ngữ cảm thán được sử dụng với mật độ dày đặc trong đoạn văn này “Tức thật…ờ… Tức thật, tức chết đi được mất! a ha!...” tác dụng một mặt làm sinh động cho đoạn văn mặt khác nó bộc lộ được sắc thái tính chất của nhân vật người kể chuyện Tác giả sử dụng rất nhiều hình thức của câu phủ định: “trời có của riêng nhà ai, không, chưa chẳng…” có thể trực tiếp phủ định, dùng hình thức hỏi để phủ định tất cả nhằm một mục đích đó là phủ định Chí Phèo trên đời này. Đồng thời khẳng định cái hư vô, cái cô đơn của Chí Phèo dù có cố gắng đến mấy thì thì cuộc đời Chí vẫn là một con số 0 tròn trĩnh. Chí Phèo chỉ có một thứ duy nhất đó là một khối cô đơn uất ức dồn tụ Cách xưng hô của tác giả: hắn, thằng. Nếu chỉ xét ở bề ngoài thì cách xưng hô ấy thể hiện sự tàn nhẫn khinh bỉ nhưng sâu bên trong là tình cảm sâu nặng của nhà văn đó chính là sự thông cảm đau xót khi thấy Chí Phèo say, chửi để được giao tiếp nhưng cuối cùng chỉ nhận về mình sự im lặng đến đáng sợ III Đánh giá Sử dụng nhiều thứ ngôn ngữ là sáng tạo của Nam Cao sáng tạo ấy đã biến đoạn văn thành tiếng nức nở thoát ra từ tâm hồn đau khổ của Chí Phèo. Đúng như trong đời thừa Nam Cao đã khẳng định: “một tác phẩm có giá trị phải thoát ra… lầm than”. Ngôn ngữ ấy đã diễn tả tinh tế thế giới nội tâm của con người đó là uất ức, cô đơn khao khát được giao cảm với đồng loại và đó cũng chính là bi kịch của Chí Phèo nói riêng, bi kịch của những người nhân dân Nói chung trước cách mạng tháng 8 C Kết thúc vấn đề Những dòng ngôn ngữ ở đoạn văn đầu tiên cũng như toàn bộ tác phẩm đã chảy ra từ trong tim, tình cảm và yêu thương con người của Nam Cao. Qua những đặc sắc về ngôn ngữ trong tác phẩm đặc biệt ở đoạn văn mở đầu này đã giúp chúng ta càng khẳng định rõ ràng hơn Nam Cao xứng đáng là một nhà văn lớn với tư tưởng nhân văn sâu sắc đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc Đọc tiếp: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo từ đó nêu lên tư tưởng nhân đạo mới mẻ sâu sắc trong tác phẩm
a. Từ con quỷ dữ Chí Phèo khao khát trở lại làm con người lương thiện Chí đã thức tỉnh lương tâm nhưng cuối cùng lại chết thê thảm. Có thể nói trước khi gặp Thị Nở Chí Phèo chưa ý thức được mình là một con người cả ở phương diện khổ đau và hạnh phúc. Do vậy Chí Phèo không khao khát hạnh phúc, mà ngay cả niềm đau của mình anh cũng không cảm nhận thấy. Do vậy mà lúc đầu Chí Phèo đến với Thị Nở là do bản năng của một gã say rượu nhưng ngay sau đó bằng sự chăm sóc vụng về, nhưng những chân thành đầy tình người của Thị Nở đã giúp Chí thức tỉnh lương tâm. Người ta thường hay nhắc đến bát cháo hành của Thị Nở và gọi đó là bát cháo hành nhân đạo nó như một liều “Tiên Dược” không những có tác dụng giải cảm mà còn làm sống dậy tâm tính Chí Phèo. Mối tình của Thị Nở đối với Chí Phèo đã đưa Chí từ cõi quên trở về cõi nhớ làm sống dậy bản chất lương thiện trong Chí. Thị Nở đã đem lại ánh sáng nhận thức cho một đầu óc u mê trong những cơn say triền miên. Thị Nở đã thắp lên tình yêu tưởng chừng như băng giá không bao giờ biết yêu. Tác giả dùng cả đoạn văn giàu chất thơ để diễn tả tâm lí Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở: “vào một buổi sáng bình minh yên ả, Chí Phèo đã biết rung cảm… Chí Phèo cảm nhận cuộc đời này thật đẹp đáng yêu biết bao trong căn lều ẩm thấp không biết đến thời gian. Tâm hồn Chí đã rộng mở để lắng nghe cuộc sống bên ngoài để cảm nhận được âm thanh ánh sáng tất cả những điều đó đã mở ra trao trả cuộc đời cho Chí Từ đó để Chí Phèo nhận thức được tình trạng bi đát của bản thân mình. Chí này sinh suy nghĩ muốn làm hòa với mọi người và mong muốn với mọi người nhận anh quay trở lại làm người. Từ nhận thức Chí đã có những biến đổi về tình cảm. Chí lại có những khao khát hạnh phúc đơn sơ, cao đẹp với những ước mơ trước đây anh từng mơ ước: “chồng cày thuê…” ước mơ có một mái nhà tranh nghèo với hạnh phúc đời thường nhưng phải lương thiện => Vậy Có thể khẳng định từ khi gặp Thị Nở Chí Phèo đã có những khao khát được trở lại làm cuộc đời lương thiện. Định kiến của bà cô Thị Nở đại diện cho định kiến của xã hội thông qua lời Thị Nở đã từ chối khát vọng chính đáng của Chí. Lời bà cô nói: “ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề rạch mặt và ăn vạ” đã phản ánh khá đầy đủ định kiến của xã hội đối với những con người như Chí Phèo. Những con người từng bị tha hóa từng gây tội ác. Bởi xã hội ấy chỉ nhìn thấy bộ mặt gớm ghiếc mà không nhận ra rằng linh hồn của Chí đã trở về. Trước sự xúc phạm của Thị Nở lúc đầu Chí Phèo chỉ cười sau đó ngẩn người hiểu rõ Chí đã tìm đến rượu nhưng khốn thay cho Chí Phèo uống rượu mà hơi rượu không sặc sụa, lại chỉ thoảng thấy hơi cháo hành khiến Chí phải ôm mặt khóc rưng rức. Với những dòng văn miêu tả tâm lý sâu sắc, nhà văn cho người đọc thấy rõ bi kịch của Chí Phèo đang dần đi đến đỉnh điểm. Chí Phèo hiểu ra rằng mình vĩnh viễn bị tước đoạt tư cách làm người. Tong cơn say phẫn uất Chí Phèo đã mang dao đến nhà bá kiến giết Bá Kiến và tự giết mình => Nam Cao thật sâu sắc khi để bước chân của Chí Phèo bước chân tới nhà Bá Kiến. Anh đã đến đúng nhà của kẻ đã tước đi quyền làm người của mình để đòi lương thiện. Linh hồn của Chí trở về đã giúp anh nhận ra kẻ thù, kẻ cướp đoạt quyền làm người của anh là Bá Kiến để anh đòi lương thiện. Chí Phèo chết vì khi lương tâm đã trở về anh không thể chấp nhận cuộc sống của loài quỷ dữ như trước đây nữa nhưng cánh cửa mở vào cuộc sống lương thiện vẫn khóa chặt phía trước. Vì vậy Chí Phèo đã phẫn uất và tuyệt vọng anh đã chết trong ngưỡng cửa trở về cuộc sống con người. Điều đó cho thấy bi kịch của Chí Phèo là đau khổ vô cùng 1 Tư tưởng nhân đạo mới mẻ sâu sắc a Tư tưởng cảm thông sâu sắc của nhà văn Vốn là người sâu sắc trầm lặng nên Nam Cao ít bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình. Giọng văn của ông cứ khách quan đến lạnh lùng đến mức có người tưởng như là phũ phàng. Thế nhưng ẩn sâu trong những từ ngữ lạnh lùng ấy là nỗi đau của một trái tim đang nhỏ máu khi phải chứng kiến bi kịch quá lớn của một con người: Bá Kiến của một kẻ lương thiện bị băm vằm cả nhân hình, nhân tính và khi linh hồn được hồi sinh lại bị cự tuyệt đến phũ phàng b Đồng thời với niềm cảm thương là lời tố cáo lên án xã hội vô nhân đạo lúc bấy giờ. Xã hội ấy đã tiêu diệt đến tận cùng quyền sống và lẽ sống của con người. Nhà văn đã đi vào vạch trần bản chất sự tàn nhẫn nham hiểm của giai cấp thống trị: Kẻ trực tiếp đẩy Chí Phèo vào bi kịch chính là Bá Kiến, Bá Kiến không giống những tên địa chủ cường hào khác ở tính chất trọc phú mà hắn có tiếng cười khanh khách giòn giã và hắn tự phụ hơn đời vì tiếng cười tào tháo ấy. Hắn không từ thủ đoạn nào để bóc lột vơ vét của nhân dân, hắn có thể cướp đất, nhà đẩy con người vào vòng lao lý tù tội nhưng Bá Kiến vẫn tự che đậy bộ mặt giả nhân giả đức Tố cáo giai cấp thống trị đáng sợ hơn nữa là đám cường hào, ác bá chúng chia bè kéo cánh ngoài mặt thì tử tế nhưng trong bụng thì lại mong muốn cho nhau lại bại. Chúng lại luôn liên kết với nhau bóc lột nhân dân đẩy nhân dân vào con đường cùng quẫn rồi cuối cùng phải làm tay chân gây tội ác cho chúng. Nam Cao nhìn thấy xã hội bấy giờ, đã tạo ra môi trường thuận lợi cho những Bá Kiến xuất hiện c Nam Cao đã phát hiện và khẳng định bản chất của con người ngay cả khi họ mang diện mạo của một loài quỷ dữ Trong một xã hội tăm tối ở một tâm hồn đã bị nhuộm đen như Chí Phèo Nam Cao vẫn nhận ra ánh sáng của lương tâm và lương chi và khi ánh sáng ấy bùng lên thì không một sự tàn bạo nào có thể dập tắt được. Chí Phèo thà chịu chết chứ không chịu một lần nữa lại bán linh hồn của mình thành quỷ dữ. Đây là nét riêng của tư tưởng nhân đạo của Nam cao so với Ngô Tất Tố. Kết thúc tác phẩm Chí Phèo, Chí Phèo phải chết, chị Dậu Ngô Tất Tố kết thúc, chị Dậu chạy ra ngoài bóng tối d Trong tác phẩm Nam Cao còn đặt ra một giải pháp xã hội mang tư tưởng nhân đạo phải ngăn chặn tình trạng xã hội làm tha hóa con người và đẩy con người vào chỗ phi nhân tính. Đặt ra vấn đề muốn cứu lấy con người nhân tính phải thủ tiêu xã hội vô nhân đạo và phải làm cho xã hội ấy nhân đạo C Kết thúc vấn đề Có thể nói trong Chí Phèo Nam Cao đã miêu tả một cách xúc động cái bi kịch bị cự tuyệt vì làm người của Chí Phèo. Qua tác phẩm cũng giúp người đọc chúng ta hiểu rõ hơn Nam Cao là một nhà văn có tư tưởng sâu sắc lớn lao một nhà văn biệt tài miêu tả tâm lí con người. Qua đây ta cũng có thể khẳng định nền văn học hiện đại Việt Nam cũng như nền văn học dân tộc nói chung nếu thiếu Nam Cao thì sẽ có một khoảng trống không gì lấp được Đọc tiếp: Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao A Đặt vấn đề B Giải quyết vấn đề Khái quát Xuất xứ hoàn cảnh sáng tác Giải quyết vai trò của nhân vật trong tác phẩm tự sự Đề 1 như Chữ Người Tử Tù nhân vật quản ngục Cảm nhận chung về nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Khác với cách xây dựng Chí