Tóm tắt tâm lí nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc Nhân vật ông Hai trong bài văn thể hiện một tâm trạng đau đớn, uất ức và xấu hổ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Mô hình phân tích nhân vật dưới đây giúp đi sâu vào tâm trạng và suy nghĩ của ông Hai trong hoàn cảnh khó khăn này. Tâm trạng sững sờ và xấu hổ Ông Hai trải qua một biến cố lớn từ niềm vui và niềm tin cao quý đột nhiên chuyển thành sự sững sờ, xấu hổ khi nghe làng theo giặc. Tâm trạng của ông lão được miêu tả qua cảm xúc đau lòng, "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân." Điều này thể hiện sự gián đoạn đau đớn, như một cú sốc tinh thần. Mất niềm tin và uất ức Ông Hai trải qua sự mất mát lớn không chỉ về niềm tự hào của làng mà còn về hạnh phúc cá nhân. Niềm tin, niềm tự hào về làng đột ngột sụp đổ khi ông phải đối mặt với sự thật đau lòng. Sự uất ức và hụt hẫng đẩy ông vào tâm trạng tuyệt vọng. Nỗi ám ảnh và tình trạng bế tắc Tin đồn và nghi ngờ làm ông Hai trở nên ám ảnh. Ông sống trong sự bế tắc, không biết phải làm gì và không có hướng đi rõ ràng. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài nhưng cảm giác lo lắng và e sợ. Tìm kiếm sự yên bình và quyết đinh khó khăn Ông Hai tìm kiếm sự yên bình và tránh xa khỏi ánh sáng công bố làng. Cuộc sống bình yên của ông bị đảo lộn, và ông trở nên như một người bị tống giam trong chính ngôi nhà của mình, không dám đối diện với thế giới bên ngoài. Lựa chọn giữa ở lại và về quê âm trạng khó khăn và đau đớn của ông được thể hiện qua quá trình ông phải đối mặt với quyết định khó khăn giữa ở lại và về quê. Ông Hai, mặc dù đau khổ, nhưng cuối cùng quyết định ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh và kháng chiến, đặt niềm tin của mình vào sự giải phóng và độc lập của đất nước. Tâm hồn thủy chung và sâu sắc Cuộc trò chuyện của ông với con trai thể hiện lòng thủy chung sâu sắc với làng Chợ Dầu và tình yêu với quê hương. Dù đau đớn, ông vẫn giữ vững niềm tin vào kháng chiến và lòng yêu nước, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam. Trong tất cả, nhân vật ông Hai trong bối cảnh khó khăn này đặt ra những thách thức lớn về tâm trạng và quyết định, nhưng cũng thể hiện sự mạnh mẽ và lòng thủy chung của một người nông dân Việt Nam trước thách thức phải đối mặt.
Đề bài; Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân”. Trình bày quan điểm của anh/chị về vấn đề trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một triết lý quan trọng: "Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân." Ý chí và nghị lực đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của cá nhân và xã hội. Ý chí là khả năng quyết tâm, chấp nhận thách thức và không ngừng cố gắng để đạt được mục tiêu. Nó không chỉ là sức mạnh cá nhân mà còn là động lực lớn để thay đổi xã hội. Người có ý chí mạnh mẽ thường có tầm nhìn xa, dám đối mặt với khó khăn và không bao giờ từ bỏ trước thử thách.Nghị lực là nguồn động viên, là sức mạnh bên trong giúp con người vượt qua mọi khó khăn. Đó là niềm tin vững chắc và lòng quyết tâm không lùi bước trước những khó khăn. Người có nghị lực mạnh mẽ thường có khả năng phục hồi sau thất bại, tự tin đối mặt với những thách thức lớn. Người có nghị lực sẽ thể hiện sự kiên nhẫn và bền bỉ trong việc đối mặt với những khó khăn, thử thách. Họ không dễ bị làm chán nản hay từ bỏ trước những khó khăn. Nghị lực thường đi kèm với lòng tự tin và tinh thần lạc quan. Những người có nghị lực sẽ nhìn nhận vấn đề từ góc độ tích cực, tìm kiếm giải pháp thay vì chìm đắm trong sự tiêu cực.Nghị lực không phải là việc tránh xa thất bại mà là khả năng đối mặt và học từ thất bại. Những người có nghị lực sẽ sử dụng mọi thất bại như là bước đệm để tiến lên. Trong xã hội ngày nay, ý chí và nghị lực đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một tương lai tốt đẹp. Những người trẻ hiểu rõ giá trị của ý chí và nghị lực sẽ trở thành những nhà lãnh đạo, những người định hình và đưa đất nước phát triển. Chúng ta có thể thấy rõ sức mạnh của ý chí và nghị lực trong những tấm gương như Chủ tịch Hồ Chí Minh hay Stephen Hawking. Họ đã vượt qua mọi khó khăn, từ những hoàn cảnh khó khăn nhất để trở thành những người nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn đối với xã hội. Vì vậy, chúng ta cần khuyến khích và phát triển ý chí, nghị lực ở mỗi cá nhân và đặt chúng vào vị trí quan trọng trong quá trình giáo dục. Bằng cách này, chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội mạnh mẽ, đầy năng lượng tích cực và có tương lai tươi sáng.
Viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ bàn về Bản lĩnh. Bản lĩnh, khía cạnh tinh thần quan trọng nhất của con người, đóng vai trò to lớn trong việc định hình cuộc sống và đạt đến thành công. Bản lĩnh không chỉ là sự kiên trì và gan dạ để đương đầu với khó khăn, mà còn là khả năng tự lập và quyết định đúng đắn đối với những tình huống phức tạp. Điều này mang lại cho mỗi người một tinh thần độc lập, không dễ dàng biến đổi dưới áp lực bên ngoài. Trong cuộc sống, một con người bản lĩnh không ngần ngại đối mặt với những thử thách khó khăn và không bao giờ từ bỏ trách nhiệm cá nhân. Họ dám nghĩ, dám làm, và từ đó, họ xây dựng lên cho mình một tâm hồn bất khuất, kiên định trước mọi khó khăn. Bản lĩnh giúp họ vượt qua những gian khó, đưa họ đến những đỉnh cao không tưởng. Oprah Winfrey là một minh chứng sống cho sức mạnh của bản lĩnh. Từ môi trường khó khăn, bị xã hội đặt đánh giá thấp, bà đã kiên cường vượt qua mọi khó khăn, từng bước trở thành một tỉ phú và nguồn cảm hứng cho hàng triệu người. Tuy nhiên, đối diện với sự hiện diện của những người thiếu bản lĩnh trong xã hội, người ta thấy rõ sự ngần ngại trước khó khăn, sự ngại khổ và xu hướng đổ lỗi cho số phận. Những người này thường không dám đối mặt với thách thức, và do đó, không thể vươn tới ngưỡng cửa thành công. Vì vậy, mỗi cá nhân cần hiểu rõ giá trị của bản lĩnh và hướng tới việc xây dựng một tâm hồn mạnh mẽ thông qua việc không ngừng trau dồi tri thức, kỹ năng sống, và phát triển nhân cách. Quan trọng hơn cả, đừng lẫn lộn bản lĩnh với sự tự phụ hay bảo thủ. Bản lĩnh là sự hợp nhất của kinh nghiệm, trí tuệ, và đam mê, không phải là sự tự mãn hay đánh mất khả năng học hỏi. Nói một cách đơn giản, bản lĩnh giúp con người tự tin, độc lập, và kiên định trước mọi khó khăn, từ đó tạo nên những cá nhân tích cực đóng góp cho xã hội và xây dựng một cộng đồng mạnh mẽ.
Nêu cảm hứng bao trùm và mạch cảm xúc của bài thơ Viếng Lăng Bác *Cảm hứng bao trùm Bài thờ là niềm xúc động thiêng liêng và thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót thương của nhà thơ khi lần đầu ra thăm Lăng Bác. Cảm hứng đó đã bao trùm toàn bộ bài thơ với giọng điệu thành kính, nghiêm trang phù hợp với không khí thiêng liêng ở Lăng Bác. *Mạch cảm xúc: -Theo trình tự không gian và thờii gian. Cảm xúc đầu tiên chi phối tác giả là khung cảnh xung quanh lăng Bác (nhìn từ xa), ấn tượng nhất là hàng tre bát ngát trong sương. -Tiếp theo là cảnh trước lăng Bác và đoàn người nối nhau như bất tận, ngày ngày vào viếng lăng Bác. -Cảm xúc khi vào lăng, di hài của Bác gợi những hình ảnh đẹp mang ý nghĩa biểu trưng; mặt trời, trời xanh. - Cuối cùng là cảm xúc khi sắp phải rời xa Bác trở về miền Nam =>Mạch cảm xúc đã tạo nên bố cục của bài thơ rõ ràng, mạch lạc và hơp lí.
Cho câu “Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa”. trong bếp lửa của Bằng Việt. Lấy câu văn trên là câu mở đoạn, em hãy viết tiếp 10-12 câu để hoàn chỉnh đoạn văn theo phương thức tổng - phân - hợp nêu cảm nhận về người bà trong bài thơ. Đoạn văn có sử dụng thành phần cảm thán, gạch chân câu cảm thán đó. Học sinh cần viết theo dung lượng và yêu cầu của đề bài là đoạn văn, viết theo phương thức tổng phân hợp và có sử dụng câu cảm thán. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa. Bà vẫn tiếp tục nhóm lên ngọn lửa của yêu thương, của sẻ chia ấm áp để đem lại một bầu trời tuổi thơ yên bình cho cháu. Tất cả tình cảm ấy đều là những điều thiêng liêng không ai gọi tên được bao giờ, nó thật cảm đông biết bao!. Ngọn lửa bà trao cho cháu được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trườn g tồn, bất diệt. Nội dung tư tưởng của “Bếp lửa” được thể hiện sâu sắc hơn n hờ những hình ảnh thơ sinh động, giàu sức liên tưởng: “bếp lửa chờn vờ n sương sớm”, “bếp lửa ấp iu nồng đượ m”,…cùng với đó là điệp từ “nhóm” đặc biệt được sử dụng ở cuối bài thơ. Nhưng quan trọng hơn tất cả là cảm xúc chân thành và lòng yêu mến vô bờ của nhà thơ đối với người bà kín h yêu của mình. Đọc và cảm nhận tình yêu thương chan chứa tron g bài thơ “Bếp lửa”, chúng ta thấy yêu hơn, trân trọng hơn “ngọn lửa” trong gia đình và những người thân yêu bên cạnh chúng ta.
Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá Huy Cận hay nhất Mở bài: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào của ông và mang những nét đẹp riêng. Sau cách mạng thơ của Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống và mang hơi thở của sự phát triển xã hội chủ nghĩa. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông sáng tác ở Quảng Ninh năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ là một bức tranh đẹp đẽ là bản hùng ca ca ngợi người dân lao động khi đất nước chuyển mình. Thân bài: Mở đầu bài thơ là khung cảnh vô cùng huy hoàng, tráng lệ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống; Mặt trời xuốn g biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đán h cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùn g gió khơi. Hai câu đầu tác giả khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp và tráng lệ của thiên nhiên. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt mà nó như hòn lửa rực đỏ khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả, vũ trụ bao la như nồng ấm lên và như một ngôi nhà khổng lồ của người dân đánh cá. Biển lúc này được ví như con người biết tắt lửa, cài then, sập cửa. Tác giả đã sử dụng đồng thời ba biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để tô lên vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ và đầy sức sống của biển cả mênh mông chứ không đìu hiu, ảm đạm như lối thơ cổ. Màn đêm như tấm cửa khổng lồ đóng lại để chuẩn bị nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nhưng ở đây thì không, đối với người dân chài lại là lúc họ ra khơi đánh cá, cất tiếng hát và căng buồm cùng gió, thiên nhiên vũ trụ là phông nền cho con người xuất hiện. Đoàn thuyền đánh cá lạ i ra khơi Câu hát căng buồm cùn g gió khơi. Đoàn thuyền lại ra khơi theo tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc và hoạt động hàng ngày, thường xuyên của những ngư dân vùng biển. Mỗi chuyến đi là niềm vui sự hào hứng và tràn đầy hy vọng. Họ vui vì ra khơi mang theo câu hát, tiếng hát khỏe khoắn, bay cao, bay xa hòa cùng gió trời, gió biển, thổi căng cánh buồm.Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng của biện pháp ẩn dụ diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế của người dân vùng biển khi ra khơi, chinh phục biển cả. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng hát phấn khởi làm nổi bật tâm hồn của con người dân chài, tiếng hát cất lên cầu mong cho những điều may mắn, thuận lợi: “ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồn g sáng, Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Như bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, mỗi khi đi đánh cá là người dân lại mong ước trời yên, biển lặng để có một ngày bội thu thì trong tác phẩm này, tác giả cũng nói lên niềm mong ước ấy để thể hiện tấm lòng hồn hậu của ngư dân chất phác, thật thà nơi vùng biển. Giọng thơ ngọt ngào, trong trẻo ngân dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về người dân lao động của Huy Cận. Khác với hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng là vũ trụ bao la, rợn ngợp trong “nỗi sầu trăm ngả” thì nay lại hết sức gần gũi, thơ mộng. Tác giả đã nhìn đoàn thuyền như một bộ phận của vũ trụ bao la nơi biển cả: “Thuyền ta lái gió với buồm trăn g Lướt giữa mây cao với biển bằng” Con thuyền vốn nhỏ bé nhưng qua lắng kính của nhà thơ thì thuyền trở nên lớn lao và kì vĩ. Hình ảnh con thuyền được đặt song song và hài hòa với thiên nhiên như gió, trăng, trời, biển. Hơn thế, con thuyền lại lái gió với buồm trăng đang lướt đi trên biển và như bay trên tầng không gian, trên thì có mây cao dưới thì có “biển bằng” mênh mông sông nước. Con thuyền đó đang lướt sóng giữa không gian bao la vô tận của vu trụ để chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Thật ra, đây là cách nói đảo ngược của tác giả, thưc tế là gió lái thuyền và làm cho cánh buồm căng gió còn ánh trăng chiếu vào cánh buồm nhìn xa xa như là “buồm trăng”. Những hình đó mà nhà thơ tạo nên qua góc nhìn của mình đã cho người đọc thấy một hinh ảnh về con thuyền đẹp đẽ- vẻ đẹp khỏe khoắn, đầy sức sống là hiện thân cho con người lao động vùng biển Quảng Ninh. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăn g” Giữa bát ngát trăng sao, trời biển con người không hề nhỏ bé, ngược lại họ hiện lên là những con người ngang tầm với thiên nhiên với tư thế của người chiến thắng, họ ra dặm xa dò bụng biển để bủa lưới vây giăng. Họ làm việc bằng sự hăng say và lòng dũng cảm cùng một tâm hồn phơi phới trước sóng nước mênh mông. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái thư giãn, nghỉ ngơi “mặt trời xuống biển”,”sóng đã cài then”,”đêm sập cửa” thì ở đây, người lao động đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Những hình ảnh đó tạo nên một bức tranh giữa con người và thiên nhiên tươi tuyệt dẹp và đầy sức sống. Ở khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã tô điểm thêm bức tranh thiên nhiên cùng với hình ảnh chân thật nhưng đầy bất ngờ, độc đáo: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê với sự phối hợp màu sắc hài hòa, uyển chuyển như “đen hồng, vàng chóe” đã tạo nên một bức tranh biển đầy sắc màu và ánh sáng. Mỗi loại cá có kiểu dáng, màu sắc khác nhau làm nên sự đa dạng và giàu đẹp của biển cả quê hương. Cái đuôi em quẫy dưới ánh trăng đã làm cảnh biển thêm sống động và rực rỡ lên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống mà không mất đi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, tác giả gọi cá bằng em, một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gũi với ngư dân. Nhìn bầy cá bơi lội với những sắc màu phong phú, đa dạng nhà thơ đã lắng nghe tiếng sóng rì rầm với ánh mắt nhìn về xa. Câu thơ tiếp theo huyền ảo, lung linh: “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long” như đưa người đọc vào thế giới thần tiên trong truyện cổ tích. Bằng nghệ thuật ẩn dụ và nhân hóa tác giả đã biến biển cả bao la như một thực thể sống, tiếng sóng vỗ rì rầm được ví như nhịp thở trong đêm của biển. “Đêm thở, sao lùa” là hình ảnh độc đáo, sáng tạo và mới lạ trong nghệ thuật của Huy Cận. Có thể thể nói, tác giả phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết lên những vần thơ tuyệt bút và thơ mộng đến như vậy. Với bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng sáng tạo, Huy Cận đã tạo nên những hình ảnh đẹp về vũ trụ bao la khiến công việc lao động nặng nhọc của người dân chài trở thành bài ca đầy niềm vui và sự tự hào. Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăn g cao. Biển cho ta cá như lòn g mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Hành động “gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá nhưng cái hay ở đây là trăng được tác giả nhân hóa như con người tham gia lao động và hòa cùng sóng biển. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Hơn thế tác giả đã so sánh ngang bằng biển như lòng mẹ dể nói lên sự bao dung, độ lượng và sự cần thiết, quan trọng của biển cả đối với người dân chài, đồng thời thể hiện lòng tự hào, lời cám ơn đối với quê hương nơi đã nuôi ta lớn. Một đêm trôi qua với tinh thần lao động hào hứng, hăng say thì trên bầu trời sao đã thưa và mờ dần chỉ còn lại cảnh kéo lưới là vẫn đông vui, tấp nập. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, Lưới xếp buồn lên đón nắng hồng” Đây là chi tiết cụ thể về hình ảnh con người lao động hiện lên trong sớm mai thật đẹp, đó là hình ảnh khỏe mạnh, tươi tắn mà người dân làm trong lúc gặt hái được thành quả. “Kéo xoăn tay” là hành động mạnh, dồn hết sức lực để kéo cá từ biển lên với những chùm cá trĩu nặng. Thành quả mà ngư dân thu được là “vẩy bạc, đuôi vàng” trong sớm mai là hình ảnh vừa thực vừa mang nghĩa ẩn dụ, những con cá được ẩn dụ quí giá như vàng, như bạc mà biển cả bao la dành tặng cho người dân. Và rồi những khoang thuyền đầy ắp cá cũng là lúc bình minh vừa chớm nắng hồng, ánh nắng làm cho cảnh biển thêm đẹp và nhiều khởi sắc cho một ngày tươi mới, tràn đầy sức sống. Đọc tiếp : Nhân vật Vũ Nương Trình tự theo thời gian đã được Huy Cận miêu tả rất tài tình và nhiều đặc sắc, ở khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về với khí thế vui mừng và hoành tráng: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặ m phơi. Ở khổ đầu là câu hát căng buồn cùng gió khơi để đưa thuyền ra biển lớn, còn khổ 5 là tiếng hát gọi cá vào thì ở khổ này vẫn là tiếng hát nhưng đây là tiếng hát trở về với sự bội thu, thắng lợi và sức mạnh bởi họ đã thu được những khoang cá đầy ắp thuyền mà biển cả đã dành tặng. Đoàn thuyền trở về đất liền với tư thế nhanh, gấp gáp “chạy đua cùng mặt trời” tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa và nói quá để diễn tả cuộc đua giữa con người và thiên nhiên, cuộc đua không cân sức nhưng con người đã chiến thắng và đáp chân xuống đất liền khi mặt trời vừa nhô khỏi biển. Một màu của bình minh, màu của sức sống đã tạo nên một bức tranh biển kì vĩ, bao la nhưng chứa đựng nhiều nét thơ mộng. Ở câu thơ cuối “Mắt cá huy hoàng“ là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cuộc sống tươi mới, nhưng ngày tốt đẹp đang đón chờ ngư dân và con người trong thời kì đất nước chuyển mình. Đó là một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình yên mà tác giả muốn gửi gắm trong câu thơ của mình. Kết bài: Qua thơ Huy Cận chúng ta như đươc sống những đêm trăng đẹp trên biển Quảng Ninh cùng ngư dân làng chài. Cảnh đánh cá được miêu tả với cảm hứng lãng mạn cùng sự hăng say và niềm tự hào đã cho chúng ta những bài học về sự hi sinh, đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân. Thật vậy, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay đã để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng độc giả về con người và vũ trụ bao la rộng lớn.
Đọc và trả lời câu hỏi từ câu a đến d Không có kính, rồi xe kh ông có đèn Không có mui xe, thù ng xe có xước Xe vẫn chạy vì m iền Nam phía trước: Chỉ cần tron g xe có một trái tim. Câu hỏi: a . Hai câu đầu tác giả sử dụng nghệ thuật gì? Nêu tác dụng? b Qua hình ảnh chiếc xe trong khổ thơ đã nói lên h iện thực của cuộc kháng chiến chống Mĩ như thế nào? c. Biện pháp tu từ nào được sử dụng ở câu thơ cuối c ủa khổ thơ? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó? d.Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phươ ng thức quy nạp nêu cảm nhận về khổ thơ cuối bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính". Hướng dẫn trả lời: a. Trong hai câu thơ đầu, tác giả sử dụng nghệ thuật điệp ngữ: Không có và liệt kê: không có kính, không có đèn, không có mui xe. Tác dụng: Gợi lên hình ảnh chiếc xe không đầy đủ, thiếu thốn đủ thứ nhằm nhấn mạnh sự biến dạng, hư hỏng nặng nề của những chiếc xe do bom đạn của Mĩ tàn phá. Ngoài ra xét toàn khổ thơ điệp ngữ “không có” còn đối sánh với “có” (một trái tim) giữa sự thiếu thốn khó khăn về điều kiện nhưng tinh thần và ý chí luôn đầy ắp trong tim. b.Hiện thực của chiến tranh lúc bấy giờ rất khốc liệt, dữ dội bom đạm làm cho những chiếc xe của quân đội ta biến dạng không còn nguyên vẹn. Sự khó khăn chồng chất khó khăn nhưng những người lính lái xe vẫn không lùi bước mà vẫn một lòng vì Miền Nam ruôt thịt. c. - Câu thơ cuối sử dụng biện pháp hoán dụ: từ “trái tim” được dùng theo nghĩa chuyển trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn, khó khăn trên xe, trái tim áy là sự lạc quan, yêu đời và tinh thần anh dũng của chiến sĩ lái xe không sự hiểm nguy. Ngoài ra trái tim còn hiểu theo nghĩa ẩn dụ: trái tim tượng trưng cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. - Trái tim chứa đựng ý chí, bản lĩnh và tinh thần yêu nước tất cả vì miền Nam ruột thịt vì sự thống nhất của dân tộc. - Trái tim trở thành nhãn tự cho toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc. d. Học sinh đạt yêu cầu về dung lượng và hình thức đoạn văn theo phương pháp qui nạp, câu chủ đề nằm ở cuối đoạn - Khổ thơ cuối thể hiện ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường trường Sơn. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thể hiện ý chí kiên cường vì Tổ quốc, đó là sức mạnh phi thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của đế quốc Mĩ + Biện pháp liệt kê, điệp ngữ được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ác liệt của chiến tranh và sự thiếu thốn, mất mát ngày càng lớn. Mọi thứ trên xe bị bom đạn tàn phá không còn nguyên vẹn nhưng các chiến sĩ vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời - Điều kì diệu và đặc biệt đó là không gì cản trở, làm lùi bước được ý chí của những chiến sĩ “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Đó chính là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên mọi gian khổ, ác liệt của chiến tranh và đó còn là sức mạnh của tinh thần yêu nước. - Đối lập với những cái “không có” ở trên là một cái “có”, đó là sức m ạnh từ trái tim có thể chiến thắng bom đạn kẻ thù. Những chiếc xe vận tải chạy b ằng sức mạnh của trái tim, sức mạnh của ý chí giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. - Trái tim là hình ảnh hoán dụ cũng là hình ảnh ẩn dụ nói vẻ đẹp về tâm hồn và phẩm chất của người lính lái xe. Trái tim nhiệt huyết một lẽ sống cao đẹp: vì miền Nam, vì sự thống nhất đất nước. Hình ảnh những người lính chiến đấu với lý tưởng độc lập, tự do giải phóng đất nước gắn với chủ nghĩa xã hội đã t hể hiện thế hệ anh hùng, mạnh mẽ, hiên ngang mà thế hệ hôm nay, mai sau còn khắc ghi mãi mãi.