Phèo, Bá Kiến và Thị Nở được xây dựng ở hai khía cạnh chính: Số Phận - phẩm chất, tâm hồn và cũng rất khác tác phẩm khác khi xây dựng hình tượng nhân vật người nữ Phân tích Số Phận: Người đọc không thể không xót xa cho số phận của Thị Nở bởi Thị Nở là người phụ nữ bất hạnh nhất trong số phận của những người phụ nữ. Cuộc sống nghèo khó một ngoại hình ma chê quỷ hờn mặt thì bề ngang dài hơn chiều dài, môi thì cong dày, to, nứt nẻ như ruộng mạ, mũi to bành ra và đỏ sần sùi như vỏ cam sành, răng chìa ra ngoài. Theo tác giả Nam Cao có lẽ như người phụ nữ khác thì Thị Nở sẽ phải đập vỡ cái gương đê tiện khi mua ở chợ về vì cái dung nhan của mình nhưng Trời phú cho chị một tính cách rất sợ hơi ngẩn ngơ ăn ngủ yếm áo lúc nào cũng vô tâm đến chị có đặc tính hồn nhiên bậc nhất của thiên nhiên Xuất thân trong dòng dõi có mả hủi -> Có thể nói rằng nhân vật Thị Nở có số phận thể hiện cao nhất sự trớ trêu của tạo hóa nhưng đó lại là dụng ý của Nam Cao. Nam Cao dùng lối miêu tả phi thường để làm đòn bẩy nổi bật phẩm chất bên trong của Thị Nở. Khi tác động tới bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo như một tỷ lệ thuận. Thị Nở càng xấu thì sự khốn khổ tủi nhục của Chí Phèo càng cao, Thị Nở xuất hiện đã làm những mong ước mơ hồ chưa từng có trong Chí Phèo thức dậy và làm thức dậy cả cả quá khứ của Chí Phèo. Thật tủi nhục cho Chí Phèo biết bao bởi Chí chỉ ước mơ rằng lấy được một người đàn bà tầm thường như Thị Nở mà cũng không thể được. Đây là một người đàn bà mà người ta tránh như tránh hủi, tránh như một vật gì rất tởm… Chí Phèo chỉ mơ ước như vậy mà cũng không đạt được. Thị Nở từ chối đã để lại trong Chí Phèo nỗi đau tình phụ nhưng thực chất nỗi đau ấy chính là nỗi đau bị cự tuyệt quyền làm người Phẩm chất Đối lập với vẻ bề ngoài thì bên trong Thị Nở là một con người giàu tình yêu thương người nhất trong số những người dân làng Vũ Đại Thị Nở đến với Chí Phèo một cách rất hồn nhiên nhưng với suy nghĩ rất sâu sắc “mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc” -> Thị là con người rất nghĩa tình khi thấy Chí Phèo bị cảm Thị đã dìu Chí về lều tìm tất cả màn chiếu đắp ấm cho Chí đi kiếm gạo hành nấu cháo cho Chí giải cảm. Bát cháo ấy đong đầy tâm tình nhân nghĩa khiến cho tâm hồn Chí rung động thực sự. Bưng bát cháo mà Chí Phèo đã khóc, những từng nếp ký ức bấy lâu bị quên lãng lại trở về sống động trong Chí Chi tiết bát cháo hành là một chi tiết trang nghiêm khi nó xuất hiện đã làm mọi người quên hết cái đáng cười của ngoại hình tâm tính của Thị. Vì nó đã thể hiện tấm lòng tốt thực sự của Thị Nở đối với Chí Phèo, bát cháo hành là hiện thân cho tấm lòng giàu yêu thương của Thị Nở đối với Chí Phèo Khi gần gũi với Chí Phèo, Thị Nở đã phát hiện ra những điều tốt đẹp trong Chí mà người đời không bao giờ thấy được: “có những lần Thị Nở vào nhà Chí sĩ rượu bóp chân thì hắn bảo rượu ở chân giường lấy bao nhiêu thì lấy” -> cái thảo của Chí Phèo đã được Thị Nở cảm nhận, khi ở với Chí Phèo trong vòng 5 hôm thì phát hiện ra cái ngu ngơ, hiền lành của Chí. Khi Chí Phèo đã chết Thị vẫn còn nhận xét “sao có lúc hắn hiền như đất” Ngoài ra Thị Nở là người rất khao khát hạnh phúc gia đình trong những ngày yêu nhau Thị Nở biết làm duyên, e thẹn, lườm, âu yếm tuy rằng không biểu hiện như người thường. Khi Thị nghe tiếng vợ chồng thì thấy ngường ngượng mà mà thinh thích mà tác giả gọi đó là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn đó chăng. Và khi xa Thị Nở cũng thấy nhớ Chí Phèo ->dấu hiệu của tình yêu. Nhưng Thị vẫn biết tức giận khổ đau lo sợ, ở Thị Nở cũng có tất cả những cung bậc trạng thái của một tình yêu của một con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình => qua xây dựng nhân vật Thị Nở Nam Cao đã đề xuất quyền được yêu quyền được hưởng hạnh phúc cho những con người khi bị vứt ra ngoài xã hội. Với những phần người trong họ dù chưa hoàn thiện Đánh giá chung Nghệ thuật bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa hình thức bên ngoài và phản cách bên trong của con người C Kết thúc vấn đề
Nam Cao là một trong những nhà văn có ý thức sâu sắc về nghệ thuật hãy trình bày hiểu biết của em về quan điểm nghệ thuật của Nam Cao? A Đặt vấn đề BGiải quyết vấn đề I Khái quát II Phân tích quan điểm nghệ thuật của Nam Cao Nam cao với quan điểm nghệ thuật trước cách mạng tháng Tám: Nam Cao là một trong số không nhiều nhà văn trước Cách mạng mang tính tự giác về quan điểm nghệ thuật và có quan điểm nghệ thuật rất tiến bộ mặc dù không có những tác phẩm chuyên bàn về quan điểm nghệ thuật nhưng rải rác trong các sáng tác của ông ta. Thấy những quan điểm nghệ thuật thể hiện khá hệ thống nhất quán và có nhiều điểm tiến bộ so với phần đông các nhà văn cùng thời. Không ít khía cạnh trong quan điểm nghệ thuật đó chứng tỏ sự phát triển ở trình độ cao của tư duy hiện thực Có thể nói Nam Cao là nhà văn phê phán tính chất thoát ly của văn học lãng mạn đương thời một cách toàn diện sâu sắc nhất. Theo ông đó chỉ là thứ nghệ thuật lừa dối âm hưởng, chủ đạo của những tác phẩm này là giọng sướt mướt của kẻ thất tình lên án Văn học thoát ly, cũng có nghĩa lên án thứ nghệ thuật, vị nghệ thuật -> Tác giả đi vào khẳng định giá trị của văn học hiện thực, khẳng định vị nhân sinh Nam Cao yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động trong đời thừa Nam Cao nói: “ nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” và nhà văn phải đứng trong lao khổ mở hồn đón lấy tình cảm với vang động ở đời. Song song với việc phê phán không khoan nhượng văn học lãng mạn thoát ly, Nam Cao còn chị rõ vấn đề của những tác phẩm văn học hiện thực phê phán một cách mờ nhạt ý nghĩa xã hội non kém. Đối với Nam Cao văn học phản ánh hiện thực không chỉ mô tả cuộc sống mà còn phải đi vào phân tích lý giải cuộc sống theo nghệ thuật theo quy luật bởi hoàn cảnh xã hội quyết định nhiều tới tâm lý tính cách con người. Điều này được thể hiện khá rõ ở tác phẩm. Theo nam cao một tác phẩm hiện thực phải có giá trị vượt lên trên tình cảm với mọi giới hạn đặc biệt phải thấm nhuần nội dung tư tưởng nhân đạo đó là phải chứa đựng một cái gì đó công bằng bình đẳng. Trong tác phẩm của mình Nam Cao luôn đòi? là nhà văn phải có có tinh thần nhân đạo cao cả điều này thể hiện khá rõ nét trong đời thừa, Nhân vật Hộ có nhiều hoài bão ước mơ về nghệ thuật nhưng anh ta vẫn vẫn có thể hy sinh Nghệ thuật cho cuộc sống. Từ nhân vật này để cho mọi người đọc rút ra bài học trước khi viết những tác phẩm với nghệ thuật thì con người ta phải sống nhân đạo. Nam Cao không chỉ đặt ra vấn đề đôi mắt trong thiện truyện cùng tên mà ông đã nêu vấn đề này từ trước qua nhiều tác phẩm của mình đặc biệt lời đề từ cho truyện ngắn “nước mắt” có thể xem là tuyên ngôn của ông khi viết về hiện thực chủ nghĩa: “người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt giáo hoảnh của phường ích kỉ” nước mắt là miếng kính biến hình của vũ trụ câu nói ấy có nghĩa là nhà văn phải nhìn đời bằng đôi mắt tình thương mới thấu hiểu được hết bản chất tốt đẹp của con người dù cho bề ngoài có cộc cằn xấu xí Thái độ của Nam Cao đối với các nhà văn: Nam Cao rất coi trọng vai trò của chủ thể sáng tác luôn đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi sáng tạo trong đời thừa. Nam Cao khẳng định văn chương không cần đến những người thợ khéo tay mà văn chương biết làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương cần những người biết đào sâu biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có. Điều đó chứng tỏ ông yêu cầu người cầm bút phải luôn sáng tạo về nội dung hình thức của tác phẩm. Đặc biệt với mọi nhà văn phải có lương tâm Nghề nghiệp không được cẩu thả trong đời thừa. Nam Cao khẳng định sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì đều là bất lương nhưng sự cẩu thả trong văn chương không chỉ bất lương mà còn đê tiện Đặc điểm nghệ thuật của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám: Sau cách mạng tháng Tám đặc biệt trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Nam Cao sống rồi hãy viết có nghĩa là: “muốn viết tốt nhà văn phải xâm nhập vào cuộc sống để có vốn sống vốn hiểu biết thì mới có thể… Văn Chương” bản thân Nam Cao rất tận tụy trong mọi công việc III Đánh giá Thông qua việc tìm hiểu về nghệ thuật Nam Cao để người đọc thấy rõ được Nam Cao đã phản ánh khá chân thực về cuộc sống của người dân lao động. Nhà Văn tiếp tục khẳng định sứ mệnh của tầng lớp mình là viết để phục vụ chiến đấu phục vụ cuộc sống. Đây là một bước tiến vượt bậc trong quyết định nghệ thuật của Nam Cao nó cho thấy sự gặp gỡ tất yếu giữa văn học hiện thực chân chính với văn học cách mạng C Kết thúc vấn đề Từ những tìm hiểu người đọc đi đến khẳng định đây là những quan điểm mang nguyên tắc của xu hướng hiện thực tiến bộ văn học chân chính nói chung. Quan điểm nghệ thuật đó của Nam Cao cho thấy ông thực sự là một nhà văn lớn với nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn học dân tộc
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA <Trích Số Đỏ_Vũ Trọng Phụng> Trình bày hiểu biết của mình về cuộc đời, sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia. A Đặt vấn đề Với một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Vũ Trọng Phụng đã kịp để lại dấu ấn sâu sắc trên Văn Đàn Việt Nam bằng khả năng sáng tạo dồi dào bằng sự xông xáo khám phá và có lẽ đặc biệt bằng chính sự hiểu biết sâu sắc về xã hội đương thời. Nên Vũ Trọng Phụng đã trở thành đại diện xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực 30 - 45 B Giải quyết vấn đề Cuộc đời sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng Cuộc đời: sinh năm 1912 - 1939 sinh tại Hà Nội trong một gia đình nghèo quê gốc ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Sống mồ côi cha được trưởng thành và lớn lên nhờ sự dạy dỗ của người mẹ nhưng ông cũng chỉ học hết bậc tiểu học học. Ông đã từng trải qua các công việc như thư ký, bán hàng, đánh máy cho nhà in. Nhưng rồi đều bị đuổi việc từ đó ông chuyển sang viết báo, viết văn chuyên nghiệp. Sống chật vật với nghề. Khoảng 1937 - 1938 Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao phổi nhưng không có điều kiện chạy chữa ông mất khi vừa mới 27 tuổi tại Hà Nội Sự nghiệp: Vũ Trọng Phụng bắt đầu có chuyện đăng báo 1930 khi tác giả mới 18 tuổi ngoài tên thật Ông còn dùng thêm bút danh Thiên Hư. Ông là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào không đầy 10 năm viết văn nhưng ông để lại đại học khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều thể loại: truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết, kịch nói, phê bình văn học, bình luận thời sự, phóng sự, dịch thuật… Nhưng nhưng thành công nổi bật nhất là ở hai thể tiểu thuyết và phóng sự. Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc như: Cạm Bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936). Với tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được đánh giá là cây bút tiểu thuyết trào phúng bậc thầy với nhiều tác phẩm: giông tố, số đỏ, vỡ đê (sáng tác 1936), lấy nhau vì tình (1937), trúng số độc đắc (1938) Nội dung Bao trùm lên toàn bộ các sáng tác của Vũ Trọng Phụng là tiếng thét căm hờn và sức mạnh tố cáo đối với hiện thực xã hội đen tối, thối nát đương thời một kiểu văn hóa mà ông gọi thẳng đích danh là “xã hội chó đểu, xã hội khốn nạn” -> Vũ Trọng Phụng được đánh giá là cây bút văn xuôi tài năng ông để lại nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn 1930-1945 - “Số Đỏ”, “Hạnh phúc của một tang gia” => Tiểu thuyết số đỏ là tiểu thuyết trào phúng đặc sắc gồm 2 huy chương là một tác phẩm xuất sắc của Vũ Trọng Phụng được đăng ở Hà Nội báo 1936. Được in thành sách lần đầu năm 1938. Cuốn tiểu thuyết này xoay quanh chủ đề Xuân Tóc Đỏ Một đứa trẻ mồ côi, vô học kiếm sống bằng nghề chèo me, chèo xấu, nhảy tàu, bán thuốc lậu, nhật banh sân quần vợt… rồi tình cờ kiếm được việc làm tại nhà may Âu hóa. Cũng vô tình Xuân đã trở thành đốc tờ Xuân, thành nhà cải cách xã hội, thành giáo sư quần vợt, anh hùng cứu quốc… cuối cùng được nhận huân chương Bắc Đẩu bội tinh và trở thành ông con rể quý hóa của cụ Cố Hồng. Hạnh phúc của một tang gia do người biên soạn đặt cho đoạn trích trong nguyên bản này có tên đầy đủ là:”Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cùng nói vào - một đám ma gương mẫu”. Đây là chương thứ 15 của tác phẩm nhấn mạnh tới nội dung niềm sung sướng của tất cả mọi người trước cái chết của cụ cố tổ, trước niềm vui sướng. Họ chuẩn bị một đám ma gương mẫu linh đình. -> Chương truyện này được đánh giá là màn hài kịch xuất sắc nhất của Số Đỏ. Giúp cho chúng ta phần nào hiểu được sự lố lăng đồi bại trong xã hội đương thời, tài năng nghệ thuật bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. C Kết thúc vấn đề Qua những tìm hiểu trên giúp chúng ta phần nào hiểu được chủ đề, sự nghiệp tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng đồng thời hiểu được phần nào về bút pháp trào phúng trong truyện tiểu thuyết nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng: Số Đỏ Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 2)
Phân tích ý nghĩa nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia” A Đặt vấn đề (như đề 1) B Giải quyết vấn đề Số Đỏ được xem là kiệt tác của vũ trụ cũng là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 xuất bản dưới dạng đăng nhiều kỳ trên Hà Nội báo bắt đầu từ số 40 năm 1936 được in thành sách lần đầu năm 1938 Hạnh phúc của một tang gia là chương thứ 15 của tiểu thuyết Số Đỏ tên đầy đủ của chương: “Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh cùng nói vào - một đám ma gương mẫu” Đánh giá - phân tích: nhan đề chương truyện Hạnh phúc của một tang gia rất lạ, giật gân. Lạ và giật gân bởi sự kết hợp từ ngữ, bởi ý nghĩa nhấn mạnh mà nhà văn muốn thể hiện trong sự kết hợp ấy. Hạnh phúc chỉ niềm vui sự sung sướng ở mức độ tột đỉnh. Tang ra chỉ gia đình có người chết ở đó có duy nhất một điều là sự mất mát và đau buồn. Sự kết hợp của từ ngữ này đã tạo ra sự mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa vui và buồn giữa cái được và mất Ý nghĩa: một mặt nó thu hút sự tò mò chú ý của người đọc. Mặt khác nó phản ánh rất đúng sự mỉa mai hài hước đó là: lũ con cháu của cái đại gia đình này thực sự sung sướng, hạnh phúc khi cụ cố chết. Nhưng đây cũng chính là tình huống trào phúng chính yếu của cả chương truyện. Tang gia và hạnh phúc hai khái niệm hai trạng thái cảm xúc trái ngược nhau nhưng cùng tồn tại trong một bối cảnh. Có người chết mà lại vui vẻ, sung sướng. Đó chính là một niềm hạnh phúc của một gia đình vô phúc là niềm vui của lũ con cháu bất hiếu, bất nhân bất nghĩa. Thông qua đó Nhà văn phần nào giúp người đọc hình dung được thái độ của con người và bản chất lố lăng phi đạo đức của xã hội đương thời C Kết thúc vấn đề Chính vì vậy mà nhan đề hạnh phúc của một tang gia được coi là màn hài kịch xuất sắc nhất - Số Đỏ có lẽ cũng bởi chính nhan đề của tác phẩm Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 3)
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia A Đặt vấn đề Sổ đỏ là một kiệt tác “vô tiền khoáng hậu” ở Việt Nam một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho nền văn học (Đây là nhận định của Nguyễn Khải). Qua Số Đỏ xã hội tư sản việt nam đương thời đang bước vào cuộc cách tận văn minh dởm hiện lên thật nhố nhăng đồi bại như 1 tấn đại hài kịch. Hơn thế nữa tác phẩm này còn là minh chứng hùng hồn cho tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Xét ở đây chính là nghệ thuật trào phúng sâu sắc điêu luyện điều đó lại được thể hiện khá rõ nét của đoạn trích hạnh phúc của một tang gia. B Giải quyết vấn đề 1 Khái quát 2 Xuất xứ hoàn cảnh nội dung của tác phẩm 3 Vị trí và nội dung của đoạn trích 4 Giới thiệu về nghệ thuật trào phúng Trào Phúng vốn là loại hình nghệ thuật trong văn chương xưa và nay đặc biệt của nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo ra tiếng cười những tiếng cười trong tác phẩm trào phúng không phải là tiếng cười giải trí thông thường mà nó là tiếng cười có ý nghĩa xã hội nhân sinh. Thường được dùng như một vũ khí để đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp. Bởi vậy nghệ thuật trào phúng thường nảy sinh trong xã hội có nhiều mâu thuẫn. Tài năng của người viết tác phẩm trào phúng phải là người biết phát hiện ra những mâu thuẫn trào phúng ấy, mâu thuẫn ấy có thể là mâu thuẫn giữa bên trong và bên ngoài hay giữa nội dung và hình thức, mâu thuẫn giữa hình tượng và bản chất, giữa phi lý và hợp lý để tạo ra tiếng cười. Nghệ thuật trào phúng cho phép và đòi hỏi nhà văn phải sử dụng những thủ pháp cường điệu phóng đại để đẩy mâu thuẫn trào phúng ấy lên tới đỉnh điểm. 5 Khái quát chung nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia Nếu hiểu về nghệ thuật trào phúng và đặc sắc của nghệ thuật trào phúng như vậy thì ta nhận thấy nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng đã rất thành công ở những phương diện trào phúng cơ bản sau Tài nghệ trào phúng của tác giả được xây dựng qua chân dung biếm họa Nghệ thuật xây dựng hình tượng tập thể Ở nghệ thuật sử dụng cường điệu, phóng đại Thể hiện qua giọng điệu và từ ngữ Phân tích 1 Chất trào phúng được thể hiện ngay trong Nhan đề và tình huống truyện (Câu 2) Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 4)