Phân tích nhân vật Vũ Nương Người phụ nữ là đề tài quen thuộc mà nhiều nhà văn, nhà thơ lấy đó làm chủ đề cho mạch cảm xúc của mình, dặc biệt là trong văn học thời trung đại. Hồ Xuân Hương đã thành công với bài thơ “Bánh trôi nước”. Với Nguyễn Dữ thành công đó là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Qua nhân vật trong tác phẩm ông đã tô cáo, lên án xã hội phong kiến đầy bất công nhất là với những người phụ nữ phẩm hạnh nhưng khổ đau, oan trái. Chuyện người con gái Nam Xương được trích trong truyền kì mạn lục, ghi chép tản mạn những câu chuyện có thật và đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm. Văn bản này có nguồn gốc từ câu chuyện “Vợ chàng Trương” cả hai tác phẩm đều nói về người phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến. Mở đầu tác phẩm đã giới thiệu rất rõ về ngoại hình cũng như phẩm chất của nhân vật Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” đây là câu giới thiệu hàm ẩn mọi tố chất của người phu nữ, công- dung- ngôn-hạnh. Nhưng phẩm chất tốt đẹp bao nhiêu thì lại oan nghiệt bấy nhiêu. Ngay ở đoạn đầu tác giả đã cho ta thấy rất rõ một cuộc hôn nhân bất bình đẳng của nàng. Nàng xuất thân con nhà nghèo nhưng vì Trương Sinh mến dung hạnh nên xin mẹ trăm lạng vàng cưới về. Nhân vật Trương Sinh được tác giả giới thiệu hoàn toàn trái ngược với Vũ Nương, Trương Sinh xuất thân con nhà hào phúng nhưng ít học, tính hay đa nghi và đề phòng vợ quá mức. Chứng tỏ một điều rằng sự bất công về con người trong xã hội càng hiện lên rõ nét. Xét về góc độ khách quan thì một người phụ nữ xinh đẹp,tài giỏi như Vũ Nương thì xứng đáng được một cuộc sống hạnh phúc, viên mãn nhưng ở câu chuyện này thì hoàn toàn khác, nàng không được tự do yêu thương, không được quyền chọn lựa. Trương Sinh lấy nàng về như một hình thức mua bán mà chính Trương Sinh cũng không yêu thương gì nàng mà chỉ lấy nàng vì “mến”. Mặc dù vậy nhưng Vũ Nương hết lòng yêu thương chồng, biết chồng đa nghi nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình phải thất hòa. Cuộc sống bên chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Nàng bịn rịn tiễn dặn chồng và khoogn mong muốn gì ngoài sự “bình yên” của chồng. Bên cạnh đó nàng còn thấu hiểu nỗi vất vả của chồng sắp phải chịu. Những chi tiết đó đã chứng tỏ nàng là người phụ nữ vì gia đình “nghi gia nghi thất” phẩm hanh ấy càng được bộc lộ rõ hơn khi ở với mẹ chồng. Sau khi chàng đi được một tuần thì nàng sinh con, đặt tên là bé Đản. Vì nhớ con trai nên mẹ chồng đã sinh ốm. Lúc này, nàng vừa làm con, vừa làm mẹ, vừa làm cha, một mình nàng gánh vác mọi công việc của gia đình chồng. Đối với mẹ chồng, Vũ Nương là người con hiếu thảo, ngoan hiền. Trong lúc chồng đi xa, nàng vừa chăm sóc mẹ già đau ốm vừa nuôi con nhỏ. “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật mà lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơi”. Phẩm chất ấy của nàng đã được chính người mẹ chồng đánh giá cao khi bà ở phút lâm chung. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan. Khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không chỉ vì trách nhiệm của một nàng dâu mà còn thể hiện tình yêu thương hết lòng đối với chồng ngoài mặt trận. Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật sự yêu mến,trân trọng qua từng hành động,cử chỉ qua đó khắc họa rõ nét phẩm chất người phụ nữ. Đối với đứa con bé bỏng của mình thì nàng hết mực yêu thương và tìm cách lấp đi cái thiếu thốn phải xa cha mà con mình đã chịu thiệt thòi. Nàng đã lấy “cái bóng” của mình để dỗ dành con, nói với con đó là cha để làm vơi bớt nỗi nhớ chồng và xoa dịu sự thiếu thốn khi vắng cha của bé Đản. Và rồi “cái bóng” đã trở thành người cha trong tâm trí của một đứa trẻ ngây thơ mới 3 tuổi. Sau ba năm xa cách, khi trở về cứ nghĩ rằng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tai họa ập đến cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây ngô của trẻ con: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi đêm nào cũng đến.., làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ thất tiết. Dù Vũ Nương có hết lời phân trần, có tha thiết giãi bày để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can, biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Chính chi tiết, và phân đoạn này càng cho chúng ta thất rõ sự vô học của Trương Sinh. Nếu Trương Sinh có học thức thì sẽ không xử lý như vậy. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào tế bào mỗi cá nhân đã dung túng, cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Như vậy một lần nữa cái quyền tự bảo vệ mình và được người khác bảo vệ cũng không có. Hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Một hành động tưởng chừng như ngu xuẩn nhưng đặt ở vị trí ngày đó, xã hội đó, người chồng đó thì không có cách nào khác là phải tìm đến cái chết. Chúng ta đặt ra một gỉa thiết; Nếu Vũ Nương không chết thì biết đâu đó chính Trương Sinh cũng hành hạ nàng đến chết, khi này nàng sống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần mà nỗi oan ức không được giãi bày?Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Và rồi, một hôm bé Đản gọi bóng Trương Sinh là cha, lúc này Trương Sinh mới biết mình nghi oan cho vơ. Chàng đã lập đàn giải oan nhưng Vũ Nương chỉ hiện về trong chốc lát rồi biến mất. Qua tác phẩm ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần phải trải qua khó khăn, cực nhọc trong cuộc sống nhưng vẫn vượt lên số phận nhưng càng cố gắng thì sự oan nghiệt càng đến gần, nàng vẫn là nạn nhân của chế độ nam quyền đầy bất công và thối nát. Nàng chính là nạn nhân của xã hội phong kiến cũng là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Qua văn bản này Nguyễn Dữ đã ca ngơi người phụ nữ dung hạnh nhưng đầy bất hạnh.Dồng thời cũng tố cáo, lên án xã hội đầy bất công thời phong kiến, một xã hội bất bình đẳng, chà đạp lên tinh thần và thể xác người phụ nữ. Đọc tác phẩm ta càng thấy ngòi bút sắc bén của tác giả và những giá trị nhân văn sâu sắc mà ông muốn gửi gắm cho bạn đọc.
Tính đến thời điểm hiện tại, bên cạnh sắn, ngô, khoai thì cây lúa nước là một trong những thực phẩm được tiêu thụ nhiều nhất trên đất nước hình chữ S ta, Là một trong những những nguồn thu nhập chính của nhà nông và là giống cây dễ chăm sóc và dễ trồng nhất. Cây lúa, và phổ biến nhất là lúa nước xuất hiện nhiều nhất ở Đông Nam Á khoảng cách đây hơn 10000 năm về trước và được con người nơi đây thuần hóa đem về canh tác và dần lúa nước trở thành nguồn thu nhập chính của họ. Như vâỵ có thể nói, Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước đầu tiên và là trung tâm phát triển ngành nông nghiệp lúa nước lớn trên thế giới. Lúa vốn là một loài cây hoang dã, tổ tiên của nó là một loài cây dại thuộc chi Oryza trên siêu lục địa Gondwana cách đây khoảng 130 triệu năm về trước, sau bởi vì quá trình phân tách lục địa mà loài này bị trôi dạt về các vùng đất khác nhau, quá trình tiến hóa đã cho ra nhiều giống lúa có cấu tạo khác biệt. Và lúa nước của Việt Nam có tên khoa học là Oryza Sativa thuộc họ lúa Poaece vẫn thường được gợi với cái tên quen thuộc là lúa hoặc lúa nước, được trồng chủ yếu ở hai đồng bằng lớn sông Hồng và sông Cửu Long, ngoài ra còn được canh tác ở nhiều đồng bằng nhỏ vùng duyên hải miền Trung nước ta, hoặc trên các vùng núi Tây Bắc, hình ảnh những ruộng bậc thang đầy sức sáng tạo của người dân trên những ngọn đồi, ngọn núi cao sừng sững đã trở thành một trong những hình ảnh, kỉ niệm đáng nhớ cho những vị khách du lịch đến đây chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của thiên nhiên và con người. Lúa nước được chia ra làm hai loại dựa vào hàm tính amilopectic (hàm lượng quyết định tính dẻo) trong hạt gạo. Gạo tẻ có hàm lượng amilopectic chiếm khoảng 80% còn của gạo nếp thì cao hơn khoảng 90% vì vậy gạo nếp ăn dẻo và dín hơn. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu và lai tạo giống, người ta còn dựa và hình dáng, đặc điểm mà chia ra làm nhiều giống lúa khá nhau. Còn về ý nghĩa, trong những năm khoảng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hình ảnh cây lúa được gắn với hình ảnh hậu phương vững chắc à hình ảnh của công cuộc xây dựng nước nhà, lấy gốc là nông nghiệp, của Đảng và nhà nước. Ngoài ra, khi nhắc đến cây lúa nhiều người sẽ nghĩ đến hình ảnh người nông dân cần cù, siêng năng, một nắng hai sương trên cánh đồng lúa xanh bát ngát thẳng cánh cò bay là đại diện cho sự ấm no, đủ đầy cho mọi nhà. Hay trong những ngày lễ lớn, xôi – một món ăn truyền thống không thể thiếu trong mâm cỗ của người Việt ta từ xưa đến nay. Hoặc trong những ngày tết cổ truyền hình ảnh cả gia đình ngồi luộc bánh trưng, bánh giày cũng là một kỉ niệm khó quên của những người con xa quê hương. Hay ngược về thời xa xưa, hình ảnh chàng hoàng tử lang luu sử dụng gạo để làm bánh trưng, bành giày cúng bái trời đất, dâng lên vua Hùng, qua đó ta có thể thấy được sự quan trọng của hoa gạo, cây lúa trong đời sống thường ngày xung quanh ta. Bình dị, giản dị cả trong đời sống vật chất và tinh thần, cây lúa là người bạn của nông dân là nguồn thu nhập nông nghiệp chính của nước tavaf là hậu phương vững chắc của ta trong những năm kháng chiến đầy khó khăn.