1 Tài nghệ trào phúng của tác giả được xây dựng qua chân dung biếm họa a Chân dung biếm họa cá nhân (các thành viên trong gia đình cụ cố Tổ) Niềm vui chung của cả đại gia đình này: cái chết của cụ cố tổ đã đem lại niềm vui hiếm có cho cái đại gia đình này. Bởi lẽ ông cụ ấy đã có một gia tài và có một cái cái chúc thư và chỉ khi ông cụ chết đi thì lũ con cháu bất hiếu kia sẽ được mở chúc thư đồng thời với việc họ sẽ biết mình được chia bao nhiêu phần trong gia tài ấy. Nhưng bên cạnh niềm vui chung là vì tiền đó với mọi người trong cái gia đình này còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau thật đúng là “muôn hình vạn trạng”. Do vậy càng làm đậm nét hàng loạt các chân dung biếm họa hài hước Người sung sướng đầu tiên là ông Phán mọc sừng: là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong cái đám người nhận được tin vui ngay sau cái chết của ông cụ cố tổ cũng không phải ngẫu nhiên cụ Cố Hồng lại chọn ông con rể quý hóa ấy là người đầu tiên để nhỏ to vào tai rằng sẽ chia cho con gái, con rể thêm một số tiền nữa là vài nghìn đồng. Bởi chính ông ta một đạo diễn tài ba đã đặt câu “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng” vào miệng của một diễn viên xuất sắc là Xuân Tóc Đỏ để dẫn đến cái chết “đáng mừng” kia. Cho nên ông ta xứng đáng là người đầu tiên được hưởng thành quả từ cái chết của cụ cố tổ, niềm vui của ông ta đơn giản và phàm tục nhưng rất đúng với tâm lý của một con buôn khi gặp món “bở” món “hời”. Ông ta rất ngạc nhiên không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu mình lại to như thế. Ông hào hứng mơ tưởng đến một cuộc hợp tác lâu dài với Xuân Tóc Đỏ dâng lên tới đỉnh điểm với niềm phấn khích. Ông muốn gặp ngay Xuân Tóc đỏ để thanh toán nốt 5 đồng vì buôn bán phải giữ chữ tín Cụ Cố Hồng: mới chỉ 60 tuổi nhưng lúc nào cũng muốn người ta gọi là cụ cố. Không có hiểu biết gì mở mồm là nói “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Niềm vui của ông ta vì bố ruột chết háo danh mù quáng đến mức ngu xuẩn và lố bịch “bố chết là dịp may để cho ông ta nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc được mặc đồ xô gai, lụ khụ… khóc mếu” Để diễn trò già nua trước bàn dân thiên hạ. Để mọi người chỉ trỏ khen là “Úi giời con trai lớn đã già thế kia à”. Đây là đứa con đại bất hiếu. Vợ chồng Văn Minh Văn Minh chồng: là người gầy gò ốm yếu nhưng luôn hô hào với mọi người tập luyện thể dục thể thao. Là cháu đích tôn của người chết, đứa cháu này rất hạnh phúc vì cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viện bông nữa hắn chỉ lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội. Mặt khác Ông phải đắn đo suy nghĩ về cách xử trí với Xuân Tóc Đỏ bởi Xuân là chủ của “hai cái tội nhỏ, một cái ơn to”. Cho nên ông ta vò đầu bứt tóc đăm chiêu nhưng thành thực lại rất hợp thời trang hợp với cái mặt con người nhà có tang gia bối rối. Điều này ngược đạo lý khiến nhân vật tự vạch trần được bản chất dả dối của mình Văn Minh vợ: “sốt ruột vì mãi chưa được mặc những đồ xô gai tân thời…” niềm vui của bà ta nhuốm vẻ con buôn, bà hạnh phúc khi được lăng xê quảng cáo không mất tiền cho cửa hàng âu hóa của mình qua đó tác giả nhằm lên án cuộc cải cách âu hóa đã len chân vào cả một đám tang vốn không là nơi để chưng diện Cậu Tú Tân: chưa bao giờ cậu đỗ tú tài do phát tang muộn nên cậu ta cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi không dùng đến. Một điều đặc biệt nữa là lúc hạ huyệt cậu luộm nhuộm với chiếc áo thun trắng bắt bẻ từng người một để cậu chụp ảnh làm kỷ niệm -> đám tang ông nội là đám tang hiếm có để cậu giải trí và thể hiện tài nghệ chụp ảnh của mình Cô Tuyết xuất hiện với khuôn mặt buồn lãng mạn nhưng rất hợp mốt. Buồn vì không tìm thấy bạn trai đâu cả vì vậy trong lòng Tuyết ngổn ngang những câu hỏi:” tại sao Xuân không -> phúng viếng” điều ấy khiến tuyết đau khổ một cách rất chính đáng Thấy thiên hạ đồn rằng mình hư hỏng nhiều nên Tuyết bèn mặc bộ y phục ngây thơ:” cái áo dài voan mỏng trong có cooc-xê trong như hở cả nách và vú” để cho thiên hạ thấy rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Tuyết đưa tang ông nội không phải vì thương vì đạo hiếu với ông mà vì mục đích khác đó là để khoe sắc đẹp để thanh minh cho mình mình đặc biệt là để tìm Xuân -> Tuyết đại diện cho các cô gái hư hỏng giả dối trong xã hội Việt Nam Cách Mạng Tháng 8 Bà cụ Cố Hồng: khi Xuân Tóc đỏ xuất hiện đột ngột trước đám tang cùng bà bà thì cụ bà sung sướng cảm động vô cùng mà kêu lên: “ấy giá như không có món ấy thì thiếu chưa được to, may mà Xuân đã nghĩ hộ” -> Bà ta giống như chồng háo danh và bất hiếu => Tất cả các thành viên trong gia đình này trước cái chết của cụ cố tổ mỗi người đều có một niềm vui khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở sự tàn nhẫn và bất hiếu => Qua chân dung biếm họa về các thành viên trong gia đình này người đọc chua xót nhận ra sự băng hoại đạo đức, những lối sống háo danh, hão huyền, thực dụng đã bào mòn đi những tình cảm gia đình thiêng liêng, tình cảm cao quý trong mỗi con người. b Chân dung biếm họa tập thể (Tang khách) Niềm hạnh phúc do cái chết của cụ cố tổ đem lại không khí tràn ngập trong gia đình cụ mà còn lan ra cả những người tới dự lễ tang Hai cảnh sát: Min-đơ, Min-toa thì vui vì được ghi biên bản phạt, đang lúc thất nghiệp nhưng như nhà buôn sắp vỡ nợ thì được thuê giữ trật tự cho đám tang nên sung sướng cực điểm đã trông nom hết lòng nên thành thực tang gia ai cũng vui vẻ Những ông bạn thân của cụ Cố Hồng: Họ đều đến đám tang là có dịp khoe các loại râu, các loại huân chương cao quý, đặc biệt hơn họ còn cảm thấy vui vì được ngắm bờ ngực thấp thoáng trong bộ y phục ngây thơ của cô Tuyết -> Bản chất háo danh dâm ô của lũ người này Các khách bà: khoe mốt để bình phẩm chê bai nhau nói với nhau về một cái cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Có nghĩa là họ biến đám tang thành cuộc vui họp mặt. Các giai thanh gái lịch Hà Thành đến đám tang để tìm nhau, cười tình nhau, chê bai nhau… bằng những vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma Sư cụ Tăng Phú sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng, trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo Xuân Tóc Đỏ: Nhưng người hạnh phúc nhất có lẽ là Xuân dù anh ta có vẻ như không ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc. Về danh dự, cái chết của cụ tổ đã khiến cho danh dự của Xuân to thêm. Về tiền bạc, ông Phán Mọc Sừng đã thanh toán nốt số tiền giết người ngay trong đám tang, mua chuộc Xuân bằng 5 đồng để hắn ta tố cáo chuyện vợ mình hoang dâm, nhằm được ông cố Hồng chia thêm vài ngàn đồng Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 5)
Nghệ thuật xây dựng hình tượng tập thể cảnh đám tang Theo như sở nguyện của hai vợ chồng cụ cố Hồng thì đám ma cụ tổ phải là một đám ma mẫu mực, to tát chưa từng có và cái đại gia đình ấy đã làm được điều đó. Tuy nhiên, đây là một đám tang mẫu mực cho sự biến tướng quái gở trong lối sống của lớp người giàu có mới nổi chỉ còn biết nghe theo tiếng gọi của những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa lý với bất cứ sự kiện gì cũng có thể tạo thành một cuộc hội hè cho dù là một đám tang đi nữa. Miêu tả cảnh đám tang : Điệp khúc “đám cử đi” đã biểu lộ cho ai cũng có thể thấy đám tang đích thực là một đám rước, càng đi càng đông, đưa đi đến đâu làm huyên náo đến đây. Nhạc điều thì có đủ kèn Ta, kèn Tàu, kèn Tây thay nhau mà rộn lên như thể đua nhau mà tạo tiếng ồn. phúng viếng lại càng đa tạp, trong cả ra đường hàng trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa… Người đưa tiễn kẻ quá cố đông đúc, sang trọng nhưng chen lẫn giữa xe và người. Đã thế lại có đến một nửa là phụ nữ, phần lớn là tân thời. Chính vì thế mà càng ồn ào, huyên náo Nhận xét của tác giả: “ ả thật là đám ma to tát” => Nhận xét chung: về ngoài đám tang được miêu tả rất to và sang trọng bởi nó thừa các nghi lễ vật chất nhưng lại thiếu một điều duy nhất và quan trọng nhất là sự tiếc thương dành cho người đã khuất qua đó đó tác giả Tố cáo sự cố nâng cao độ mất hết tình người của một xã hội đều giả. Điệp Khúc: “đám cử đi” lặp lại hai lần thành một câu và một đoạn với nhiều nghĩa là đám tang đưa người đã khuất về nơi an nghỉ cuối cùng hay là một đám rước, một đám hội của những kẻ đang sống, lửng lơ, chơi vơi, chua chát. Điệp khúc ấy giống như một chi tiết quan trọng tô đậm thêm ý nghĩa sự nhố nhăng, vô lương tâm ấy vẫn cứ đang diễn ra không hề dừng lại và không biết bao giờ mới kết thúc. Đây là cuộc hành trình tới mồ của cả một xã hội tưởng giả thối nát mà Vũ Trọng Phụng gọi là “xã hội khốn nạn chó đểu” Bút pháp nghệ thuật Cường điệu phóng đại đối lập: Cường địa phóng đại để biếm họa về diện mạo của ông Văn Minh (vò đầu bứt tóc đăm đăm chiêu chiêu), trang phục là cô Tuyết (bộ trang phục ngây thơ) Cường điệu biếm họa về hành vi Cậu Tú Tân bắt bẻ mọi người Đặc sản tâm lý kiểu tâm lý tư sản nửa mùa bằng cường điệu cảm xúc suy nghĩ chính là việc đánh đo giữa công và tội của Xuân Tóc Đỏ -> Tất cả những cường điệu đó đã lột tả được những nét “quái dở” của những con người trong xã hội “quái thai” Nghệ thuật đối lập giữa nội tâm và ngoại diện đã lột tẩy bản chất của đối tượng cụ Cố Hồng. Nhà văn đã lột tẩy soi thấu tim đen của cụ Cố Hồng để chỉ ra ra cho bạn đọc biết rằng đằng sau cái dáng điệu nhắm nghiền mắt lại kia mà ai đó tưởng rằng vì ông ta quá thương bố nhưng ngược lại ông ta lại mơ màng tưởng tượng ho khạc, khóc mếu để mọi người khen mình có hiếu. Còn Văn Minh đằng sau vẻ đăm đăm chiêu chiêu là toan tính cá nhân, đằng sau nỗi buồn của Tuyết là thiếu vắng bạn trai, đằng sau những vòng hoa, những ông khách sang trọng những bộ quần áo hợp thời kia là cả một xã hội cặn bã thối nát được phơi bày Giọng điệu và ngôn ngữ Vũ Trọng Phụng đã pha trộn nhiều giọng điệu để tạo ra một giọng điệu mới đó là sự pha trộn giữa giọng điệu hài hước bông hoa trong câu văn nói về hai viên cảnh sát buồn như những nhà buôn sắp vỡ nợ lại được thuê giữ trật tự cho đám ma. Kết hợp với giọng điệu châm biếm công kích thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng mỉm cười Giọng điệu giễu nhại xen lẫn với trang nghiêm thật là đủ dai thanh gái lịch nên họ chim nhau. Ngược lại bằng những vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma hay giọng điệu khách quan: “đám cử đi đi”
TÁC PHẨM - CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ (NGUYỄN TUÂN) I Tìm hiểu chung 1 Xuất xứ Hoàn cảnh sáng tác: ban đầu có tên “dòng chữ cuối cùng” in 1938. Sau đó được đưa vào tập “vang bóng một thời” một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng 8 gồm 11 truyện ngắn với các nhân vật chính “Nho sĩ cuối mùa hạ” là những con người tài hoa nhưng bất đắc trí trước sự thay đổi trong xã hội thực dân nửa phong kiến. 2 Giá trị tác phẩm a Nội dung Tác giả thể hiện những nét đẹp truyền thống: viết chữ, chơi chữ. Nét đẹp về con người tài hoa nghệ sĩ: Huấn Cao - người sáng tạo ra cái đẹp, Quản ngục - người biết tôn thờ cái đẹp. b Nghệ thuật Nguyễn Tuân tạo dựng tình huống Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Nguyễn Tuân xây dựng cảnh, giọng điệu đến ngôn ngữ => Thể hiện rõ phong cách cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Phân tích những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù” - Nguyễn Tuân. A Đặt vấn đề Giới thiệu về tác giả tác phẩm. Dẫn vào yêu cầu đề: Chữ Người Tử Tù được đánh giá là kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Bởi lẽ Tác phẩm này không chỉ kết tinh được giá trị nhân văn đẹp đẽ mà còn hội tụ được đầy đủ những đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám. Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật dựng chuyện khắc họa nhân vật và có lẽ đặc biệt nhất là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện. Có thể khẳng định Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo giàu ý nghĩa ở Chữ Người Tử Tù. B Giải quyết vấn đề I Khái quát 1 Xuất xứ hoàn cảnh sáng tác 2 Giới thiệu về tình huống truyện Tình huống truyện là những tình thế đặc biệt những hoàn cảnh bất thường có ý nghĩa thử thách bản lĩnh con người và tình huống truyện trong tác phẩm tự sự có vai trò đặc biệt quan trọng. Thể hiện tính cách số phận của nhân vật Thể hiện nội dung, tư tưởng, tài năng nghệ thuật của tác giả Gợi ra mối tương quan giữa các nhân vật sự kiện trong truyện Một số nhận xét nổi tiếng của các nhà văn nhà nghiên cứu văn học về tình huống truyện: Nguyễn Minh Châu “tình huống là lát cắt của cuộc sống mà qua đó ta thấy được trăm năm của một đời thảo mộc” Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh “tình huống như một thứ nước rửa hình rửa ảnh có thể làm nổi bật được bản chất của nhân vật và tư tưởng của tác giả” 3 Nhận diện tình huống truyện trong truyện ngắn Chữ Người Tử Tù - Nếu hiểu về tình huống như vậy thì ở truyện ngắn Chữ Người Tử Tù Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo hấp dẫn: Tình huống gặp phải oái ăm giữa hai nhân vật Huấn Cao - Quản ngục. Một người sáng tạo ra cái, đẹp một người yêu thương trân trọng cái đẹp. Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 2)
I Phân tích 1 Mô tả cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và Quản ngục a Tính chất oái oăm của cuộc gặp gỡ này Thời gian: canh 3 lúc nửa đêm Không gian: tại buồng giam của tử tù -> Không gian, thời gian khá đặc biệt cuộc gặp gỡ ấy xảy ra nơi chốn ngục tù. Đây vốn không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ bình thường đặc biệt đấy là thời gian gặp gỡ cuối cùng của cuộc đời con người tài hoa. Tình thế và mối quan hệ giữa Huấn Cao và Quản ngục Quan hệ xã hội: họ là kẻ thù của nhau, họ đối lập. Quan hệ Nghệ thuật: là những người tri ân, tri kỷ Giữa hai con người này còn lại sinh một tình thế quan hệ nữa: quan hệ về mặt quyền lợi Phân tích: Huấn Cao vì là kẻ tử tù cho nên không có quyền lựa chọn hành động cho mình. Còn quản ngục vì là Cai ngục nên có quyền lựa chọn hành động cho bản thân vì thế nhân vật này trong cuộc gặp gỡ với Huấn Cao đã bị đẩy đến sự phải lựa chọn hành động cho mình. Một sự lựa chọn nghiệt ngã nếu quản ngục cố gắng làm chọn chức phận liên quan thì phụ tấm lòng tri kỷ với Huấn Cao. Còn nếu muốn sống trọn đạo tri kỷ buộc phải phản bội chức phận của mình. Sự lựa chọn này chứa đựng hai khía cạnh tính chất khuynh hướng đối với tư tưởng tác phẩm. Nếu Quản ngục lựa chọn làm tròn chức phận của một viên quan thì Quản ngục chỉ là một kẻ rất tầm thường và kéo theo tư tưởng tác phẩm sẽ hướng theo cái tầm thường đang ngự trị xã hội và điều đáng buồn là xã hội này không có chỗ cho cái đẹp tồn tại. Vậy sáng tác của Nguyễn Tuân sẽ theo khuynh hướng lên án xã hội bất công tàn nhẫn, thù địch về cái đẹp. Tiếng nói ấy sẽ bị chìm khuất bởi: “Những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” trong tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Nếu quản ngục lựa chọn sống tri kỷ với Huấn Cao thì nhân vật được khắc họa như một con người cao quý và tư tưởng của tác phẩm sẽ theo hướng ngợi ca tôn vinh sự bất diệt sự chiến thắng của cái đẹp ở đây tình huống truyện đã ngầm chứa tư tưởng của tác phẩm. Tính chất oái ăm gặp gỡ Huấn Cao - Quản ngục là sự dối mặt ngang trái của hai loại tù nhân hai kiểu nhà tù. Huấn Cao bị cầm tù trong nhà tù hữu hình bị cầm tù về nhân thân nhưng tự do về tâm hồn. Quản ngục là Cai ngục nhưng bị tù chung thân trong cái nhà tù vô hình ở chính môi trường sống và làm việc của bản thân. Bị cầm tù về nhân cách Bề ngoài Quản ngục tỏ ra là người rất tận tụy với chức phận có khi người đọc cảm nhận được nhân vật này về hùa về cái xấu với cái đẹp. Nhưng thực chất đó là con người luôn hướng tới cái tốt đẹp, mà Nguyễn Tuân nói “nó là thanh âm trong trẻo…” Nếu như không có cuộc gặp gỡ này thì Quản ngục sẽ bị cầm tù suốt đời. Quản ngục được tự do về nhân thân nhưng không cứu được Huấn Cao thậm chí trước khi Huấn Cao bị đưa ra pháp trường thì chính Huấn Cao lại cứu Quản ngục thoát khỏi nhà ấy. Đồng thời với việc trao cho Quản ngục con chữ Huấn Cao khuyên quản ngục thay chỗ ở, đổi nghề. Quản ngục cung kính nhận lấy con chữ, cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” => Đến đây người ra quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Tuân hiện ra rõ rệt cái đẹp có khả năng cảm hóa con người giúp con người ta hướng đến cái thiện làm điều tốt đây là tư tưởng tiến bộ đầy chất nhân văn Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 3)
b Diễn biến của cuộc gặp gỡ Ban đầu cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và Quản ngục diễn ra rất khó khăn. Cuộc gặp gỡ ấy bắt đầu vào lúc Quản ngục nhận được phiến trát của quan trên thông báo sẽ được nhận 6 tử tù chờ ngày ra pháp trường xử chém. Trong đó có Huấn Cao. Quản ngục đã ấp ủ một sở nguyên một tâm nguyện: muốn được biệt đãi Huấn Cao muốn xin được chữ của Huấn Cao và Quản ngục biết rằng có được chữ ông Huấn mà treo như vật báu trong nhà. Nhưng Quản ngục cũng thừa hiểu tính Huấn Cao ít cho chữ trừ những người tri kỷ. Trong khi đó Huấn Cao lại coi quản ngục là kẻ tiểu lại giữa tù và hơn thế Huấn Cao tỏ ra khinh bị tỏ ra mặt: “Từ nay ngươi… nữa”. Cách ứng xử đó khiến Quản ngục rất đau khổ vì có được ông Huấn trong tay hàng ngày được giáp mặt ông Huấn nhưng ngày càng bị đẩy ra xa, nguy cơ không xin được chữ của Huấn Cao. Về sau cuộc kỳ ngộ ấy được đẩy lên kịch tính khi quan coi ngục nhận được phiến trát lần 2. Sáng mai sẽ giải Huấn Cao và kinh để xử tội. Chính điều đó đã khiến Quản ngục tái nhợt người vì nuối tiếc người tài vì đau khổ khi tâm nguyện không thành. Tất cả nỗi niềm ấy Quản ngục đã tâm sự với thầy thơ lại và thầy thơ lại là nhịp cầu nối giữa Huấn Cao và Quản ngục. Khi biết rõ được sở nguyện cao quý của Quản ngục ngay lập tức Huấn Cao đã thay đổi thái độ con người ngang tàng khinh bạc ấy đã nói với thầy thơ lại những lời cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Câu nói ấy chứa đựng sự chân thành của Huấn Cao trước Quản ngục. Quản Ngục chính thức được Huấn Cao kết nạp vào hàng ngũ những người tri kỷ của mình. Hé mở một khía cạnh có tính chất lý tưởng trong tính cách của Huấn Cao: con người chưa bao giờ khuất phục trước bạo quyền mà giờ đây đã cúi đầu trước tấm lòng của Quản ngục. -> quan hệ đối lập giữa họ hoàn toàn được xóa bỏ thay thế vào đó