PHẦN I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tác giả Tác giả Xéc-van-tét (1547-1616) là nhà văn người Tây Ban Nha. Ông vốn là binh sĩ bị thương năm 1571 trong một cuộc huỷ chiến và bị bắt giam ở An- giê từ năm 1575 đến năm 1580. Trở về Tây Ban Nha, ông sống một cuộc đời cực nhọc, âm thầm mãi cho đến lúc công bố tiểu thuyết Đôn- ki-hô-tê. 2. Tóm tắt nhân vật Văn bản đánh nhau với cối xay gió trích trong tiểu thuyết ấy. Tác phẩm Đôn-ki-hô-tê, một lão quí tộc nghèo sống với cháu gái và bà quản gia vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ. Lão lục tìm những đồ han gỉ của tổ tiên để trang bị cho mình, phong cho con ngựa còm của lão là chiến mã Rô-xi-nan- te còn bản thân lão lão là Đôn-ki-hô- tê xứ Man- cha. Còn người phụ nữ lão thầm yêu thì được lao ban cho cái tên công nương Duyn-xi-nê-a.Cuối lần ra đi thứ nhất Đôn-ki-hô-tê vốn đã nhắm bác nông dân ở cạnh nhà, nghèo và đông con, lương thiện, "nhưng phải mỗi tội là kém thông minh". Đôn-ki-hô-tê bảo bác hãy đi theo chàng vì có thể trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào đó, chàng sẽ chiếm được một hòn đảo và sẽ trao cho bác cai trị. Bị những lời hứa hẹn tốt đẹp cám dỗ, Sancho Panza (tên bác thợ cày) bỏ cả vợ con, nhà cửa, đi làm giám mã cho ông láng giềng Cuộc hành trình trừ lũ gian tà, cứu người lương thiện đã diễn ra và sau nhiều phen thất bại ê chề, cuối cùng ốm nặng. Dôn-ki-hô- tê mới nhận ra tác hại của truyện hiệp sĩ. Lão viết di chúc và qua đời. PHẦN II.PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VÀ CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HAI NHÂN VẬT 1. Phân tích và so sanh hai nhật vật Ở đoạn trích Đôn-ki- hô- tê đánh nhau với cối xay gió có rất nhiều chi tiết hay và ý nghĩa đặc biệt là cuộc đối thoại và sự tương phản giữa hai nhật vât Đôn-ki-hô-tê và San-cho Pan xa, vậy nét đặc sắc mà tác giả đã xây dựng qua đoạn trích này là gì? Chúng ta cùng nhau đi tìm hiểu. Ngay trong đoạn trích, ta thấy hai nhân vật Đôn-ki-hô-tê và San-cha Pan- xa đã có nhiều nét khác nhau về tất cả mọi mặt, từ ngoại hình cho đến tính cách. Đối với nhân vật Đôn-ki-hô-tê được xuất thân trong gia đình quý tộc nghèo, cái tên của ông là do chính ông đặt ra thể hiện vị thế của mình trong xã hội. Còn với San- cha Pan xa ông là người nông dân hiền lành, chất phác. Về hình dáng San cha Pan- xa vừa béo, vừa thấp cưỡi trên lưng con lừa, với bầu rượu và cái túi hai ngăn đựng thức ăn, thuốc cao và những vật dụng thiết thực khác, ngược lại Đôn-ki-hô-tê thì cao lênh khênh, ngồi trên lưng con ngựa. Con ngựa hiện thân của năng lực, may mắn, hạnh phúc và quyền thếđồng thời con ngựa cũng thể hiện nghị lực, sáng tạo và sức sống mãnh liệt. Còn con lừa thì biểu tượng cho sự khiêm nhường, hiền lành, hòa bình. Hay nói cách khác, con lừa chỉ biết làm việc nặng nhọc dưới sự chỉ bảo của ông chủ mà không cần suy nghĩ hay trí thông minh. Tác giả xây dựng mặt đối lập này nhằm cho người đọc nhận thức điểm mạnh và điểm yếu của nhân vật trong câu chuyện. Sự đối lập ấy hết sức khéo léo và tài tình. Về tính cách của hai nhân vật cũng khác nhau hoàn toàn, Đôn-ki-hô-tê hì dũng mãnh, trọng danh dự và luôn nghĩ đến việ chung còn San- cha Pan xa thật thà, nghĩ đến cuộc sống của riêng mình. Trong suy nghĩ của Đô-ki-hô- tê thì có nhiều ảo tưởng, hão huyền và thiếu thực tế, ngược lại giám mã thì lại hết sức tỉnh táo và thực tế dẫn đến thực dụng. Tất cả những sự khác biệt đó cũng dẫn đến mục đích của hai nhân vật khác nhau, đối với Đôn-ki-hô-tê thì muốn trở thành hiệp sĩ lang thang trừ gian trừ tà và giúp người lương thiện, đó là mục đích cao cả mà lão mong muốn thực hiện được. Còn giám mã chỉ mong hưởng chiến lợi phẩm những thứ tầm thường trong cuộc sống Qua cách xây dựng nhân vật ở hai mặt đối lập, ta thấy tác giả đang muốn khắc họa sâu hơn về thực tế đời sống lúc bấy giờ, nhằm cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về cái tầm thường và cái cao cả trong thời kỳ Phục Hưng. Vậy cái cao cả và tầm thường đó là gì? Chúng ta hãy tìm hiểu đoạn đối thoại của hai nhân vật và những tình tiết bất ngờ. 2. Trận chiến và kết thúc Khi đến cánh đồng, Đôn-ki-hô- tê “chợt” thấy những chiếc cối xay gió, đây là yếu tố bất ngờ cộng thêm số lượng những chiếc cối xay gió “ba bốn chục chiếc” phần nào giải thích hoang tưởng chợt xuất hiện trong đầu Đôn- ki-hô- tê bởi trong các tiểu thuyết lão đọc thì những trận chiến thường xảy ra bất ngờ với số lượng lớn của kẻ địch. Chàng muốn chia sẻ hoang tưởng của mình cho giám mã và muốn nhấn mạnh những điều mà giám mã quan tâm nhất đó là “chiến lợi phẩm, giàu sang phú quí, chính đáng, phụng sự Chúa” Lúc này, San cho Pan xa hỏi lại, những tên khổng lồ nào cơ Đôn- ki-hô- tê trả lời: Những tên mà anh nhìn thấy ở trước mặt kia kìa. Cánh tay chúng rất dài, có cái tới gần hai dặm Nhưng giám mã lại rất tỉnh táo trả lời và cảnh báo ông chủ: Xin ngài coi chừng, đó chỉ là những cối xay gió, cái vật trông giống cánh tay là những cánh quạt… Vì mục đích cao cả và sự quyết tâm, chàng hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê quyết tâm kết liễu “những tên khổng lồ, hung tợn” “quét sạch cái giống xấu xa này khỏi Trái Đất” mặc cho giám mã có lời khuyên. Hơn nữa, lão cùng trách giám mã “chẳng hiểu gì” Hắn xông lên và trong đầu đinh ninh phía trước có những tên khổng lồ. Như vậy trong đầu hắn luôn nghĩ đến kẻ xấu xa và những thứ tầm thường cần phải xóa khỏi Trái Đất, hắn không hề nghĩ đến sự tồn tại hữu hình của nó trong hiện tại. Đôn- ki- hô- tê hiện thân của một chàng hiệp sĩ thực hiện cái cao cả, ở chi tiết : “Lũ….kia, không được chạy trốn! Có ta là hiệp sĩ, một thương một mã đến đọ sức với bọn ngươi đây” Ở câu này đã thấy rõ sự quân tử từ Đôn-ki-hô-tê, chàng hiệp sĩ vì lý tưởng tốt đẹp, “một thương một mã” là đấu tay bo, đấu không cần nhiều bọn mà chiến đấu đúng nghĩa quân tử như các hiệp sĩ mà lão đã đọc trong tiểu thuyết. Chàng thể hiện lòng dũng cảm và niềm tin chiến thắng của mình, chàng thúc ngựa lên với với lòng quyết tâm, dũng cảm, chống kẻ thù quyết liệt. Nhưng kết cục trận chiến trong chóng vánh chỉ để lại thương tích cho hiệp sĩ. ‘ngọn giáo gãy tan tành, cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh ra đất” “Đôn-ki-hô- tê nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng” Mặc dù thấy trận đấu gây ra tiếng cười bởi lý tưởng cao cả nhưng không thực tế của chàng nhưng chúng ta vẫn khâm phục tinh thần sự hào hùng đó. Lúc này, giám mã thúc lừa tới và buông lời trách móc nhưng chàng hiệp sĩ vẫn kiên quyết không tin vào những cái “ai cũng biết” . Và chàng đã thuyết phục được giám mã qua tình tiết đầy lạc quan về ông pháp sư, như vậy ta thấy ngoài đấu tranh với thực tại thì chàng còn đấu tranh với cả thế giới siêu nhiên đầy pháp thuật đó là tên pháp sư. Và rồi hai thầy trò tiếp tục cuộc hành trình về nơi đông người, ở chi tiết này cho ta thấy rõ hơn mục đích cuối cùng của chàng hiệp sĩ là “bênh vực kẻ yếu” .Điều đáng chú ý, cho dù đau đớn về thể xác nhưng chàng vẫn không kêu lên và vẫn phản đối giám mã San- cho Pan- xa. Vết thương không đáng lo ngại, điều mà chàng lo lắng đó là vũ khí, chàng liền nghĩ đến trong tiểu thuyết có hình ảnh “ nhổ cây” làm vũ khí một lần nữa đã được sự đồng tình từ giám mã 3. Bức tranh sinh hoạt tinh thần và vật chất Chàng Đôn-ki-hô-tê chằng buồn ăn, hắn chỉ nghĩ đế tinh thần là chủ yếu còn tên giám mã thì “ngồi một cách rất thoải mái trên lưng lừa, lấy cái ăn ở trong cái túi hai ngăn” ở chi tiết này cho thấy bác giám mã hết sức bình tĩnh và nghĩ về vật chất còn tinh thần bác giám mã không hề nghĩ đến. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn ở đoạn sau: Sancho Panza “vừa đi theo chủ vừa ăn một cách khoái trá, thỉnh thoảng nghiêng bầu rượu tu một hơi ngon lành khiến tay chủ quán rượu sành sỏi nhất ở Malaga cũng phải phát ghen”. Sancho Panza hết sức thoải mái trong thế giới vật chất. Chính đây là lúc bác có thể suy nghĩ, hay đúng hơn là “cảm nhận” cuộc sống: “Vừa đi vừa nhắm rượu, Sancho quên cả những lời hứa hẹn của chủ; bác cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu này tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Sancho Panza vốn ra đi vì “hòn đảo” giàu sang phú quí mà chủ bác hứa cho khi lập được chiến công, vậy mà giờ đây “quên cả lời hứa hẹn của chủ”. Lời hứa hẹn ấy quá xa vời, nhất là trong khi vừa trải qua một thất bại! Đối với Sancho Panza, cả “nguy hiểm” đã qua và sẽ đến cũng không thật quan trọng. Trong khi ăn uống, Sancho Panza chỉ nhìn thấy cái trước mắt, trước mắt là có cái mà ăn uống và “không đến nỗi vất vả”. Như vậy là bác giám mã hài lòng. Còn đối với Đôn-ki-hô-tê lúc ngủ chàng cũng nghĩ đến vũ khí của mình “bẻ một cành khô” cho dù không có cây sồi và cũng không đủ khả năng để nhổ cây, một cành khô là đủ, cái gì thiếu đã có trí tưởng tượng của chàng hiệp sĩ. Quan trọng là tinh sẵn sàng chiến đấu và khát vọng lập chiến công. Tinh thần ấy của Đôn-ki-hô-tê được cũng cố thêm rất nhiều nhờ hướng tới người tình nương lý tưởng, chàng không ngủ cả ở thế giới thực tế. Còn giám mã thì ngược lại “Sau khi đánh chén no say, bác làm một giấc đến sáng, và nếu như chủ không gọi, chắc bác cũng chưa buồn dậy, mặc cho ánh nắng chiếu thẳng vào mặt, mặc những tiếng chim hót líu lo đến mừng một ngày mới” Tuy nhiên, thức dậy khỏi giấc ngủ chưa phải là đã tỉnh ngay: “Vừa mở mắt, Sancho Panza đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì thấy nó nhẹ hơn hôm trước mà xem chừng trên quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy”. Vẫn những toan tính vật chất tầm thường ấy! Còn chàng hiệp sĩ thì cũng đâu đã tỉnh khi “không ăn sáng vì, như ta thường nói, nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi”. Vẫn cái tinh thần phi vật chất ấy! Qua đoạn trích này tác giả dã cho chúng ta thấy hai nhân vật là hai tư tưởng đối lập nhau nhưng bổ sung cho nhau. Một người thì hướng đến tinh thần, nghĩ đến cái cao cả tốt đẹp. Còn một người thì nghĩ đến cái giản dị, tầm thường trong cuộc sống đó là vật chất. Nếu tổ hợp hai yếu tố này trong cùng một người thì sẽ trở thành một người hoàn mĩ nhưng ở mỗi cá nhân, có điểm này lại mất điểm kia. Chính vì vậy tác giả muốn cho người đọc thấy được sự biện chứng giữa vật chất với tinh thần, tất cả phải hài hòa thì mới tạo nên môt cá nhân hoàn chỉnh. Nếu thiên về tinh thần nhiều quá thì sẽ trở thành nhân vật Đôn-ki-hô-tê ảo tưởng quá sức, một gã gầy còm cao lênh khênh. Còn thiên về vật chất lại trở thành kẻ tầm thường như Sancho Panza, mập mạp và không có trí tưởng tượng. 4. Tư tưởng chủ đạo mà tác giả muốn gửi gắm Ở phân đoạn này ta thấy sự tưởng tượng của Đô-ki-hô-tê đã lên cao cho dù những chiếc cối xay gió đó không có gì lạ lẫm với người dân Tây Ban Nha đặc biệt với một quí tộc nghèo như chàng. Vậy tại sao chàng lại có hành động như vậy? Câu trả lời đơn giản là vì Đôn-ki-hô-tê bị ảo tưởng quá sức, trong tâm trí chỉ mong thực hiện những nhiệm vụ cao cả, và lấy sức mình để bảo vệ kẻ yếu. Nhưng sự ảo tưởng đó đã gây nên tiếng cười cho bạn đọc, chàng đã trở thành kẻ điên rồ. Nhưng may mắn thay, mặc dù hoang tưởng, nhưng Đôn Ki-hô-tê lại là người có lối suy nghĩ nhân văn, tích cực. Những chiếc cối xay gió chính là những thứ tầm thường trong cuộc sống nên chàng muốn tiêu diệt chúngTrong đầu óc nhà quý tộc, hễ cứ gặp ai, cũng hình dung họ như là những nhân vật trong sách kiếm hiệp. Đến nỗi, một cô gái mà ai cũng biết xấu xí, nhưng Đôn Ki-hô-tê lại cho rằng rất đẹp, là tình nương. Ai bị đánh thua trận, bắt buộc phải về gặp tình nương kể lể. Nhưng cũng thông qua nhân vật , tác giả đã lên án bất công, cần sự công bằng, tự do cho con người. Đồng thời chế giễu thói hư danh, sống theo trào lưu tầm thường, mà đánh mất đi chính mình. Trong tác phẩm này kẻ thù tầm thường về tư tưởng chính là cha sứ, kẻ luôn ngăn cản cái cao đẹp, nhân văn. Cũng chính nhân vật Đôn-ki-hô-tê đã cho ta thấy chế độ nhân quyền được đề cao , con người được xem là chúa tể của vu trụ chứ không như xã hội trước đó chủ yếu coi trọng thần quyền. Tác giả muốn gửi gắm sự nhân văn, con người được coi trọng, bình đẳng, nhân ái giữa con người với con người. Chủ nghĩa nhân văn khẳng định đời sống thực tế, ca ngợi niềm vui và hạnh phúc trần thế, khẳng định tình yêu là cao đẹp, con người có quyền theo đuổi danh vọng và của cải, khẳng định địa vị, phẩm giá con người qua nhân cách, bất cứ xuất thân như thế nào. Nhân vậy Đôn-ki-hô- tê đại diện cho con người mang lý tưởng nhân văn cao đẹp đầy tài năng và trí tuệ như những kì quan của thiên nhiên. Cho dù thất bại trong đau đớn nhưng vẫn không bỏ cuộc. Một lần nữa ta khẳng định đây chính là chủ đề xuyên suốt nhân văn thời lỳ Phục Hưng mà con người hướng đế. Đôn-ki-hô-tê thực hiện lý tưởng phi thực tế, còn Sancho Pan xa thực hiện thực tế phi lý tưởng.
Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Những câu thơ quen thuộc ấy chắc hẳn đã khắc sâu trong tâm trí của chúng ta. Bạn biết về cây lúa này nhưng đã bao giờ tìm hiểu kĩ về nó chưa? Nếu chưa chúng ta hãy cùng đi tìm hiểu nhé. Lúa là một loại cây trồng có vai trò quan trọng trong đời sống và lịch sử phát triển của hàng triệu người trên Trái Đất từ xa xưa đến nay. Và Lúa là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và Châu Á nói riêng. Lúa là cây có một lá mầm, dễ chùm. Có hai vụ lúa: chiêm, mùa. Như chúng ta đã biết cách trồng lúa phải trải qua rất nhiều giai đoạn nhưng đã bao giờ thử hỏi nó như nào hay chưa? Bắt đầu từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ, rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng, ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân, ruộng phải sâm sấp nước, khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm cỏ, bón phân diệt sâu bọ.(…) Cuối cùng là người nông dân về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành gạo. Ngày nay, nước ta đã tạo được hơn 30 giống lúa được công nhân là giống lúa quốc gia. Cũng chính vì gạo, lúa đã đưa Việt Nam ta từ một nước đói nghèo trở thành một nước đứng thứ hai sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. Qủa thật là rất tuyệt vời, giá trị sử dụng lúa là lương thực, thực phẩm thiết yếu hàng ngày của người dân, nó là thành phần của nhiều thực phẩm món ăn hàng ngày: phở bột mì,... Lúa còn là nguồn lợi nhuận của người trồng thương mại hóa. Về giá trị tinh thần Lúa đã gắn bó hơn vạn năm với người dân Việt Nam ta. Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt. Như vậy, ta thấy rằng cây lúa chiếm giữ một phần lớn quan trọng trong đời sống của người dân chúng ta. Dù đã qua nhiều năm nhưng lúa vẫn không hề thay đổi. Cây lúa không chỉ đáp ứng nhu cầu sống của chúng ta mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thân của người Việt.
Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945 đến 1975 1.Bối cảnh Khai sinh nước VN Dân chủ Cộng hòa 1945; toàn quốc kháng chiến chống Pháp 9 năm (1946-1954); chia cắt hai miền Nam – Bắc (1954-1975),kháng chiến chống Mỹ, tiến tới thống nhất đất nước (1964 - 1975) 2. Lực lượng sáng tác Bao gồm: văn nghệ sĩ,trí thức: gia nhập Đảng, tham gia kháng chiến; nhà văn hóa,giáo dục 3. Khuynh hướng cảm hứng - Miền Bắc: cảm hứng lãng mạn công dân, tuyên truyền kháng chiến cứu nước 1945-1954; cuộc đấu tranh tư tưởng giữa khuynh hướng “tự do hóa văn nghệ” và “đảng cộng sản lãnh đạo, vào quỹ đạo VH XHCN” 1956-1964; khuynh hướng sử thi và lãng mạn 1965-1975 - Miền Nam: 1955-1975: đề cao chủ nghĩa quốc gia; thể hiện tinh thần phản kháng; tôn vinh truyền thống văn hóa dân tộc; tái hiện thân phận con người; văn học đại chúng; Đây là thành tựu của hiện đại hóa 4. Thể loại, ngôn ngữ Ở gia đoạn này thể loại chủ yếu là thơ, trường ca, ký, tùy bút, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu thuyết. Một số tác phẩn tiêu biểu như: Vợ chồng A Phủ, Đòng Chí, Lặng lẽ Sa Pa, Đất nước… 5. Tác giả tiêu biểu - Văn học kháng chiến chống Pháp: Quang Dũng 1921-1988, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Tố Hữu, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Trần Đăng; Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Nguyễn Thành Long - Văn học chống Mỹ: Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Thị Xuân Quý; Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ, Việt Phương; Dương Hương Ly, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Anh Đức, Chu Văn, Nguyễn Tuân
Giai đoạn hình thành văn học hiện đại 1. Bối cảnh lịch sử Nước ta phải chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai cuộc khai thác thuộc địa; tiếp xúc kéo dài với văn hóa phương Tây, nền giáo dục quốc ngữ có bước phát triển → hình thành “văn đoàn” lớn, xung đột: dân tộc, giai cấp, văn hóa 2. Lực lượng sáng tác Bao gồm: Trí thức Tây học, công-nông-binh, một bộ phận tác giả tham gia cách mạng/bí mật, một bộ phận tác giả hợp pháp/công khai 3. Khuynh hướng cảm hứng - Khuynh hướng lãng mạn: văn xuôi lãng mạn, Thơ mới - Khuynh hướng hiện thực: phóng sự, truyện ngắn trào phúng, tiểu thuyết (trào phúng) - Khuynh hướng yêu nước, cách mạng: thơ ca, hò, vè, phóng sự… 4. Thể loại, ngôn ngữ - Thơ: ba dòng: (ảnh hưởng) thơ Pháp, Đường thi, thuần Việt; đa “xóm thơ”: sông Thương, Tự lực, Phương Đông, Huế, Bình Định, Hà Tiên… - Văn xuôi: phóng sự, truyện ngắn (trào phúng), tiểu thuyết (trào phúng), - Kịch thơ - Khảo cứu, dịch thuật - Phê bình văn học 5. Tác giả tiêu biểu -Thơ mới: 1932-35: Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên; 1936-39: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên - Kịch thơ: Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Yến Lan, Vũ Trọng Can, Vũ Hoàng Chương, Phan Khắc Khoan… - Tự lực văn đoàn: Nhất Linh 1906-1963, Khái Hưng 1896-1947, Thạch Lam 1910-1942, Tú Mỡ 1900-1976… Xem thêm: Tiến trình văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII- XIX
Tiến trình văn học Việt Nam Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XVIII- giữa thế kỉ XIX 1. Bối cảnh lịch sử “Khởi nghĩa nhân dân” bùng nổ ,triều đại Tây Sơn thống nhất đất nước (ngắn ngủi), kết liễu Lê – Trịnh và Nguyễn chúa; đánh tan ngoại xâm phương Nam, phương Bắc, nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh, nhà Nguyễn trị vì, thống nhất một dải giang sơn rộng lớn từ Bắc tới Nam 2. Lực lượng sáng tác Nhà nho (đa dạng: tài tử, bình dân…),vua, chúa, quan, Thiền sư,…Dòng văn, thi xã phát triển mạnh, thời kì này văn học Đàng Trong nở rộ 3. Quan niệm văn học Thiên về đề cao chức năng thẩm mỹ (“văn học chủ Tình”, “quý Chân” ), VHNT ở trung tâm 4.Khuynh hướng cảm hứng Xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa - quan tâm đến con người bình thường, đánh dấu đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi. Đó là tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà các tác giả hướng đến, điều này được thể hiện qua nhiều khía cạnh: tinh thần yêu nước, tinh thần tôn giáo, tình yêu thiên nhiên, những quan niệm về đời sống hiện thực...Bên cạnh đó là các Khảo cứu (Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Phạm Đình Hổ…) 5.Thể loại ngôn ngữ Văn học chữ Hán: +Văn học chức năng: hịch, chiếu, văn tế, kệ/thi kệ… +Văn học nghệ thuật: Thơ: đa dạng thể- thất ngôn, ngũ ngôn, trường thiên, cổ phong…; Truyện truyền kì, Kí, Tự/Bạt, Tiểu thuyết chương hồi… - Văn học chữ Nôm: thơ Đường luật Nôm, văn tế Nôm, Phú Nôm, Truyện (thơ) Nôm; Ngâm khúc, Hát nói, … Đỉnh cao là văn học chữ Nôm và những thể loại văn học dân tộc 6.Tác giả tiêu biểu Đặng Trần Côn (1710-1745): Chinh phụ ngâm Đoàn Thị Điểm (1705-1748): Chinh phụ ngâm ( bản dịch ) Nguyễn Gia Thiều (1741-1798): Cung oán ngâm khúc Ngô gia văn phái: Ngô Thì Sĩ 1726-1780, Ngô Thì Nhậm 1746-1803, Ngô Thì Chí 1753-1788, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương, Ngô Giáp Đậu 1853-?; Ngô Thì Đạo 1732-1802, Ngô Thì Du 1772-1840… (tiêu biểu là tác phẩm Hoàng Lê nhất thống trí) Dòng văn Phan Huy: Phan Huy Ích 1750-1822, Phan Huy Thực 1778-1846, Phan Huy Chú 1782-1840, Phan Huy Vịnh 1800-1870 Dòng văn Nguyễn Huy: Nguyễn Huy Oánh 1713-1789, - Nguyễn Du (1765-1820): Đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du - Phạm Thái (1777-1813): Chiến tụng Tây hồ phú - Bà Huyện Thanh Quan (đầu XIX): Qua Đèo Ngang - Hồ Xuân Hương: Bánh trôi nước, Tự tình (I,II,III) - Vũ Trinh 1759-1828: Cung oán thi tập - Phạm Đình Hổ 1768 - 1839: Vũ Trung tùy bút - Nguyễn Công Trứ 1778-1858: nổi bật là ca trù ( Bỡn nhân tình) Tham khảo thêm: Tiến trình Văn học Việt Nam từ thế kỉ X- thế kỉ XVIi
Đã có người từng nói: “Kiến trúc là vũ khúc của đá, vũ đạo là âm nhạc cơ thể, âm nhạc là kiến trúc của âm thanh, hội họa là khúc biến tấu của màu sắc. Một tác phẩm văn học được coi là bàn yến tiệc của ngôn từ và cảm xúc. Để có một bàn yến tiệc thịnh soạn đầy đủ dư vị của cảm xúc của tác giả Nguyễn Minh Châu đã bày sẵn chờ người đọc thưởng thức với tất cả say mê đó là tác phảm Chiếc thuyền ngoài xa. Nổi bật trong đó là hình ảnh của người đàn bà làng chài và thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm tới bạn đọc. Nguyễn Minh Châu là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Năm hai mươi tuổi nhà văn gia nhập quân đội cho đến năm 1962 thì chuyển sang con đường sáng tác văn học. Trước thập kỷ 80 ngòi bút của Minh Châu thiên về tính sử thi hào hùng, lãng mạn, tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm thời kì này là những người chiến sỹ, thanh niên xung phong mang vẻ đẹp lý tưởng. Cho đến năm 1975 về sau, Nguyễn Minh Châu tập trung nghiên cứu sáng tác về cuộc sống của người dân lao động, những tác phẩm của ông đều lấy cảm hứng từ các vấn đề đạo đức và triết lý nhân sinh mà tâm điểm khám phá nghệ thuật ở thời kì này là hình ảnh con người bình thường trong cuộc sống mưu sinh vất vả, trong hành trang nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và thể hiện nhân cách, tiêu biểu là tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”. Tác phẩm được nhà văn sáng tác năm 1987, kể về chuyến đi công tác của nhiếp ảnh gia, những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về cái đẹp và cuộc đời. Đồng thời thể hiện tư tưởng của nhà văn, hướng tiếp cận mới của ông về góc độ đời tư thế sự và phong cách triết lý nhân sinh. Qua đó, tác phẩm đã làm sáng tỏ nhận định của nhà văn Nguyên Ngọc về Nguyễn Minh Châu: “nhà văn mở đường tinh anh cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới”. Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm văn học có tình huống truyện vô cùng độc đáo, cuốn hút người đọc ngay từ những câu văn đầu tiên. Bàn về tình huống truyện, có ý kiến cho rằng: “tình huống truyện chính là chiếc chìa khoá để vận hành cả cốt truyện”, “là điểm tựa để người đọc khám phá trọn vẹn một tác phẩm văn xuôi”. Tình huống truyện chính là những sự kiện bất ngờ, mới lạ, éo le…đó chính là những điểm nhấn then chốt hấp dẫn người đọc. Tình huống truyện cũng là khoảnh khắc mà ở đó nhận vật có thể bộc lộ rõ bản chất, tính cách của mình để từ đó chủ đề tư tưởng của truyện được thắp sáng. Bằng phong cách nghệ thuật và tài năng của mình, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện nhận thức vô cùng bất ngờ và chứa đựng những nghịch lý cuộc đời, đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện. Người đàn bà hàng chài là nhân vật trung tâm của tác phẩm- một người phụ nữ vô danh như bao số phận khốn khổ khác ở vùng eo biển miền Trung và dọc dải đất hình chữ S thời hậu chiến. Mới đầu, Phùng- người kể chuyện gọi chị ta là “mụ”, “người đàn bà” để tỏ lòng thương hại, có khi gọi là “chị ta” để thể hiện sự trân trọng một cách ngượng ngùng. Không đặt tên cho nhân vật không phải là do nhà văn thiếu thốn ngôn từ mà đó là dụ ý của tác giả, điều đó gợi cho chúng ta nhớ tới nhân vật “thị” trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” của nhà văn Nam cao. Dù không cùng giai đoạn sáng tác nhưng hai nhân vật cùng có cuộc đời giống nhau: đều là nạn nhân của cái đói, cái nghèo, đến một cái tên để xác định danh tính của một con người cũng không có bởi lẽ, số phận và cuộc đời của họ tiêu biểu cho những con người nhỏ bé, bình thường khác trong xã hội. Như vậy, thông qua một cảnh đời cụ thể tác giả đã nói hộ tâm sự của bao người đàn bà vô danh với những giọt nước mắt đau thương, tủi hờn. Hiện thực không hề đơn giản, một chiều mà luôn luôn tồn tại với nhiều mảng màu sắc đối lập chẳng thể giải đáp. Nghịch lý không dừng lại ở những phát hiện trước đó mà tiếp tục được tác giả đi sâu vào khai thác trong nhân vật người đàn bà hàng chài. Đây là một người phụ nữ đã trạc ngoài bốn mươi, dáng người đặc trưng của người miền biển, cao lớn với những “đường nét thô kệch”.Vẻ ngoài xấu xí, mặt chằng chịt những vết rỗ sau một bận lên đậu mùa, sắc mặt tái bệch đi sau một đêm dài thức trắng. Xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng vì xấu nên không ai lấy. Lúc đầu khi mới được chánh án Đẩu mời lên toà án, người đàn bà còn sợ sệt, lúng túng tìm đến một chỗ để ngồi. Khi được chánh án khuyên bỏ chồng, bà ta sợ hãi và lo lắng vô cùng mà cất lên lời van xin toà: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thật là kỳ lạ, một gã chồng vũ phu suốt ngày đánh đập “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” thì có gì đáng để bà ta phải lưu luyến mà không bỏ quách đi. Một người chồng một khi dám xuống tay đánh vợ và chửi rủa như thế, thì còn thiết tha hạnh phúc gì nữa, vậy mà người đàn bà giàu lòng vị tha, bao dung, độ lượng ấy nhất định không chịu bỏ chồng, không oán hận chồng mà còn bênh vực, thấu hiểu cho nỗi khổ của người chồng. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào những gì đang hiện ra ở trước mắt, thì người phụ nữ này quả thật là vô cùng đáng trách, trách vì sự kém cỏi hèn nhát của bản thân, trách vì đã để bản thân mình chịu nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thế nhưng không, cuộc đời vốn dĩ chẳng phơi bày ra trước mắt ta những nghiệt ngã, uẩn khúc. Đằng sau vẻ nhút nhát của người đàn bà ấy là sự hy sinh cao cả vì đàn con, vì mái ấm gia đình, người đàn bà thấu hiểu được nỗi khổ của người chồng. Qua lời kể của chị, người chồng khi còn trẻ tuy cục tính nhưng hiền lành, chị mang ơn người đàn ông ấy vì đã cứu lấy danh dự mình, vẫn cưới dù biết chị có mang với người đàn ông khác. Hoàn cảnh vốn dĩ chẳng được khá giả đã thế lại còn đông con, gánh nặng cơm áo như đè nặng hết lên vai người chồng. Những ngày trời đổ giông bão cả nhà chỉ ăn “cây xương rồng luộc chấm muối”, chị chép miệng như đang “nhìn suốt cả đời mình”, chị nhận hết lỗi về mình “giá tôi đẻ ít đi”...Mọi lý lẽ chị dùng để bao biện, bào chữa cũng không thể che lấp đi những hành vi đáng lên án của người chồng vũ phu nhưng cuộc đời vốn luôn tồn tại những nghịch lý, những ngang trái. Kẻ bị bạo hành kiên quyết bảo vệ kẻ tội đồ, kẻ tội đồ cũng là nạn nhân của số phận và chính mình. Đằng sau lí lẽ “khó hiểu” ấy là tình yêu chồng, là sự nhân hậu và bao dung của một người đàn bà thấu suốt, nghĩa tình. Chị hiểu người đàn ông đi đến bước đường này một phần cũng là do chị, rẳng người đàn ông kia cũng không muốn thế, rằng với chị, người đàn ông ấy từng có ơn. Suy cho cùng, ta có quyền đồng ý hoặc không đồng ý với lí lẽ của người đàn bà, nhưng ta cần phải tôn trọng sự lựa chọn và hy sinh vì gia đình, vì chồng của chị. Có lẽ,tình nghĩa vợ chồng và những kỉ niệm quá khứ khiến chị tình nguyện ở lại bên người đàn ông khốn khổ, chính sự bao dung của người phụ nữ khiến chị tìm đủ mọi cách để bảo vệ người chồng xấu xa, độc ác. Qua đó, vẻ đẹp khuất lấp khiến người đàn bà hàng chài trở thành một người phụ nữ rất đời, như bao nhiêu người phụ nữ ngoài kia. Người đàn bà thâm trầm, sâu sắc, chị hiểu thiện trí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên mình bỏ chồng vũ phu, tàn bạo. Xong chị càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước: quanh năm lênh đênh trên biển - nguồn sống duy nhất của cả gia đình từng ấy miệng ăn, chị thấu hiểu lẽ đời và luôn phải nhẫn nhục chịu đựng vì thương con bởi chúng còn thơ dại nếu không có bàn tay chăm sóc của người mẹ sẽ ra sao? Liệu người đàn ông thô bạo, khô khan ấy có dạy dỗ, bảo ban, quan tâm và săn sóc được chúng? Ở làng chài, những người phụ nữ cần có người đàn ông chèo lái con thuyền mỗi khi trời đổ phong ba, họ sức yếu vai mềm không thể một mình chống đỡ lại với bão táp ngoài biển khơi được. Trên vùng đầm phá mênh mông, quê hương cả mấy cây số song nước, biết bao hiểm nguy rình rập, con người, nhất là người phụ nữ lại quá nhỏ bé, yếu đuối. Trong cuộc sống, đâu phải lúc nào ta cũng có thể làm những điều ta muốn, đôi khi thay vì đấu tranh để hi sinh thì ta cần phải hòa hoãn, thỏa hiệp và chấp nhận để tồn tại.Chân lý ấy thật xa lạ với những quan niệm cứng nhắc, giản đơn của Đẩu và những lí lẽ nhân văn được tô màu đẹp đẽ của người nghệ sĩ lãng mạn Phùng.Dù khó chấp nhận, dù bất thường nhưng đó là thực tế, ta buộc phải chấp nhận dù đau đớn. Câu chuyện cuộc đời giản đơn của người đàn bà đã khai mở trong Đẩu, đặc biệt là Phùng những suy nghĩ về số phận con người, khiến họ nhận ra sự đơn giản, hời hợt, ngây thơ trong cách nhìn cuộc sống. Cũng trong lời giãi bày thật tình của một người đàn bà ít học, ta thấy cháy lên ánh sáng lấp lánh của trí tuệ nhân dân và sức sống kiên cường của người lao động. Những con người ấy sẵn sàng lao vào phong ba, bão táp để tìm đường sống, sẵn sàng hy sinh và thỏa hiệp để tiến lên. Những vẻ đẹp khuất lấp đó nếu không đến gần, không lắng nghe, không thấu cảm thì con người, nhất là người nghệ sĩ sẽ mãi mãi không bao giờ hiểu được.Như vậy, cái Đẩu và Phùng thấy chỉ là biểu hiện bên ngoài còn cái người đàn bà thấy là bản chất bên trong. Trong hoàn cảnh ấy, sự công chính của luật pháp, lòng tốt và chính nghĩa là chưa đủ để lí giải bài toán phức tạp về nỗi khổ của con người. Bằng cái nhìn sâu sắc, thấu suốt của người trải qua bao giông tố, người đàn bà hiểu nguyên nhân của mọi sự: đói nghèo sinh ra bạo lực, bạo lực nối tiếp bạo lực lại là nơi bắt đầu của những đói nghèo. Trong cái vòng luẩn quẩn ấy, con người buộc phải chấp nhận cái sự “lạc hậu” để mà tồn tại. Cũng như bao người phụ nữ khác, người đàn bà hàng chài cũng chỉ là một người mẹ giàu đức hi sinh, giàu lòng yêu thương con cái, một người vợ tình nghĩa, thủy chung giữa cuộc đời cơ cực, luôn chắt chiu những giọt hạnh phúc đời thường để khóa lấp nỗi đau và sự cô đơn. Trong cuộc đời đầy bóng tối và nỗi đau của chị, những giọt hạnh phúc có thể chỉ đếm hết bằng những đầu ngón tay- nó ít ỏi, nhỏ bé và mong manh. Thế nhưng đó lại là những ngày chị được theo anh xuống thuyền, thực hiện thiên chức của người vợ, người mẹ, đó là những giây phút hiếm hoi nhìn đàn con được ăn no sau cả tháng ngày lấp đầy bụng bằng “xương rồng luộc chấm muối”. Ta cảm nhận được ánh mắt ấm áp, nụ cười hiền từ của người mẹ khi nghĩ về những giây phút hạnh phúc ấy sau câu hỏi của Phùng : “ Có khi nào chị thật sự hạnh phúc không?” Có thể với nhiều người, những giây phút ấy chẳng có lí gì, mà nó lại quá ít ỏi và mong manh, nhưng đối với người đàn bà can đảm ấy thì những giây phút hiếm hoi đó lại là tài sản vô giá, là nguồn vui, là động lực.Chỉ cần bấy nhiêu thôi, người mẹ ấy có thể vì con mà chống lại cả thế giới. Vì tình thương con, vì gia đình, một người mẹ bình thường có thể trở nên vĩ đại mà lý lẽ đơn giản ấy Phùng và Đẩu không thể hiểu được. Càng trải qua đau khổ, càng qua nhiều going bão, người mẹ càng trân quý hơn hạnh phúc đời thường. Như vậy, nhân vật người mẹ làng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một minh chứng tiêu biểu cho ngạn ngữ phương Tây: “ Người xem con là mục đích đầu tiên cũng là mục đích cuối cùng của đời mình”. Qua đó, nhân vật người đàn bà hàng chài không tên, khốn khổ và vô danh giữa cuộc đời trong “ chiếc thuyền ngoài xa” trở thành biểu tượng đẹp đẽ của người mẹ, người vợ truyền thống, đó cũng là hình ảnh đại diện cho sức sống tiềm tàng, bền bỉ, thách thức số phận của con người. Cuộc đời người đàn bà như cuộc đời của một con trai biển, bị vùi lấp dưới tầng sâu bùn đất, chịu nép sau hốc đá, thân phủ kín rêu nhưng vẫn kiên trì bám trụ, nhẫn nại cố gắng, chịu đựng đớn đau mà bao phủ lấy hạt cát trong mình, dùng tình yêu biến hạt cát biến thành viên ngọc trai sáng lấp lánh. Với cái nhìn nhân ái và thấu cảm, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tìm ra những viên ngọc quý giá ấy, trân trọng, nâng niu mà đem phơi nó dưới ánh sáng của sự thật. Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài, Minh Châu đã gửi gắm những khám phá, phát hiện sâu sắc, đa diện về cuộc sống và con người, đồng thời là minh chứng rõ nét trong quan điểm sáng tác của nhà văn: “ nghệ thuật và đời sống phải là những đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”. Qua đoạn trích, Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà phi thẩm mĩ và xấu xí, một bên là vẻ đáng thương và phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà làng chài ấy là người có cốt cách bên trong: thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, thương chồng và thương đàn con nheo nhóc, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Qua hình ảnh người đàn bà làng chài chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam cho dù trong hoàn cảnh nào thì vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không được xinh đẹp nhưng trong họ luôn chúa đựng những phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn và chăm sóc gia đình hạnh phúc. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”đã mang đến cho chúng ta một bài học quý giá và đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: cần có cách nhìn đa diện, nhiều chiều, khám phá đúng bản chất chứ không thể đánh giá con người, sự vật qua vẻ bềngoài của nó, đồng thời thể hiện niềm tin và sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn con người. Qua đó, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện nhận thức sâu sắc, hình ảnh biểu trưng “chiếc thuyền ngoài xa” đó là vẻ đẹp lãng mạn của nghệ thuật, là ẩn dụ cho kiếp người đơn độc, lênh đênh trên biển lớn cuộc đời. Ngôn ngữ truyện chân thực, triết lý, thể hiện rõ tính cách nhân vật. Hình ảnh sáng tạo, chi tiết đặc sắc, giàu ý nghĩa. Giọng điệu đa dạng, phong phú, hấp dẫn người đọc. Sê-khốp từng cho rằng: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong tủy cốt”. Ý kiến trên khẳng định rằng trong thế giới văn chương đa sắc màu, vị trí của một nhà văn không chỉ được xác lập bởi tài năng mà còn bởi những nỗi niềm trắc ẩn sâu sắc của “người cầm bút” với cuộc đời và con người. Giá trị nhân đạo được hiểu là một trong những giá trị cơ bản của tác phẩm văn học được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong hoàn cảnh nào.Thông qua nhân vật “người đàn bà hàng chài” trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, người nghệ sĩchân chính –Minh Châu đã lắng nghe những vang vọng đời sống để lắng đọng, để cảm nhận, để trân trọng và thấu hiểu. Đó là sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh, Minh Châu cảm thương cho số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài, đồng thời thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người. Nhà văn lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình đang diễn ra trong xã hội, phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong cách đối xử với vợ, con. Bên cạnh đó, tác giả ngợi ca vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của chị.Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng. Như vậy, Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm văn học xuất sắc của Nguyễn Minh Châu, để lại cho chúng ta những bài học quý giá về triết lý nhân sinh của cuộc đời, biết đồng cảm, sẽ chia với những mảnh đời khốn khó. Từ tình huống truyện có ý nghĩa như một nút thắt để người đọc khám phá về sự thật cuộc đời.Nhà văn cũng như “thư ký của thời đại”, phải có trách nhiệm tái hiện cuộc sống trong ngòi bút nghệ thuật của mình. Lê Đạt từng nhận xét: “Mỗi con người có một dạng vân tay Mỗi nhà văn có một dạng vân chữ không trộn lẫn” Ý kiến trên khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt của nhà văn trong nền văn chương muôn màu sắc. Với tư cách là một nhà văn, Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta thấy “một dạng vân chữ không trộn lẫn đó” thông qua giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”, đặc biệt là trong cách xây dựng tình huống truyện khéo léo, lời văn trần thuật giàu xúc cảm, giàu chất tạo hình của người người đàn bà vị tha, độ lượng, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh và tình yêu thương con tại tòa án huyện.
Dàn bài chí tiết về đức hi sinh Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận đó là đức hi sinh Thân đoạn: Giải quyết vấn đề - Khái niệm: Đức hi sinh là gì? Là sự chấp nhận, nhường nhịn chịu thiệt thòi về bản thân và vì lợi ích của người khác - Biểu hiện của đức hi sinh: + Luôn suy nghị về người khác + sẵn sàng giúp đỡ người khác + đặt lợi ích của người khác trên lợi ích của mình Ví dụ: Những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh vì dân tộc Việt Nam - Ý nghĩa của đức hi sinh + Mang đến cơ hội tốt đẹp cho người khác + Nhận được sự tôn trọng, yếu quý từ những người xung quanh - Phản đề: + Nhiều người ích kỷ, vô cảm trước nỗi đau của người khác + Có người sẵn sàng hi sinh lợi ích của người khác để đạt được lợi ích tầm thường của mình -Kết đoạn: Bài học: Cần trân trọng những cá nhân có đức hi sinh + Mỗi chúng ta biết rèn luyện, tu dưỡng để có những phẩm chất đạo đức tốt. Bài văn mẫu ngắn nhất về đức hi sinh Trong cuộc sống, đức hi sinh là một phẩm chất đẹp, cao quý của con người. Vậy đức hi sinh là gì? Đức hi sinh là sự chấp nhận nhường nhịn, chịu thiệt thòi về bản thân vì lợi ích của người khác. Những người có đức hi sinh thường sẵn sàng giúp đỡ người khác và đặt lợi ích người khác trên lợi ích của mình. Như chúng ta thấy, ở thời chiến, các anh hùng liệt sĩ đã quên mình hi sinh vì dân vì nước vì độc lập dân tộc. Đức hi sinh ấy mang đến cơ hội tốt đẹp cho người khác nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Những người có phẩm chất này luôn được mọi người tôn trọng, yêu quý. Bên cạnh những tấm gương có đức hi sinh thì vẫn còn những kẻ ích kỉ, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, có những kẻ còn sẵn sàng hi sinh lợi ích của người khác để đạt được mục đích tầm thường của mình. Từ những luận bàn trên, chúng ta cần trân trọng những người có đức hi sinh và lên án những kẻ ích kỷ, vô cảm để xã hội thêm tốt đẹp. Là một học sinh, ngay hôm nay chúng ta cần biết rèn luyện, tu dưỡng để có những phẩm chất đạo đức tốt để trở thành con ngoan, trò giỏi.
Phương pháp học văn của cô Hà Huyền có những đặc điểm đáng chú ý, bao gồm: 1.Hiểu ngay trên lớp: Cô Hà Huyền tập trung vào việc giải thích và giúp học sinh hiểu sâu về các khái niệm và nội dung văn học ngay trong lớp. Cô thường sử dụng phương pháp giảng dạy tương tác, khuyến khích học sinh tham gia và đặt câu hỏi để hiểu rõ hơn về bài học. 2.Học theo sơ đồ tư duy: Cô Hà Huyền khuyến khích học sinh sử dụng sơ đồ tư duy (mind map) để tổ chức và tăng cường kiến thức về văn học. Sơ đồ tư duy giúp học sinh liên kết các yếu tố văn học, ý nghĩa và mối quan hệ giữa chúng một cách logic và rõ ràng. 3.Không cần học thuộc lòng nhưng nhớ bài rất lâu: Cô Hà Huyền không tập trung vào việc học thuộc lòng các đoạn văn một cách máy móc. Thay vào đó, cô khuyến khích học sinh hiểu sâu, phân tích và tìm hiểu ý nghĩa của từng câu, đoạn văn. Bằng việc hiểu sâu và tạo liên kết logic giữa các yếu tố văn học, học sinh có khả năng nhớ bài lâu hơn mà không cần phải học thuộc lòng. 4.Thảo luận và trao đổi ý kiến: Cô Hà Huyền khuyến khích học sinh thảo luận và trao đổi ý kiến với nhau về các tác phẩm văn học. Thông qua thảo luận, học sinh có cơ hội chia sẻ quan điểm, phân tích sâu hơn và mở rộng góc nhìn về các tác phẩm. 5.Áp dụng vào thực tế: Cô Hà Huyền khuyến khích học sinh áp dụng kiến thức văn học vào các tình huống thực tế. Điều này giúp học sinh nhận thức về ý nghĩa và ứng dụng của văn học trong cuộc sống hàng ngày. Tổng thể, phương pháp học văn của cô Hà Huyền tập trung vào việc hiểu sâu, phân tích và áp dụng kiến thức văn học vào thực tế. Cô khuyến khích học sinh tự tư duy, thảo luận và nhớ bài lâu bằng cách tạo liên kết logic và áp dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau. Top of Form Bottom of Form
Nghị luận văn học là một trong những phần quan trong và cao điểm nhất trong bố cục đề thi THPT QG. Chính vì thế nhiều học sinh đặt ra câu hỏi “Làm sao để viết chuẩn bố cục của một bài văn nghị luận văn học?”. Để trả lời cho câu hỏi đó 1 cách chính xác nhất hãy cùng Trung tâm gia sư cô Hà Huyền đi tìm hiểu Cách viết nghị luận văn học lớp 12 qua bài viết dưới đây. 1, Nghị luận văn học là gì? Trước khi đi tìm hiểu cách viết nghị luận văn học chúng ta phải hiểu “Nghị luận văn học là gì?”. Nghị luận văn học là dạng bài dùng để bày tỏ cảm xúc về tác phẩm văn học của riêng cá nhân. Dùng lý lẽ để đánh giá, phân tích về vấn đề ở đề bài yêu cầu để khám phá nội tâm, tâm tư của tác giả. Nghị luận văn học là dạng bài trọng tâm và khá quan trọng đối với học sinh lớp bởi đây là phần quyết định cho điểm cao hay thấp. Chính vì thế, các em học sinh cần nắm rõ cấu trúc và cách viết của dạng bài nghị luận văn học. 2, Cấu trúc và cách làm bài nghị luận văn học A: Mở bài -Giới thiệu tác giả, tác phẩm -Nêu được vấn đề nghị luận mà đề bài yêu cầu -Nêu nhận xét, đánh giá chung về vấn đề nghị luận B: Thân bài a, Khái quát: Phần này khá quan trọng bởi theo thang điểm của bộ nếu đúng và đủ thì phần khái quát này sẽ được 0,5 điểm -Trong phần khái quát chúng ta sẽ khái quát về tác giả( phong cách sáng tác, vị trí của tác giả trong nền văn học,...), tác phẩm, hoàn cảnh xuất xứ - Nêu cảm nhận chung, khái quát về toàn bộ tác phẩm b, Phân tích, cảm nhận về vấn đề nghị luận -Trong quá trình phân tích, các em học sinh phải xác lập hệ thống các luận điểm chính rồi dựa vào đó và thực hiện các thao tác: Phân tích, bàn luận, cảm nhận, chứng minh,…để ràm rõ những luận điểm đó. - Khi làm bài nên viết theo lối diễn dịch để các ý được rõ ràng, không bị thiếu ý và người chấm cũng dễ dàng khái quát được và cho điểm. - Đối với các tác phẩm văn học là thơ thì khi viết các em cần nắm rõ nghệ thuật để phân tích phần nội dung - Khi viết cần cô đọng, giọng văn phải kết hợp với suy tư cảm xúc để thể hiện rõ được cầu từ. Nên tránh những câu từ sáo rỗng để không bị mất sự mạch lạc trong bài văn. - Tránh gạch bỏ, tẩy xóa nhiều trong bài thi vì điều đó sẽ làm mất thiện cảm đối với người chấm. - Khi phân tích, bàn luận xong để tăng thêm chiều sâu cho bài viết thì các em học sinh cần có thêm so sánh, đối chiếu giữa nhân vật của tác phẩm này đối với tác phẩm khác, hoặc tác phẩm này với tác phẩm khác. Cần đưa thêm một số lời phê, nhận định văn học vào trong Bài làm để tăng sự thu hút, lôi cuốn người đọc. Những yếu tố này sẽ giúp bài viết của các bạn có thêm chiều sâu, phong phú từ đó sẽ giúp đạt điểm cao. c, Đánh giá về nghệ thuật: Theo thang điểm của Bộ GD&ĐT phần này sẽ được từ 0,5-1 điểm. Trước khi tới phần tổng kết đánh giá thì cách em học sinh cần để ý về phần đánh giá nghệ thuật nếu như đầy đủ cấu trúc bài điểm sẽ cao hơn. Trong phần này, các em học sinh khái quát lại toàn bộ nội dung nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng trong phần phân tích trên. C: Kết bài -Tổng kết lại vấn đề nghị luận mà đề bài yêu cầu. - Đưa lời đánh giá, nhận xét chung về tác phẩm. Qua bài viết trên, Trung tâm gia sư cô Hà Huyền đã chia sẽ tới các em học sinh đặc biết là các em học sinh lớp 12 cách làm bài nghị luận văn học từ đó giúp các em đạt kết quả tốt hơn trong những kì thi sắp tới.