là quan hệ tri âm đã được tạo lập. Sự xúc động có tính đạo đức này đã tạo nên một sự xúc động thẩm mỹ là cơ sở để cái đẹp ra đời đó là sự ra đời của con chữ của Huấn Cao. Kết thúc của gặp gỡ là cảnh cho chữ: cảnh xưa nay chưa từng có tại buồng giam nơi tử tù, thời gian lúc nửa đêm. Ở đó sự ra đời của các con chữ là kết quả của sự chuyển hóa kỳ diệu giữa cái tâm và cái tài hay nói cách khác đó là sự chuyển hóa kỳ diệu của cái tâm nơi quản ngục với tấm lòng và cái tài nơi Huấn Cao. Những con chữ là hiện thân của cái đẹp nó được tạo lập từ cái đẹp của tài năng và cái đẹp của tình người. => Cái đẹp của nghệ thuật có nguồn gốc từ cái đẹp của tình người. Nó là sự thăng hoa của cái đẹp trong tình người. => Kết thúc cảnh cho chữ ta thấy có sự đảo lộn kỳ diệu về vị thế của Huấn Cao. Của Huấn Cao và quản ngục, trật tự xã hội bị phế bỏ. Trật tự mới bị tạo lập trong đó con người hiện ra không còn khoảng cách vì họ cùng hướng về cái đẹp khao khát sẵn sàng vươn tới một cái đẹp toàn thiện. Ý nghĩa Tình huống truyện làm nổi bật được bản chất của nhân vật Qua tình huống truyện gặp gỡ độc lập giữa Huấn Cao và Quản ngục. Nguyễn Tuân đã khắc họa được một cách sâu sắc về bản chất của hai nhân vật. Huấn Cao hiện lên như một hình tượng lãng mạn lý tưởng với sự hài hòa của vẻ đẹp tài năng đến độ tài hoa. Vẻ đẹp của người anh hùng lẫm liệt với một thiên lương cao quý. Đó là con người tài hoa khí phách, nhân cách. Quản ngục nhờ tình huống truyện đã được tác giả làm nổi bật với những phẩm chất cao quý là con người có tấm lòng biệt nhỡn liên tài có sở nguyện cao quý. Luôn nỗ lực giữ thiên lương trong sáng trong môi trường xấu xa đầy lừa lọc tàn nhẫn. Đánh giá: Nếu không có tình huống truyện này thì Huấn Cao sẽ không được khắc họa là một hình tượng lý tưởng, Quản ngục sẽ không chiếm được tình cảm, sự yêu mến của người đọc như hiện tại. Tình huống truyện làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm tư tưởng nhân văn của tác phẩm Nhờ tình huống truyện mà giá trị tư tưởng của tác phẩm được thể hiện một cách sâu sắc nhất: Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào cái đẹp, sự chiến thắng của ánh sáng và bóng tối, cái đẹp thắng cái xấu xa. Cái đẹp cái thiện đã cảm hóa được cái xấu xa cái ác. Qua đó Nguyễn Tuân đã khẳng định tài - tâm, đẹp - thiện không thể tách rời nhau. Sự giữ gìn trân trọng nâng niu những giá trị truyền thống của dân tộc như chơi chữ, viết chữ, hiểu được những giá trị cao cả của chữ là biểu hiện của lòng yêu nước. Đánh giá Dựa vào những vấn đề đã tiếp cận ở trên người đọc đã nhận thấy rõ nét đem lại thành công cho tác phẩm một phần không nhỏ chính là sự thành công trong nghệ thuật, tình huống truyện. Thông qua nét nghệ thuật đó người đọc càng cảm phục hơn với tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân “Chữ Người Tử Tù” xứng đáng được coi là tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Tuân. Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 4)
Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù - Nguyễn Tuân” A Đặt vấn đề Tác giả tác phẩm đề B Giải quyết vấn đề 1 Khái quát 2 Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác. 3 Giới thiệu về đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm là nói tới vẻ đẹp riêng vẻ đẹp khác biệt của tác phẩm ở việc lựa chọn hình thức nghệ thuật để thể hiện về cuộc sống và biểu hiện tư tưởng của nhà văn. 4 Chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Chữ Người Tử Tù Ta nhận thấy tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã tạo dựng rất thành công về phương diện nghệ thuật. Tạo ra tình huống truyện độc đáo Nghệ thuật khắc họa nhân vật Bút pháp nghệ thuật Ngôn ngữ, giọng điệu II Phân tích 1 Tình huống Giới thiệu tình huống truyện sau đó nhận diện tình huống trong Chữ Người Tử Tù mô tả và ý nghĩa của cuộc gặp mặt này 2 Nghệ thuật xây dựng khắc họa nhân vật: Huấn Cao - Quản ngục Huấn Cao được tác giả Nguyễn Tuân xây dựng bởi bút pháp lý tưởng hóa Quản ngục được tác giả xây dựng bằng nghệ thuật độc lập và miêu tả tâm lý 3 Bút pháp rượu cạnh tài hoa cảnh cho chữ Nghệ thuật đối lập tương phản Nghệ thuật điện ảnh ở những không gian cho chữ người đọc có thể tưởng tượng được ra cảnh của tử tù, khung cảnh khi cho chữ và những con người. Khi đó là vẻ đẹp của Huấn Cao… 4 Ngôn ngữ giọng điệu Ngôn ngữ: ngôn ngữ cổ xưa và ngôn ngữ hiện đại Giọng văn trầm lắng III Đánh giá chung C Kết thúc vấn đề Nói đến Nguyễn Tuân ta nghĩ tới ngay nhân vật Huấn Cao, một nhân vật được coi là nhân vật đẹp nhất trong văn Nguyễn Tuân Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 5)
Bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân trong Chữ Người Tử Tù A Đặt vấn đề Giới thiệu tác giả tác phẩm, dẫn yêu cầu của đề bài B Giải quyết vấn đề 1 Khái quát 2 Giới thiệu về xuất xứ hoàn cảnh sáng tác 3 Giới thiệu về biện pháp lãng mạn Là một cụm từ thể hiện nét đặc trưng về nghệ thuật ở đó sự vật, sự việc con người được xây dựng hướng theo cái tư tưởng sáng tác của nhà văn chủ ý theo hướng ngợi ca với vẻ đẹp lí tưởng khiến cho đối tượng trong tác phẩm của mình hiện lên rõ nét nhất 4 Kết quả đối tượng biện pháp lãng mạn Chữ Người Tử Tù Với Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân: thì biện pháp lãng mạn được thể hiện ở những phương diện nghệ thuật sau: thủ pháp cường điệu, đối lập, biện pháp so sánh chi tiết giàu sức gợi tả, ngôn ngữ giọng điệu II Phân tích 1 Thủ pháp cường điệu Là thủ pháp quen thuộc của văn học dân gian được nhà văn sử dụng để miêu tả nhân vật nhằm làm nổi bật vẻ đẹp lí tưởng, vẻ đẹp khác thường của hai nhân vật Huấn Cao và Quản ngục. Với nhân vật Huấn Cao (đề 2) nét tài hoa của Huấn Cao khiến mọi sự xung quanh đều trở thành tuyệt mỹ hoàn hảo khi tiếp xúc với tài hoa nhân vật ấy. Lời khen được quản ngục biết qua lời đồn (gián tiếp) được đồn đến nhà tù -> lời khen đồn khiến thầy trò cảm phục, Huấn Cao xuất hiện trong lời đồn như một huyền thoại khiến nhân vật mang vẻ kỳ lạ bí ẩn. Sự xuất hiện của Huấn Cao khiến mọi việc đảo lộn, Quản ngục cũng vậy công việc suy nghĩ bị đảo lộn -> Chính vì vậy vẻ đẹp của Huấn Cao cảm hóa được Quản ngục Huấn Cao là điển hình cho những người nho sĩ với phẩm chất trong sáng sáng, cái tâm cao đẹp. Huấn Cao coi khinh tiền bạc quyền thế “ta nhất sinh không vì tiền bạc quyền thế để ép viết chữ bao giờ giờ” (câu 2) ý thức với người xin chữ Ông chỉ cho chữ với bạn tri kỷ. Huấn Cao là điển hình cho hình mẫu cho những người có khí phách anh hùng Quản ngục: tấm lòng biệt nhỡn thiên tài. Bất chấp vị thế sinh mạng của mình để đối xử tốt với tử tù Huấn Cao một kẻ thù một kẻ đại nghịch của triều đình Sở nguyện cao quý của nhân vật: thể hiện mãnh liệt sâu sắc. Chưa từng giáp mặt với Huấn Cao treo chữ Huấn Cao trong nhà để thưởng thức vẻ đẹp con chữ. Một nhân cách con người khi giáp mặt Huấn Cao thì coi con chữ như “vật báu” khổ tâm lo sợ -> và khi biết một ngày Huấn Cao chết ông ân hận vì không xin được chữ cho nên bằng cả tấm lòng của mình Quản ngục đối xử tốt khiến Huấn Cao cảm động cho chữ. Cái đẹp trong Quản ngục khiến Huấn Cao phải cảm động. Khi Huấn Cao cho chữ Quản ngục cũng là khi Huấn Cao coi Quản ngục là bạn bè tri kỷ đồng thời Huấn Cao có cái tâm trong sáng khí phách anh hùng 2 Thủ pháp nghệ thuật đối lập Nhân cách của nhân vật đối lập với hoàn cảnh sống đó là Quản ngục (hai câu giới thiệu liên tiếp về quản ngục, quản ngục là thanh âm trong trẻo… thuần khiết) Quản ngục hoàn toàn khác với lũ người nơi ngục tù kia. Huấn Cao nói về Quản ngục “nào ta có biết đâu một người… như vậy” Nhân vật Huấn Cao: cảnh Huấn Cao cho chữ Quản ngục, Huấn Cao một người tử tù cổ đeo gông, chân xiềng… -> thể hiện quan niệm nghệ thuật là cái đẹp có thể sản sinh từ đất chết nơi cái xấu cái ác ngự trị Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa hoàn cảnh vị thế của hai con người. Ánh sáng bóng tối thực từ không gian của màn đêm trại giam, bóng tối của không gian ngục tù. Nhưng ánh sáng từ tâm của Quản ngục và Huấn Cao được tỏa ra (cảnh cho chữ) 3 Bút pháp so sánh giàu hình ảnh mang tính chất lãng mạn Ánh Sáng của bó đuốc trong cảnh cho chữ như đám cháy nhà 4 Chi tiết giàu sức gợi cảm Chi tiết Dỗ công miêu tả nền đá xanh lấm tấm dệp Chi tiết Quản ngục cảm động vái lạy và khóc -> Chọn một trong hai chi tiết sau đó đi vào bình giá 5 Ngôn ngữ giọng điệu (Câu 4) III Đánh giá chung Với Chữ Người Tử Tù thành Công đem lại cho Nguyễn Tuân là biện pháp lãng mạn hướng tới và tô đậm những cái phi thường bất thường C Kết thúc vấn đề Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 6)
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua “Chữ Người Tử Tù” Đặt vấn đề Giới thiệu về vị trí vai trò của nhà văn Nguyễn Tuân trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Dẫn vào yêu cầu của đề Giải quyết vấn đề Khái quát Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác (phần giới thiệu) Giới thuyết về phong cách nghệ thuật Là một phạm trù thẩm mỹ chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hiện tượng các phương tiện, biểu hiện nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn văn. Cụ thể trong từng tác phẩm riêng lẻ hay trong trào lưu văn học hoặc trong văn hóa dân tộc Khái quát chung về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua Chữ Người Tử Tù Nguyễn Tuân cũng là người nghệ sĩ tài hoa có cách nhìn và phong cách nghệ thuật độc đáo đó là cái nhìn tài hoa uyên bác thể hiện cảm quan nghệ thuật sắc nhọn về đối tượng luôn luôn tô đậm cái phi thường xuất chúng gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Ngôn ngữ trong văn Nguyễn Tuân có sự biến hóa khôn lường điều này thể hiện khá rõ nét trong Chữ Người Tử Tù Phân tích Chung Trong Chữ Người Tử Tù Nguyễn Tuân luôn thể hiện các tài hoa uyên bác riêng Trong văn học hiện đại Việt Nam: có những nhà văn rất nhạy cảm với sự hài hước để phản ánh hiện thực ví dụ Nguyễn Công Hoan. Có những nhà văn lại mải mê đi vào ngóc ngách bên trong tâm hồn con người ưa phân tích tâm lý con người để làm rõ con người như Nam Cao. Có những nhà văn tinh tế trong việc diễn tả cảm xúc con người như Thạch Lam. Còn với Nguyễn Tuân ông nghiêng về khía cạnh tìm tòi nét thẩm mỹ của con người ở cuộc sống -> nét tài hoa uyên bác riêng của Nguyễn Tuân. Tài hoa Tài hoa ở Nguyễn Tuân là tài về nghệ thuật văn chương. Điều này chứng minh Nguyễn Tuân tài hoa trong cách tạo cảnh xây dựng chân dung nhân vật. Ông luôn tiếp cận sự vật con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ những trang văn của Nguyễn Tuân đã chứng tỏ ông là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Đây là nét đặc biệt trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân nó là xu hướng cảm nhận của riêng ông, xu hướng chiếm lĩnh hình tượng thiên về cái đẹp trong tạo vật và cuộc sống con người. Phân tích hai nhân vật Huấn Cao và Quản ngục để làm rõ. Huấn Cao thể hiện ở ba nét đẹp cơ bản: Người nghệ sĩ tài hoa: chữ đẹp, giá trị con người của Huấn Cao. Khí phách anh hùng: trước khi là tử tù, khi là tử tù Người có thiên lương trong sáng: không vì vàng ngọc, quyền thế mà ép viết chữ -> cho chữ người tri kỷ. Không sợ gì bằng sợ phụ tấm lòng trong thiên hạ Quản ngục: không chỉ Huấn Cao mà điều đặc biệt hơn là nhân vật Quản ngục sống trong chốn nhà tù tăm tối nhưng con người lại mang một tâm hồn nghệ sĩ trong sáng là một đóa sen thơm ngát giữa chốn bùn nhơ -> miêu trực tiếp: thanh âm trong trẻo, cái thuần khiết …xô bồ. -> Dùng công xin chữ Huấn Cao của Quản ngục: Quản ngục rất đề cao giá trị con chữ Huấn Cao như vật báu -> dùng tấm lòng biệt nhỡn liên tài => Với Nguyễn Tuân con người có phong cách nghệ sĩ trong bất kỳ nghề gì có ai đó nói rằng bản chất con người là một nghệ sĩ. Câu nói này đúng với nhân vật Quản ngục Uyên bác Khi miêu tả về sự vật sự việc gì Nguyễn Tuân thường soi vào đó con mắt của nhiều ngành nghệ thuật trí thức mà Nguyễn Tuân có được trong sáng tác của mình. Không phải là những những kiến thức từ sách vở mà là tri thức từ đời sống hiện thực do Nguyễn Tuân rất cầu kỳ công phu, vất vả tích lũy, kiếm tìm. Chứng minh trong truyện ngắn Chữ Người Tử, Tù Nguyễn Tuân đã thể hiện sự am hiểu và vốn kiến thức phong phú ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, thư pháp, nghệ thuật, điện ảnh. Lịch sử nghệ thuật thư pháp: không thể viết về thư pháp nếu không am hiểu được linh hồn cái nhân sinh của nghệ thuật thư pháp thì không thể hiểu được trong câu nói của Quản ngục: “Có được chữ của ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Câu văn ấy ẩn chứa nghệ thuật so sánh chữ của Huấn Cao là vật báu và rõ ràng thì qua câu văn này người đọc còn thấy được quan điểm sống, triết lý sống mà cha ông ta gửi gắm ở nghệ thuật thư pháp một nghệ thuật chơi chữ nghiêm túc trong thú chơi tao nhã, thanh cao. Lịch sử xã hội: Không thể viết về một nhân vật trong quá khứ nếu không hiểu được về phong cách, hình ảnh chính lời ăn tiếng nói của những người có chữ đã từng vỡ nghĩa chữ thánh hiền. Nếu không hiểu về lịch sử thì không thể tạo ra được khung cạnh của trại giam tỉnh Sơn. Nếu không có khung cảnh ấy thì nhân vật chỉ là một thứ hình nộm khô cứng không dễ đi vào lòng người đọc như Quản ngục và Huấn Cao Nghệ thuật của điện ảnh: phải am hiểu về nghệ thuật điện ảnh thì Nguyễn Tuân mới có thể huy động nghệ thuật điện ảnh để viết cảnh cho chữ, mà cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có bao giờ -> Văn chương Nguyễn Tuân là một thứ văn chương uyên bác nó đem lại sự hiểu biết phong phú sâu sắc về thời đại, về con người đặc biệt về đối tượng miêu tả Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 7)
1 Nguyễn Tuân luôn tô đậm cái phi thường khác thường gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt đối với người đọc Lý giải: vốn dĩ Nguyễn Tuân không ưa sự bằng phẳng dễ dãi, nhợt nhạt. Với Nguyễn Tuân đẹp phải đẹp tới độ tuyệt mỹ, đã tài phải đạt tới độ phi phàm. Được chi phối bởi phong cách nghệ thuật này mà Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng Huấn Cao là một người văn võ song toàn, tài viết chữ đạt tới mức tiêu phàm thật, hiếm thật quý khiến thầy trò Quản ngục phải ao ước trầm trồ Chứng minh trong Chữ Người Tử Tù: ở Chữ Người Tử Tù tác giả đã dựng lên một khung cảnh cho chữ từng được xem “Xưa nay chưa từng có bao giờ” Nghệ thuật: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, bóng của nhà tù đối lập với ánh sáng bó đuốc. Ánh sáng sáng tỏa ra từ những tâm hồn cao đẹp như Quản ngục và Huấn Cao và thầy thơ lại. Từ sự đối lập đó nảy sinh nhiều cái khía cạnh đối lập đó là đối lập giữa cái đẹp với cái tầm thường, cái đẹp từ nhân cách con người. Cái tầm thường là ở ngục tù, đối lập giữa hiện thực và lý tưởng. -> Đây là thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học lãng mạn và được Nguyễn Tuân sử dụng một cách triệt để có sức truyền cảm mạnh mẽ tới người đọc, khơi gợi nhiều liên tưởng khác nhau. Cách tạo dựng cảnh: với ngòi bút miêu tả giàu giá trị tạo hình. Cách thể hiện độc đáo, đặc sắc và đặc biệt ở chốn ngục tù có sự đảo lộn về vị thế một cách ghê gớm. 2 Ngôn ngữ phong cách lời văn co duỗi nhịp nhàng Sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn Nguyễn Tuân không phải chỉ ở số lượng phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ và câu Trong Chữ Người Tử Tù tái hiện lại không gian bối cảnh thời đại, Nguyễn Tuân đã đặc biệt chú ý tới việc sử dụng ngôn ngữ cổ kính những từ ngữ phù hợp với phong cách chức năng hành chính thời xưa ví dụ: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, thơ lại, viên quản ngục thầy bát, án thư… Với những từ ngữ phù hợp với phong cách khẩu ngữ người xưa ví dụ: biệt nhỡn liên tài, kẻ tiểu lại, bức trung đường, kẻ mê muội này xin bái lĩnh… Để có được những từ ngữ phù hợp với phong cách và thời đại tạo ra không gian cổ xưa thì người viết phải mất công tìm tòi học hỏi và có một vốn từ đủ dùng thì cần phải có tới một học vần uyên bác Bên cạnh những từ ngữ cổ kính ta cũng bắt gặp những từ ngữ rất hiện đại ví dụ: đám đuốc cháy đỏ rực, đỏ như đám cháy nhà, lửa đóm… Để khẳng định sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối sự chiến thắng của cái đẹp với cái xấu xa, nhơ bẩn. Câu văn: có nhiều kiểu tổ chức đa dạng, ông từng được mệnh danh là người nghệ sĩ của ngôn từ cho nên nhà văn rất chú trọng tới âm điệu và nhịp điệu trong những câu văn xuôi của mình. Nguyễn Tuân từng nói làm người nghệ sĩ phải tạo ra những câu văn có khớp xương để tạo ra sự co duỗi nhịp nhàng. Chính vì vậy trong truyện ngắn này câu văn của Nguyễn Tuân có nhiều màu sắc giàu âm thanh, nhịp điệu trầm bổng, hài hòa: “ tiếng chó sủa ma, tiếng kẻng mô canh nổi lên nhiều nhiều… với những câu văn như thế này một mặt đã tạo ra bản giao hưởng đầy chết chóc của tiếng kẻng, tiếng chó sủa ma. Mặt khác nó khắc họa hình ảnh ngôi sao sao chính vì muốn từ biệt vũ trụ. Câu văn này còn dự báo cái ngày mà ông chuẩn bị giải về kinh xử chém. Như vậy một ngôi sao rất sáng trên bầu trời kia sẽ bị tắt, thế lực thù địch tiêu diệt Huấn Cao xong Huấn Cao lại hiện lên với tư thế chủ động ung dung. Đó chính là chủ ý của Nguyễn Tuân những âm thanh ấy bay dần lên cao để nâng đỡ ngôi sao lên không muốn bị dập tắt -> Vậy khi viết những dòng này Nguyễn Tuân dường như đã bày tỏ lòng khâm phục cùng với sự xót thương trước người hiền tài mà sướng bạc mệnh. => Đến đây người đọc nhận ra rõ ràng văn Nguyễn Tuân rất hàm xúc nhiều ý tưởng sâu xa một thái độ phê phán nhân đạo rất rõ ràng với bản thân. A Lý giải nguyên nhân và chỉ ra ý nghĩa (đánh giá) 1 Nguyên nhân Nguyễn Tuân có tinh thần gắn bó thiết tha với văn hóa dân tộc Ngàn Xưa Nguyễn Tuân rất am hiểu có lối sống chan hòa với con người và cuộc đời Điều này cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân rất coi trọng nghề văn coi trọng sự sáng tạo 2 Ý nghĩa Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong Chữ Người Tử Tù đã thể hiện khả năng sáng tạo không ngừng của người nghệ sĩ Qua tác phẩm này Nguyễn Tuân muốn gửi đến những người nghệ sĩ một bài học: phải luôn luôn sáng tạo không ngừng. => Chính vì vậy Chữ người tử tù đã thể hiện một phong cách nghệ thuật độc đáo hiếm có trong văn học dân tộc. Nguyễn Tuân là người đã làm theo quy luật của cái đẹp. Chính vì vậy những sáng tác nghệ thuật của ông có giá trị nghệ thuật cao quý. III Kết thúc vấn đề Trong Chữ Người Tử Tù của Nguyễn Tuân đã thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo phong cách nghệ thuật ấy chứng tỏ rằng nó chỉ có ở những người nghệ sĩ lớn vì vậy ông đã trở thành một nhà văn lớn của dân tộc Đọc thêm: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 8)