Ngữ Văn là môn học chính trong chương trình học THCS hay THPT và nó là một trong nhưng môn bắt buộc khi thi THPTQG. Hiện nay, đa số học sinh đều phàn nàn về môn học này và cho rằng để học được môn này là rất khó. Hiểu được điều đó, các bậc phụ huynh lựa chọn giải pháp tìm gia sư tại nhà môn Ngữ văn để giúp con mình trở nên tự tin hơn với bộ môn nhàm chán, dài dòng này. Gia sư ngữ văn giỏi sẽ đưa ra phương pháp học hiệu quả giúp các em hứng thú hơn trong việc học. Hãy cùng Trung tâm gia sư cô Hà Huyền đi tìm hiểu thêm về gia sư tại nhà môn ngữ văn nhé! Khi nào nên tìm gia sư môn Ngữ văn? Văn chương là môn học có trọng lượng kiến thức vô cùng lớn, nếu để các em học sinh tự mình vượt quá mớ kiến thức ấy quả thực rất khó. Các em sẽ không thể tự mình tiếp thu được những kiến thức của văn bản hay không hiểu được ý nghĩa giáo dục sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc. Vì thế, không ít học sinh chán nản mà từ bỏ không muốn học môn học này nữa. Trong khi đó thời gian lên lớp của giáo viên rất hạn chế không thể quan tâm đến từng học sinh một mà cũng không thể đi sâu vào vấn đề của tác phẩm. Khi kiến thức văn học mở rộng, càng ngày càng nhiều lên, các em sẽ cảm thấy mệt mỏi và chán nản khi tới tiết của môn học này từ đó dẫn đến kết quả giảm sút thường cảm thấy mệt mỏi khi tới những giờ học của môn đó. Các em không thể nào tự mình cải thiện những lỗ hổng kiến thức của bộ môn này. Vì vậy, tìm gia sư tại nhà môn Ngữ Văn là phương pháp hiệu quả và tối ưu nhất. Học văn ở trên lớp và học văn với gia sư ngữ văn tại nhà có rất nhiều điểm khác biệt lớn. -Học văn với gia sư ngữ văn tại nhà: Với phương pháp này các em học sinh sẽ có nhiều thời gian hơn để chú tâm vào bài học. Đội ngũ gia sư ngữ văn sẽ tìm ra được một phương pháp học tập đúng đắn và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Học Ngữ văn với gia sư tại nhà sẽ giúp các em nhanh lấy lại được lượng kiến thức bị hổng và giảng dạy tận tình những vấn đề mà các em chưa hiểu. -Học văn trên lớp: Lượng thời gian học có giới hạn và rất đông học sinh nên thầy cô sẽ không để tâm tới được tình bạn. Bạn học yếu sẽ bị bỏ lại bởi những kiến kiến thức cơ bản thì các bạn tốt hơn đã năm rõ được vì vậy thầy cô sẽ thường lướt nhanh qua. Đa phần,tầy cô trên lớp sẽ dạy theo phương pháp truyền thống ít thu hút được sự thích thú của các em học sinh. Trung tâm gia sư cô Hà Huyền giới thiệu đến quý phụ huynh đội ngũ gia sư tại nhà môn Ngữ Văn. Đội ngũ gia sư sẽ giúp các em dẹp bỏ suy nghĩ học văn chỉ dành cho bạn có năng khiếu và môn học này rất dài dòng nhàm chán. Với đội ngũ gia sư cực kỳ chất lượng đến từ các trường đại học có tiếng tại Hà Nội như: Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Đại Học Ngoại Thương, Đại Học KTQD, … Đội ngũ gia sư của trung tâm đều là các bạn có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy các cấp, kiến thức chuyên môn vững chắc và phương pháp giảng dạy vô cùng tốt. Trung tâm gia sư cô Hà Huyền tuyển chọn kỹ càngcẩn thận từ chuyên môn kiến thức đến đạo đức và lý lịch trước khi gửi gia sư tới cho phụ huynh. Trung tâm gia sư giỏi 24h cảm kết với phụ huynh học sinh: -Học phí rẻ phù hợp với với nhiều gia đình -Học thử 2 buổi miễn phí. Nếu sau 2 buổi gia đình không thấy phù hợp hoặc phương pháp giảng dạy thiếu chuyên môn thì trung tâm sẽ đổi sang gia sư khác cho gia đình và không mất thêm khoản phí nào. -Giáo án bài giảng đúng trọng tâm kiến thức, dạy các em từ nền tảng đến nâng cao - Cam kết hiệu quả sau 10 buổi học: Sau 10 nuổi học sẽ giúp các em theo kịp tiến độ học trên lớp và đạt được kết quả tốt. Qua bài viết trên, Trung tâm gia sư cô Hà Huyền mong quý phụ huynh sẽ chọn trung tâm là nơi gửi gắm và đồng hành cùng các em. Ngữ văn là môn học cực kì quan trọng trong chương trình học từ THCS tới THPT vì vậy việc thuê gia sư tại nhà môn ngữ văn là một điều cần thiết và quan trọng. Mọi thắc mắc xin liên hệ số: 08.985.888.22 để biết thêm chi tiết và tìm cho con mình một gia sư ngữ văn tại nhà thật là phù hợp.
Làm sao để thi vào lớp 10 đạt kết quả cao? Là câu hỏi mà học sinh hay phụ huynh nào cũng muốn được giải đáp. Vì giai đoạn này vô cùng quan trọng, nó là bước ngoặt rất lớn trong cuộc đời của mỗi học sinh. Vì vậy việc có được bí quyết luyện thi vào lớp 10 để đạt kết quả cao là rất cần thiết. Sau đây Trung tâm gia sư cô Hà Huyền xin chia sẻ một vài bí quyết luyện thi vào lớp 10 hiệu quả nhất, góp phần không nhỏ trong việc đạt được kết quả tố trong kỳ thi này. 1. Nắm vững kiến thức Đầu tiên việc nắm vững kiến thức cơ bản là một nền tảng vững chắc để có thể làm tốt bài. Nhiều người quan niệm rằng học kiến thức nâng cao sẽ lấy được điểm cao hơn là học những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Nhưng những kiến thức và kỹ năng trong sách giáo khoa được xem là những kiến thức sẽ ra trong hầu hết các đề thi. Vì thế nên nắm vững kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa tránh trường hợp học nâng cao mà không hiệu quả. Chính những kiến thức cơ bản đó thì bạn mới có thể làm tốt các dạng bài tập nâng cao một cách dễ dàng. 2.Tự học Hãy rèn cho mình thói quen tự học sẽ giúp các bạn nâng cao hiệu quả học tập. Tạo cho mình một lối tư duy nhạy bén, tự ý thức được rằng việc tự học sẽ nâng cao tri thức cho bản thân. Khi hỏi đến bí quyết luyện thi vào lớp 10 là gì thì hầu như bạn nào cũng trả lời rằng trong quá trình ôn thi thì thời gian tự học luôn được áp dụng. Không phải cứ ngồi vào bàn học lâu thì càng tốt, hãy phân chia thời gian hợp lý cho tất cả các môn và điều quan trọng là phải thực sự tập trung tránh những tác động bên ngoài làm ảnh hưởng đến bạn. 3. Điều chỉnh thời gian học tập khoa học Để có thể ôn thi một cách khoa học thì bạn cần điều chỉnh thời gian học hợp lý. Vì kỳ thi vào lớp 10 không chỉ là một môn nên việc phân bố thời gian hợp lý cho từng môn là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy cần điều chỉnh thời gian giữa các môn và thời gian nghỉ ngơi. Khoảng thời gian nào nên học môn nào và khoảng thời gian nào nên nghỉ ngơi và giải trí thư giãn đầu óc. 4. Đọc lại bài trước khi ngủ Đọc lại bài trước khi đi ngủ là một bí quyết luyện thi vào lớp 10 vô cùng hiệu quả. Trước khi đi ngủ hay mới tỉnh dậy hãy nhẩm lại những kiến thức đã học để xem mình đã đọng lại trong trí nhớ bao nhiêu kiến thức. Cách học đó đã được rất nhiều các anh chị khóa trước áp dụng và rất hiệu quả. Mỗi ngày chúng ta hãy tạo cho mình một thói quen như vậy thì những chi tiết dù là vụn vặt nhất cũng không thể để mất. 5. Ôn đến đâu phải chắc đến đó Việc học đến đâu phải chắc đến đó là rất cần thiết, không được học trước quên sau. Làm sao mà khi học phần này khi sang phần khác mà chúng ta vẫn có thể làm lại được những phần đã học. Thời gian thi thì ngày một đến gần nhưng đừng quá hấp tấp mà học qua loa lấy số lượng mà chất lượng thì lại không có. Hãy hệ thống lại những kiến thức đã học, ôn lại thật kỹ những bài tập mà mình chưa vững thì đi thi chắc chắn sẽ được điểm cao. 6. Ôn thi theo nhóm Ngoài bí quyết tự học ra thì việc ôn thi theo nhóm là rất cần thiết. Các bạn sẽ được chia sẻ thông tin với nhau về các phương pháp làm bài, giúp nhau trong học tập, những bài mình biết có thể chỉ các bạn và ngược lại. Sẽ bổ trợ kiến thức qua lại, góp ý về bài tập đã làm đúng hay chưa, cùng nhau thảo luận, cùng nhau tìm ra đáp án và phương pháp làm hiệu quả. Học cùng nhau, tạo cho nhau động lực cùng phấn đấu mang lại kết quả cao trong kỳ thi tới. 7.Luyện nhiều đề thi khác nhau Học thôi chưa đủ hãy dành thêm thời gian mỗi ngày để luyện những đề thi thử. Tạo cho mình một thói quen và những kỹ năng cần thiết khi vào phòng thi, những chiến thuật hợp lý. Vì đề thi là nơi chứa các nội dung thi tổng quát nhất, hay chính những đề thi năm trước là một ví dụ. Nên thử sức với nó để có thể vận dụng linh hoạt những kiến thức của mình xem trình độ của mình đến đâu để có thể chỉnh đốn kịp thời. Đây cũng là sự rèn luyện về kỹ năng, sự tự tin và có những chiến thuật hợp lý để không còn bỡ ngỡ trước kỳ thi sắp tới. 8. Note lại những bài tập, kiến thức quan trọng Ghi chép và note lại những kiến thức quan trọng là một kỹ năng cần thiết không chỉ trong thời gian thì này mà trong cuộc sống cũng nên áp dụng rất nhiều. Việc viết những gì cần nhớ ra giấy sẽ giống như một lần nữa chúng ta ghi nhớ nó vậy. Ghi chú lại không phải chỉ viết rồi để đấy mà hãy đọc lại và áp dụng nó vào những bài tập có liên quan. Hãy viết theo ý hiểu của mình để khi đọc lại có thể hiểu một cách tổng quát và dễ dàng nhất. 9. Có tâm lý và kỹ năng thi vững vàng Tâm lý sẽ chi phối tất cả hoạt động của mình. Hãy giữ cho mình một tâm lý vững vàng có như thế mới có thể phát triển bộ não một cách tốt nhất. Tâm lý không tốt trước khi thi hay tình trạng căng thẳng kéo dài trong quá trình ôn thi tác động rất lớn đến tinh thần và sức khỏe của học sinh. Các em sẽ dễ suy giảm trí nhớ, những kiến thức học được vô tình bị đánh mất khi tâm lý không vững. Hãy tự tin rằng mọi người làm được thì mình sẽ làm được, luôn giữ cho mình một tâm lý ổn định và niềm tin tích cực. Tin rằng bạn xứng đáng để nhận được những điểm số cao. Bài viết trên là những bí quyết luyện thi vào lớp 10 mang lại hiệu quả cao. Trung tâm gia sư cô Hà Huyền mong rằng các bạn học sinh sẽ giữ cho mình một sự tự tin và nền tảng kiến thức vững vàng để có thể phát huy tốt khả năng của mình trong kỳ thi tới. Cuối cùng chúc các bạn học sinh ôn thi thật hiệu quả. Nếu các bạn cần gia sư tại nhà để ôn luyện kiến thức và có kỳ thi đạt kết quả cao thì hãy liên hê theo số: 0898 5888 22 Trung tâm gia sư cô Hà Huyền luôn đồng hành cùng các bạn trong mọi kỳ thi.