Cảm nhận của anh chị về cái tâm cái tài của Nguyễn Tuân qua Chữ Người Tử Tù Đặt vấn đề Giới thiệu tác giả tác phẩm từ đó dẫn và yêu cầu của đề Giải quyết vấn đề Giải thích cái tài và cái tâm Tài là tài năng tài hoa trong văn chương được thể hiện ở cách sử dụng các hình thức nghệ thuật để biểu đạt nội dung ý tưởng mà mình muốn nói Tâm là nội dung tác phẩm đó là tấm lòng là tư tưởng của nhà văn hướng đến cái thiện và sự rung cảm trước cái đẹp -> Ở Nguyễn Tuân cái tài và tâm được thống nhất đạt tới độ thăng hoa chín muồi Phân tích Tài năng tài hoa của Nguyễn Tuân Xây dựng tình huống đặc biệt Xây dựng rất tình cảm hai nhân vật: Huấn Cao và Quản ngục Nghệ thuật dựng cảnh tài tình (cảnh cho chữ - nghệ thuật điện ảnh) Bút pháp ngôn ngữ giọng điệu ->chọn ý để phân tích Cái tâm của Nguyễn Tuân thể hiện trong Chữ Người Tử Tù Tấm lòng tin yêu trân trọng của nhà văn đối với con người và cuộc sống Nguyễn Tuân khẳng định cái đẹp, cái thiện luôn luôn chiến thắng cái xấu và cái ác đặc biệt Nguyễn Tuân còn thể hiện một quan điểm thẩm mỹ rất tiến bộ. Cái tài - tâm, đẹp - thiện phải luôn luôn có sự thống nhất với nhau (lời khuyên của Huấn Cao với Quản ngục) Có nghĩa là Nguyễn Tuân không chấp nhận cái xấu sống chung với cái đẹp Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng nuối tiếc những giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tấm lòng yêu nước một cách thầm kín của nhà văn Nguyễn Tuân đối với những những chiếc mảnh hồn xưa của đất nước Đánh giá Kết thúc vấn đề Qua tác phẩm này người đọc càng thấy rõ được tài năng, tâm huyết những tình cảm, tư tưởng, thái độ của Nguyễn Tuân đối với thời đại dân tộc để khẳng định Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ chân chính là một công dân yêu nước đứng trên cương vị một người dân Việt Nam. Một người gắn bó với cổ truyền dân tộc vì vậy ông luôn đứng trong lòng người đọc không bao giờ phai mờ.
Trình bày những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đặt vấn đề Phong cách nghệ thuật là nét riêng, độc đáo, có giá trị thẩm mỹ sâu sắc trong đặc sắc sáng tạo của một nhà văn. Chỉ có những nhà văn lớn mới có phong cách nghệ thuật với ý nghĩa như vậy. Có thể khẳng định: Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật độc đáo, sâu sắc. Được biểu hiện qua bốn phương diện cơ bản: Sự tài hoa uyên bác. Mọi đối tượng trong sáng tác đều được nhìn nhận dưới góc độ văn hóa thẩm mỹ. Cảm hứng đặc biệt với cái lớn lao phi thường điều đó rất là hợp với thể tùy bút. Với từ vựng phong phú được nhà văn sử dụng linh hoạt sáng tạo . Giải quyết vấn đề Sự thống nhất của phong cách của Nguyễn Tuân Cái tôi độc đáo, khác thường: Cái “ngông” dựa trên sự tài hoa uyên bác có nhân cách hơn người để đặt mình lên trên thiên hạ. Có lẽ có được điều đó từ các bậc tiền bối đi trước nhưng sự nghiệp với Nguyễn Tuân trong chính cái “ngông” cổ điển ấy lại được kết hợp với chủ nghĩa cá nhân được tiếp nhận từ văn hóa phương Tây hiện đại. Bởi vậy cái nhất người nghệ sĩ thể hiện khá độc đáo trong các tác phẩm trước và sau cách mạng. “Ngông” ở trong Chữ Người Tử Tù, Người lái đò sông Đà Do vậy khi tiếp cận thế giới Nguyễn Tuân luôn hướng về phương diện văn hóa thẩm mỹ thế giới con người, luôn nghiêng về tài hoa nghệ sĩ. Tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ Quan sát vở “phở Hà Nội” Nguyễn Tuân nhận ra phở cũng có tâm hồn ông viết: “thịt chín thơm hơn thịt tái” mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng tâm hồn của Phở. Khi quan sát khám phá sông Đà, Nguyễn Tuân nhận thấy “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…” Một câu văn dài thể hiện rõ nét đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà. Tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Khái niệm tài hoa với Nguyễn Tuân là vừa có cái hẹp vừa mang ý nghĩa rộng, nghĩa hẹp là những người làm Nguyễn Tuân say mê nghệ thuật. Với Nghĩa rộn: bất cứ nghề gì, việc gì cũng đều được ông đẩy đến mức xuất chúng siêu Việt -> thứ nghệ thuật. Đọc trang văn của Nguyễn Tuân trước cách mạng người đọc có thể bắt gặp rất nhiều những con người nghệ sĩ tài hoa trong tất cả các lĩnh vực, công việc ví dụ: “Người lái đò, dân quân du kích cũng là những con người tài hoa. Đặc biệt là người lái đò tay lái chở hoa tiên thác ghềnh sông Đà”. Quan niệm về cái đẹp: Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp phải là những hình tượng đập mạnh vào giác quan người nghệ sĩ dù là thiên nhiên hay xã hội con người. Vì Ông là nhà văn giàu cá tính sáng tạo Nguyễn Tuân không chấp nhận cái bằng tay, ông thường tô đậm cái gì phải xuất chúng gây cảm giác mãnh liệt. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cảnh thiên nhiên hoặc là cảnh đẹp tuyệt vời thơ mộng hoặc gây ấn tượng mạnh mẽ dữ dội. Điều này thể hiện rõ nhất qua Người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên giống như một sinh thể có hồn với hai nét tính cách độc đáo hung bạo, dữ dằn và hết sức thơ mộng trữ tình. Con người phải có cá tính khác thường: tài phải đạt độ siêu phàm không ai sánh kịp. Dũng cảm cũng phải đạt độ phi thường. Có ý kiến cho rằng: “Thể Văn tùy bút hết sức phóng túng là thể loại dành riêng cho Nguyễn Tuân (quả không sai) bởi nhân vật chính là cái tôi độc đáo của mình cộng với vốn từ vựng phong phú, độ sử dụng linh hoạt sáng tạo. Nguyễn Tuân đã tạo dựng được những hình tượng nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của tài năng nghệ thuật xuất chúng mà có lẽ không một nhà văn nào có được dấu ấn riêng biệt ấy. Mà có lẽ người đọc không thể quên một tình cảm cũng không thể quên một người lái đò dũng cảm kiên cường khi đối mặt với khó khăn… Trên văn bản trường thống nhất ấy trong phong cách của Nguyễn Tuân cũng có những chuyển biến cơ bản. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Nguyễn Tuấn khẳng định cái ngông nghênh khinh bạt. Đặt mình lên trên thiên hạ - sự tài hoa uyên bác hơn đời có lẽ dựa vào những cơ sở sau. Ông có cái nhìn riêng để khám phá và miêu tả thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ. Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Thể hiện ở sự bên bác khi miêu tả về bất cứ sự vật, sự việc gì Nguyễn Tuân đều soi vào đó con mắt của nhiều ngành nghệ thuật: điện ảnh, âm nhạc, hội họa, vũ đạo. Tác giả đi khám phá cái đẹp -> tìm nó trong quá khứ (vang bóng một thời) luôn đối lập với thời hiện tại, quan niệm tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở các nhân vật đặc tuyển, khác thường. Ông luôn tìm cảm giác mạnh ở quá khứ chủ nghĩa xê dịch (luôn luôn thay đổi chỗ ở) để thay đổi thực đơn cho giác quan. Đó còn ở đời sống trụy lạc. Khi nhà văn viết về thế giới ma quỷ mà Nguyễn Tuân gọi là “yêu ngôn” Ông sử dụng thể tùy bút thiên về cáI tâm chủ quan. Sau cách mạng tháng tám 1945 Cái nhất tuy vẫn độc đáo nhưng không đối lập với xã hội. Giọng văn Nguyễn Tuân đôn hậu hơn. Không có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tương lai luôn tìm thấy cái đẹp ở cả ba thời điểm. Chính vì vậy khi thể hiện về con người, nét tài hoa nghệ sĩ lấy: đại chúng, nhân dân đất nước (Tây Bắc, con sông Đà) Trong những thành tích, chiến đấu xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân. Vẫn sử dụng thể tùy bút có pha chút thể ký sự với bút pháp hướng ngoại -> phản ánh hiện thực để ghi chép thành tích chiến đấu xây dựng của người dân => Đây là tất cả những đặc sắc chính trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nhìn vào đó ta vẫn nhận ra: thống nhất trên một cơ bản chính nhưng để phản ánh hơn với thực tại. Nguyễn Tuân đã có những chuyển biến mới nhằm theo sát hiện thực đời sống của nhân dân theo từng thời đoạn cụ thể. Để người đọc cùng khâm phục tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Kết thúc vấn đề Với phong cách nghệ thuật độc đáo hiếm có đã đưa Nguyễn Tuân -> vị trí của một nhà văn lớn Phần kết bài Phần 1: phục vụ cho câu: phong cách Nguyễn Tuân qua một tác phẩm Phần 2: phục vụ cho kiểu đề tài thông qua hai tác phẩm ở hai giai đoạn sáng tác trước - sau cách mạng tháng Tám thấy được sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân