Khác với khung cảnh những đoàn bộ binh vượt Trường Sơn bằng "đôi hài vạn dặm" tạo nên vẻ đẹp: “Trường Sơn mây núi lô nhô Quân đi sóng lợ nhấp nhô bụii hồng” (Tố Hữu) Phạm Tiến Duật đã ghi lại những khoảnh khắc thật cảm động, đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe không kính trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn: “Những chiếc xe từ trong bom rơii Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.” Những chiến sĩ lái xe gắn bó máu thịt với từng tuyến đường thì hành trình ra trận của họ luôn phải vượt qua bao đèo dốc với những mưa bom, bão đạn và sự khốc liệt trong chiến tranh. Sau những gian khổ, mất mát hi sinh họ cùng nhau “họp thành tiểu đội” xe không kính, tiểu đội ấm áp thân tình. Những giây phút nghỉ ngơi ở chiến trường thật sự là những khoảnh khắc hiếm hoi, yên bình nhất. Trong khổ thơ đẹp nhất và ấn tượng nhất là hình ảnh tả thực nhưng rất lãng mạn: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay rất vội thay cho lời chào gặp mặt, đã tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt qua mọi hiểm nguy, gian khổ. Cái bắt tay ấy thắm tình đồng đội, đồng chí, không chỉ truyền cho nhau sức mạnh mà còn truyền cho nhau niềm tin, nghị lực, lòng quyết tâm để các anh vững tay lái trên những ngả đường gập ghềnh, hiểm trở. Nơi chiến trường ác liệt ấy họ đã làm thành một gia đình, tạm nghỉ bên nhau và quây quần trong những bữa cơm hội ngộ để rồi: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờii Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.” Qua những lời thơ giản dị trên, tác giả đã phần nào tái hiện được cuộc sống sinh hoạt của những người lính lái xe giữa chiến trường ác liệt, đồng thời còn gợi ra một định nghĩa đặc biệt về “gia đình”. Những người lính gặp nhau chỉ một lần trong đời, ăn chung với nhau một bữa cơm đã coi nhau như những người trong một gia đình. Tình cảm của họ sâu nặng, thiêng liêng được xích lại từ nhiều cái chung: chung “bát đũa”, chung “bếp lửa”, chung “con đường” chung cả ý chí chiến đấu. Câu thơ đẹp về cách nghĩ, cách nhìn không khác gì tình đồng chí của những người lính trong thời kì chống Pháp qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đêm rét chung chăn thành đôii tri kỉ”. Và một lần nữa Phạm Tiến Duật lại nói đến khó khăn: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. Mặc cho gian khổ, chông chênh là thế nhưng họ vẫn: “lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” khẳng định niềm lạc quan, lòng quyết tâm, niềm hi vọng, luôn hướng về phía trước vì miền Nam ruột thịt, vì sự hòa bình của những người lính lái xe. Chính tình đồng chí, đồng đội đã nâng bước chân các anh đi tiếp những chặng đường gian nan, thử thách để có những ngày thắng lợi, bình yên. Vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả khép lại bằng khổ thơ cuối cùng với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước. “Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trướ c Chỉ cần trong xe có một trái tim” Ở khổ này, điệp từ không lại được nhắc đến kết hợp phép liệt kê “không kính”, “không đèn”, “không mui”, “có xước” ... để khẳng định bom đạn của Mĩ đã làm biến dạng, làm méo mó làm trơ trụi những chiếc xe ra trận. Mặc dù vậy, chiến tranh có ác liệt đến mấy thì “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Vì chỉ cần trong xe “có một trái ti m”. Hình ảnh “một trái tim” khép lại bài thơ là nhãn tự, là biểu tượng về người lính lái xe qua phép hoánn dụ, đồng thời cũng là ẩn dụ chỉ ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt, lòng yêu nước nồng nàn. Đó chính là dũng khí mà Tố Hữu đã viết: “Thiếu tất cả ta rất giàu dũng khíi Sống chẳng cúi đầu chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ ta lại hoá anh hùn g Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo” Sức nhân nghĩa sẽ giúp ta chiến thắng mọi cường bạo của giặc Pháp trước kia và quân Mĩ ngày nay. “Trái tim” là ngọn đèn chỉ dẫn cho ta hướng tới nhân nghĩa, hướng tới tương lai hoà bình, độc lập và tự do. Kết bài: Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc và đầy ắp hiện thực đã làm nổi bật chân dung người lính lái xe Trường Sơn với tinh thần lạc quan thắm tình đồng chí, đồng đội và ý chí quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Những người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những phi công dũng cảm trên mặt đất mang trong mình tình yêu con người, tình yêu quê hương, tổ quốc. Hình ảnh đẹp đẽ ấy làm cho chúng ta thêm tin yêu kính phục thế hệ cha anh đã sống và chiến đấu, đã đổ máu và hi sinh cho độc lập, tự do, hạnh phúc ngày hôm nay.
Theo mạch cảm xúc của bài thơ, hình ảnh người lính lái xe còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn đáng mến, trẻ trung, lãng mạn, biến những khó khăn gian khổ thành sự thú vị trong cuộc sống. Không còn kính, nghĩa là không còn giới hạn với nguy hiểm nhưng cũng chẳng còn khoảng cách với thiên nhiên, để mà: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái” Với phép điệp ngữ quen thuộc qua động từ “nhìn thấy” như tạo một nút nhấn, nhấn mạnh tư thế chủ động mở ra những tầm nhìn bao quát của người lính lái xe. Trên những chiếc xe không kính ấy, người chiến sĩ lái xe phải tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài như đất trời, cỏ cây, chim thú. Xe bon bon với tốc độ nhanh, gió xoa dịu không khí nóng bỏng của chiến trường, gió mang bụi đến, rồi chúng dường như cùng thức, cùng hành quân ra trận với các anh. Và trên con đường ra trận, người lính lái xe được tự do quan sát, thoải mái chiêm ngưỡng vẻ đẹp không gian chiến trường. Họ không chỉ “thấy gió vào xoa mắt đắng” mà còn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Đó vừa là hình ảnh thực gợi tốc độ lao nhanh của đoàn xe trên đường đèo dốc đá núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho con đường của lí tưởng, con đường của lòng yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn. Con đường đó là con đường Cách mạng, con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ đã bỏ lại thanh xuân để gìn giữ, bảo vệ. Chính lời thơ ấy còn giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, trẻ trung của người lính lái xe qua hình ảnh so sánh độc đáo: “cánh chim”, “sao trời”, “như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh thơ gợi tả thiên nhiên như đồng hành cùng người chiến sĩ lái xe trên mọi nẻo đường ra trận. Có lẽ khoang lái trong xe không kính vốn là nơi nguy hiểm nhất nhưng đã trở thành một vũ trụ tí hon của các anh. Tác giả viết như vậy để gợi được phong thái ung dung, tư thế hiên ngang, sự bình thản của người lính trên con đường đầy khó khăn, hiểm nguy mà các chiến sĩ đang băng qua mỗi ngày. Tất cả điều ấy được tạo bởi ý chí và lý tưởng cao đẹp của họ. Nhờ thế mà tình cảm của những người lính trở nên trong sáng, gắn bó và lãng mạn hơn. Trên con đường ra trận, người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy song họ càng sáng ngời với tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi gian khổ khó khăn để vượt lên tất cả. Điều ấy được thể hiện rõ ở hai câu đầu của khổ 3 và khổ 4: “Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như ngườii già Không có kính ừ, thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” Ở lời thơ trên lặp cấu trúc “không có...ừ thì…” được tác giả sử dụng khá sáng tạo đã phản ánh chân thực những khó khăn, gian khổ mà người lính lái xe phải vượt qua. Vì không có kính nên trong những ngày nắng lửa, bụi Trường Sơn đã vào “xoa mắt đắng”, giờ đây lại “phun tóc trắng như người già”. Rồi mùa mưa đến, mưa Trường Sơn xối xả, không có kính chắn nên mưa “tuôn”, mưa “xối” thẳng vào buồng lái khiến cho các chiến sĩ ướt “như ngoài trời”. Câu thơ với những hình ảnh so sánh “như người già”, “như ngoài trời”, kết hợp các động từ mạnh “phun”, “tuôn”, “xối” cùng lặp cấu trúc câu đã khẳng định rằng những người lính lái xe trên đường ra trận không hề có phương tiện thuận lợi mà chỉ có khó khăn, gian khổ. Đó là chưa kể đến những trận mưa bom bão đạn mà đế quốc Mĩ điên cuồng ném xuống chặn đường xe chạy, những người lính có thể hi sinh bất cứ lúc nào. Như vậy, với hai lời thơ đầu chia đều ở hai khổ 3 và 4 đã phần nào giúp người đọc hiểu được những khó khăn, gian khổ sự hiểm nguy mà người lính lái xe phải trải qua. Hơn thế, chính tác giả Phạm Tiến Duật đã có hơn tám năm gắn bó với tuyến đường Trường Sơn, từng rất nhiều lần ngồi trong khoang lái của chiếc xe không kính. Vì vậy những cảm giác ấn tượng và sự gian khó của người lính lái xe đã được nhà thơ diễn tả một cách ngắn gọn và chân thực nhất. Trước những gian khổ đó nhưng người lính vẫn lạc quan, yêu đời, sôi nổi và trẻ trung: “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.” Tác giả đưa vào lời thơ ngôn từ tự nhiên, mộc mạc đậm chất khẩu ngữ, tạo nên giọng thơ vừa dí dỏm, vừa ngang tàng đã diễn tả thái độ đón nhận mọi thử thách của người lính lái xe như một lẽ thường tình. Điệp khúc "chưa cần rửa, chưa cần thay" đã thể hiện sự lạc quan và bất chấp khó khăn từ thiên nhiên mà người lính đang trải qua. Điệp khúc ấy diễn tả vẻ đẹp ngang tàng, ý chí hiên ngang, kiên cường, thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy của những chiến sĩ lái xe. Giữa không gian nồng nặc thuốc súng, đạn bom, lửa khói là tiếng “cười ha ha”. Tiếng cười hồn nhiên trong trẻo biết bao. Tiếng cười vút lên như thách thức kẻ thù. Tiếng cười lạc quan, sảng khoái của người lính làm tan biến những âu lo, mệt mỏi trên tuyến đường vốn nhiều lửa đạn. Tiếng cười ấy còn đọng lại trong ta một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ. Như người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu từng nếm trải những cơn sốt "biết từng cơn ớn lạnh" trong kháng chiến chống Pháp nhưng họ vẫn vui tươi, yêu đời và một lòng vì dân tộc Việt Nam. Với hai khổ thơ ba và bốn tác giả đều dùng câu thơ đậm chất văn xuôi với giọng điệu ngang tàng mà thanh thoát đã thể hiện được người lính với tinh thần lạc quan, yêu đời bất chấp hiểm nguy. Chính cách viết giản dị, chân thật này đã tạo ra một phong cách Phạm Tiến Duật nổi bật trong làng thơ kháng chiến chống chống Mĩ. Đọc tiếp: Vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” phần 3
Cảm nhận của em về vẻ đẹp hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật Mở bài: Có những tác phẩm người đọc quên ngay khi gấp trang sách lại nhưng có những tác phẩm theo dòng thời gian cứ lưu giữ mãi trong tâm hồn độc giả, để lại nhiều giá trị sâu sắc cho thế hệ mai sau. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một bài như vậy. Đến với tác phẩm, người đọc thực sự ấn tượng về vẻ đẹp hình ảnh của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn, tiêu biểu cho thế hệ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Thân bài: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được tác giả sáng tác năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Hàng ngàn sinh viên trên cả nước gác bút nghiên lên đường đánh giặc và điểm nóng lúc bấy giờ là con đường Trường Sơn huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Vượt qua mưa bom bão đạn của kể thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ, khó khăn để ra trận vì mục tiêu giải phóng đất nước. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh, khoảnh khắc tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn, có thể nói hiện thực đã đi thẳng vào các trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn không gò bó về vần đã trở thành bài ca quyết thắng cho tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Ngay từ những dòng thơ mở đầu những chiếc xe không kính đã được tác giả giới thiệu rất đặc biệt. “Không có kính không phải vì xe không có kín h Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.” Với ngôn ngữ thơ giản dị cùng lời nói dí dỏm, tự nhiên và chắc khỏe như tác phong người lính đã để lại nhiều ấn tượng ngay khi đọc. Từ ngữ phủ định “không” được lặp lại ba lần, chuyển sang ý khẳng định: những chiếc xe không kính vốn không phải là một chủng loại riêng, không phải là thiết kế của nhà sản xuất. Mà nó là một sự bất thường, bất thường này được giải thích một cách rất thản nhiên: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Câu thơ là lời lí giải nguyên nhân làm cho những chiếc xe không có kính. Điệp từ “bom”, kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” cho thấy sự ác liệt của chiến trường những năm chống Mĩ. Sự tàn bạo, dã man của đế quốc Mĩ ngày đêm không ngừng trút bom xuống tuyết đường huyết mạch Trường Sơn nhằm cắt đứt tuyến lưu thông duy nhất nối liền Bắc- Nam. Hình ảnh những chiếc xe không kính xuyên suốt bài thơ và còn được hiện lên cụ thể hơn, trần trụi cùng sự hỏng hóc không thể nào tả xiết: “Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước” Vẫn là phép điệp ngữ quen thuộc lặp từ “không có”, kết hợp với phép liệt kê tăng cấp: “không có kính”, “không có mui”, “không có đèn”, “có xước” cho thấy sự hỏng hóc càng tăng theo cấp số nhân, đó là quy luật tất yếu của sự huỷ diệt mà đế quốc Mĩ đã trút xuống Việt Nam. Tuy nhiên dường như càng ác liệt thì những chiếc xe càng dũng cảm, hiên ngang ra trận. Giọng điệu bình thản, lời thơ đậm chất văn xuôi, cái chất thực bề bộn, ngổn ngang của chiến trường đã tự nó là ánh hào quang. Vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng làm cho những chiếc xe không kính trở nên độc đáo trong từng lời thơ Phạm Tiến Duật. Có thể thấy với cái nhìn tinh tế, tâm hồn thơ nhạy cảm, và vốn sống phong phú Phạm Tiến Duật đã chọn lọc được nhiều hình ảnh chân thực nhất để sáng tạo nên hình tượng thơ độc đáo- những chiếc xe không kính băng mình ra mặt trận trên chiến trường đánh Mĩ. Đó là những hình ảnh vốn không hiếm, không lạ, nhưng cái hay cái mới mẻ ở đây là “xe không kính”, có ý nghĩa thực chứ không mang ý nghĩa biểu trưng. Vì thế, đọc thơ Phạm Tiến Duật ta có cảm giác như đang đi thẳng vào giữa cuộc chiến, đến nơi trọng điểm ác liệt nhất, gặp những con người quả cảm nhất. Bài thơ không chỉ hấp dẫn độc giả bằng hình tượng thơ độc đáo mà thông qua hình tượng ấy nhà thơ đã làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa. Trước hết người đọc nể phục tư thế ung dung, bình thản, hiên ngang, điềm tĩnh đến lạ kì của người lính lái xe qua hai câu thơ cuối của khổ một. “Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳngg” Với giọng thơ nhẹ nhàng, kết hợp từ láy tượng hình “ung dung” được đảo lên đầu câu có tác dụng nhấn mạnh, gợi tư thế đàng hoàng, bình thản, chủ động của người lính lái xe trước hoàn cảnh. Ngồi trên ca bin những chiếc xe không kính sẽ là mục tiêu nguy hiểm nhất, sẵn sàng dính bom đạn kẻ thù, vậy mà họ vẫn “ung dung”, nghĩa là không run, không lo, không sợ. Điệp từ “nhìn”, kết hợp phép liệt kê đã miêu tả sự quan sát thật cẩn thận, bình tĩnh của một tay lái làm chủ tuyến đường, làm chủ hoàn cảnh. Người lính lái xe “nhìn đất” để quan sát đường đi đầy hiểm trở gập ghềnh, “nhìn trời” để quan sát máy bay địch, “nhìn thẳng” về phía trước gợi tư thế chủ động thẳng tiến ra chiến trường đầy gian khổ, khó khăn và hi sinh nhưng không hề run sợ mà vững vàng, tự tin. Đọc tiếp: Vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” phần 2
Hãy tóm tắt văn bản (hồi thứ mười bốn) khoảng 14 dòng Được tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung và thân chinh cầm quân dẹp giặc. Vua Quang Trung tự tuyển binh và duyệt binh rồi chia thành hai đạo quân thủy - bộ, ngày 25 tháng chạp tiến quân thần tốc từ Phú Xuân (Huế) ta Thăng Long. Ngày 29 tháng Chạp ra tới Nghệ An, ngày 30 tháng Chạp đến núi Tam Điệp, mở tiệc khao quân hẹn mồng 7 tháng Giêng mở tiệc ăn mừng tại Thăng Long. Ngay đêm đó nghĩa quân tiếp tục hành quân. Rạng sáng mồng 3 Tết bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, giặc thua, Sầm Nghi Dống thắt cổ tự tử. Quân ta tiến vào thành Thăng Long đúng mồng 5 Tết. Quân Thanh hoảng sợ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tôn Si Nghị sợ mất mật tháo chạy lên biên giới. Vua Lên Chiêu Thống cũng tìm đường tháo quân chạy về phương Bắc.
Hãy phân tích chân dung Thúy Kiều và Thúy Vân qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du Chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và dẫn dắt vào bài Thân bài: Phân tích a Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều Trước hết Nguyễn Du giới thiệu chung về lai lịch, thứ tự trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị em qua nghệ thuật ước lệ, cổ điển, trang trọng “Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” - Lai lịch: Họ là hai người con gái trong gia đình họ Vương - Tố nga: Chỉ người con gái đẹp - Thứ tự trong gia đình: Chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân Ở hai câu thơ tiếp theo, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp hai chị em Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười - Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, trong trắng của người thiếu nữ. + “Mai cốt cách” chỉ cốt cách thanh cao như hoa mai + “Tuyết tinh thần” Phong thái, tâm hồn trong trắng như tuyết, tinh khiết như hoa tuyết Cách ngắt nhịp 4/4 và 3/3 ở câu thơ thứ 2 và thứ 3 nhịp nhàng đối xứng làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tinh thần, cả dung nhan và đức hạnh - Tác giả dùng lời bình để khép lại bốn câu thơ mở đầu + “Mỗi người một vẻ” cho thấy nét đẹp riêng có từ nhan sắc, tân hồn của mỗi người + “Mười phân vẹn mười” một vẻ đẹp không tì vết đến độ toàn diện, hoàn hảo của cả hai chị em. => Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã giới thiệu cho người đọc những nét ấn tượng về hai nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân. Đồng thời bộc lộ được cảm hứng nghệ thuật của tác giả qua bút pháp tài hoa, điêu luyện. b Bốn câu thơ tiếp theo: Gợi tả vè đẹp của Thúy Vân Chỉ vỏn vẹn với bốn câu thơ, Nguyễn Du đã tả một cách đầy đủ, trọn vẹn những đặc điểm và nét nét đẹp của Thúy Vân. “Vân xem trang trọng khác vời” giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân, một vẻ đẹp cao sang, quý phái. Gợi vẻ đẹp ấn tượng của người phụ nữ trong lễ giáo, khuôn khổ của xã hội phong kiến. Tiếp theo với ba câu tiếp bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng, phép ẩn dụ và nhân hóa tác giả đã miêu tả chi tiết trọn vẹn vẻ đẹp của Thúy Vân “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nangg Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” - Hình ảnh ẩn dụ: “Khuôn trăng đầy đặn” đã khắc họa vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp sáng ngời như Mặt trăng “Nét ngài nở nang” gợi tả đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt xinh đẹp, trẻ trung của Vân - Hình ảnh nhân hóa: “Hoa cười ngọc thốt” gợi tả nụ cười tươi tắn như hoa và tiếng nói trong trẻo và hàm răng ngọc ngà. “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” gợi tả mái tóc óng ả, nhẹ như mây còn làn da mịn màng và trắng đẹp hơn tuyết - Tác giả so sánh vẻ đẹp Thúy Vân với những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mấy, tuyết. =>Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên, một vẻ đẹp khiến thiên nhiên cũng phải thua và nhường. Dự báo một cuộc đời bình yên, suôn sẻ đang đón chờ Vân. c Mười hai câu tiếp theo: Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều Với Thúy Vân tác giả chỉ dùng bốn câu thơ thì với Thúy Kiều tác giả ưu ái hơn với mười hai câu thơ để khắc họa vẻ đẹp cả sắc và tài của nàng. Nguyễn Du không tả Kiều trước mà tả Vân trước, đây là nghệ thuật “đòn bẩy” để làm nổi bật Thúy Kiều, với Vân đã là tuyệt thế giai nhân thì Kiều còn hơn hẳn. “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơ n” Từ “càng” đứng trước hai từ láy “sắc sảo, mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp sắc sảo của trí tuệ và mặn mà về tâm hồn - Bút pháp ước lệ, tượng trưng, phép ẩn dụ ở câu thơ tiếp theo đã tạo nên một nét đẹp “tuyệt thế giai nhân” cho nàng Kiều “Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hòn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một tài đành họa hai” “Làn thu thủy” là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, huyền ảo và sâu thẳm như làn nước mùa thu. “Làn thu thủy” nói đến đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt - cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Vẻ đẹp của Kiều khiến “hoa ghen, liễu hờn” thể hiện thái độ của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng hơn thế vẻ đẹp ấy còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Một vẻ đẹp xuất sắc, hoàn mĩ của Kiều cũng báo hiệu số phận bất hạnh của nàng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt qua mọi khuôn khổ chuẩn mực của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho tất cả vẻ đệp khác phải ganh ghét, đố kị và oán hận. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm cho một số phận đầy oan trái, sóng gió. Kiều không chỉ đẹp về nhan sắc mà tác giả còn cho ta thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và rất đa tài “Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương” - Nàng là người con gái đa tài, xuất chúng hội tụ đầy đủ cầm, kì, thi, họa và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Tài đàn là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đó vượt lên trên mọi người và đạt độ xuất chúng qua câu “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm” - Nàng đã soạn lên cho mình một khúc nhạc, khi cất lên nghe mà não lòng và xúc động => Chân dung Thúy Kiều được tác giả khắc họa rất tài ba với vẻ đẹp đủ sắc và tài, tất cả đều đạt đến mức lí tưởng, xuất chúng, vẻ đẹp đó cũng báo hiệu một cuộc đời “bất hạnh” mà Kiều sắp phải gánh chịu. d Bốn câu thơ cuối: Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em “Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai” - Hai chị em Thúy Kiều không chỉ là tuyệt thế giai nhân mà họ còn là người đức hạnh và sống chuẩn mực, khuôn phép. + Gia cảnh: Họ sống trong gia đình khuôn phép và nề nếp + Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo thể hiện ở câu “Êm đềm trướng rủ màn che” + “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” dù đến tuổi “cài trâm, búi tóc” nhưng cả hai chị em vẫn kín đáo, khuôn phép và gia phong sau bức tường của lễ giáo phong kiến. Kết bài: Qua đoạn trích, chúng ta đã thấy tác giả ngợi ca vẻ đẹp “tuyệt mĩ” của chị em Thúy Kiều một cách linh hoạt và uyển chuyển. Mặc dù tác phẩm đã ra đời cách đây hàng trăm năm nhưng vẫn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc đối với người đọc trong và ngoài nước. Đoạn trích trên là một minh chứng rõ nét về sự tài ba này.
Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên và cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều trong Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du). Mở bài: Giới thiệu tác giả và đoạn trích hoặc dẫn dắt theo các cách khác nhau để vào bài - Ví dụ: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh tươi đẹp tưng xứng với tâm trạng của hai nhân vật, trong đó nổi bật là Thúy Kiều. Vậy bức tranh đó được tác giả khắc họa như thế nào chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Thân bài: Mỗi học sinh có cách cảm nhận khác nhau nhưng cần đạt những nội dung sau - Cảnh thiên nhiên ngày xuân được tác giả chấm phá, ước lệ theo trình tự không gian và thời gian, đồng thời tạo nên một bức tranh vô cùng tươi sáng và đẹp đẽ. Bốn câu thơ đầu là gợi tả khung cảnh ngày thiên nhiên với những nét đặc trưng của mùa Xuân. Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi, Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. - Hai câu đầu tác giả vừa gợi không gian và thời gian ngày xuân thấm thoắt trôi qua mau, tiết trời đã sang tháng ba (Đã ngoài sáu mươi). Những con én rộn ràng như đưa thoi trên bầu trời khoáng đạt, cao rộng phần nào đã cho chúng ta thấy ngày xuân trôi đi nhanh quá. Còn dưới mặt đất không khí vẫn đang sôi động, nhộn nhịp cùng bức tranh mùa xuân tươi đẹp đầy sắc màu. - Hai câu thơ sau là bức tranh mùa xuân tuyệt mĩ, mùa xuân đẹp trên nền cỏ xanh bát ngát tận chân trời và được điểm xuyết một vài bông lê trắng. Màu xanh và màu trắng đan xem nhau, bổ sung cho nhau tạo nên sự hài hòa, tươi đẹp cho mùa xuân. Nguyễn Du rất tài tình trong việc vận dụng ý trong hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm họa” (Cỏ thơm liền với trời xanh/ Hoa lê đã nở trên cành vài bông). Nếu câu thơ cổ nói màu xanh của trời, hương thơm của cỏ, hoa lê nở điểm trên cành thì Nguyễn Du tả cỏ xanh mênh mông, bát ngát tận chân trời. Chữ trắng được đảo lên trước chữ điểm tạo nên sự bất ngờ, mới mẻ khiến cảnh thiên nhiên có hồn và sống động, tươi tắn hơn bao giờ hết. => Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân của Nguyễn Du thật là tuyệt mĩ, tác giả đã rất thành công trong bút pháp nghệ thuât kết hợp giữa tả và gợi. Qua bức tranh thơ, người đọc cảm nhận được tâm hồn con người vui tươi, phấn chấn và tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi sáng, ấm áp của mùa xuân. - Tám câu thơ tiếp theo, tác giả tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và cảnh du xuân của nhân vật Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuâ n, Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng rắc vó tro tiền giấy bay Hai câu thơ đầu tác giả đã rất tài tình khi tách từ “Lễ hội” làm đôi, lễ và hội để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Lễ là hồi ước, tưởng niệm quá khứ, những cái đã qua và hội là khát khao, hoài vọng nhìn về phía trước, điều sắp tới trong tương lai. Dù được tách nhưng vẫn có mối liên kết chặt chẽ với nhau làm cho khung cảnh mang đầy đủ hoạt động của ngày xuân truyền thống. + Lễ là tảo mộ: thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ của người thân, đốt vàng vó, rắc tiền giấy để tưởng nhớ người đã khuất “Thoi vàng rắc vó tro tiền giấy bay”. Thể hiện truyền thống tri ân “Uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam. + Hội là đạp thanh: vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ ngát xanh. Đây là cuộc sống hiện tại và những nam thanh nữ tú có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau… - Trong đoạn này, tác giả sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) để làm rõ hơn tâm trạng du xuân của nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân - Ngoài ra Nguyễn Du sử dụng nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi sự đông vui, tấp nập và háo hức của con người trước cảnh ngày xuân. Và những động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng, vui tươi của ngày hội Những so sánh rất giản dị “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông đúc, náo nhiệt cùng tâm trạng phấn khởi của người trảy hội. Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm lên tất cả con người và cảnh vật trong đó có ba chị em nhà họ Vương. Thông qua hoạt động du xuân, Tác giả đã khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội đầy ý nghĩa và sống động. Qua những câu thơ trên chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng những giá trị truyền thống văn hóa xưa của dân tộc trong tết thanh minh. - Sáu câu cuối, cảnh chị em du xuân trở về Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanhh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Khác với đoạn thơ trên, đoạn này không còn không khí vui tươi, nhộn nhịp, nô nức nữa bởi hội đã tan, cảnh sắc xuân đã nhuốm màu trầm lắng. Tà tà bóng ngả về tây nói đến bầu trời nắng đã nhạt, khe nước nhỏ với nhịp cầu bắc ngang, chị em Thúy Kiều thơ thẩn dan tay ra về với những tâm trạng nuối tiếc, nao nao mà khó tả. Cảnh như nhạt dần, lặng dần mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không gian bắt đầu thu hẹp lại và phảng phất buồn. Trong văn học trung đại, chiều tà thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc buồn bã thê lương. Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt… Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc thanh minh để mang chút thơ thẩn bâng khuâng trên dặm đường về… - Tác giả đã sử dụng nhiều từ láy như: “nao nao, tà tà, thanh thanh” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng của con người với những nỗi buồn sâu lắng. Trong sắc thái lặng buồn của thiên nhiên cùng tâm trạng bâng khuâng của nhân vật trữ tình có cả linh cảm về điều sắp tới. Có gì đó buồn vui lẫn lộn và dúng như thế, buồn vì gặp mộ Đạm Tiên ngay sau đó “Sè sè nấm đất bên đàng/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”, rồi gặp chàng thư sinh Kim Trọng “Phong tư tài mạo tót vời”. Giai nhân kì ngộ, gặp gỡ, yêu đương mãnh liệt rồi tan vỡ. Kết bài: Với bút pháp cổ điển nhưng đầy sáng tạo cùng những từ láy miêu tả cảnh vật thì dường như bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình về bút pháp nghệ thuật của tác giả, đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du mà thi sĩ khác cùng thời không sánh được.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ những nỗi nhớ ấy đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng thật đau đớn, xót xa! Nhưng gạt bỏ cảnh ngộ của bản thân, nàng hướng yêu thương về người thân yêu nhất. Trái tim nàng thật giàu tình cảm và đức hi sinh, nàng thật sự là người tình thủy chung, là người con hiếu thảo một người có nhân cách đáng trân trọng. Nỗi nhớ chưa nguôi ngoại, Kiều lại quay trở về cảnh ngộ thực tại phũ phàng, đau xót của mình. Nỗi đau đớn ấy được thể hiện rõ ở tám câu thơ tiếp theo. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công “nỗi lòng cô quạnh, tê tái” của Kiều trong những ngày bị giam lỏng. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc họa rõ nét tâm trạng của Kiều qua đoạn trích. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích như gói trọn nỗi lòng của Thúy Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích, cách sử dụng điệp ngữ của Nguyễn Du đã khắc họa những nỗi buồn khác nhau của Kiều. Nỗi buồn ấy mỗi ngày một tăng lên và tác động vào cảnh vật làm cảnh vật mỗi lúc lại buồn hơn. Điệp ngữ “buồn trông” chứa đựng cái thoảng thốt, lo âu và sự xa lạ hút tầm nhìn cùng với dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu bước giữa cuộc đời ngang trái. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Không gian xa rộng, hút tầm nhìn nơi cửa bể vào buổi chiều càng làm rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Thúy Kiều. Cảnh “chiều hôm” cộng hưởng với “cánh buồm” xa xa đơn độc, lẻ loi giữa sông nước mênh mông với ánh sáng le lói cuối cùng cũng như thân phận Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại, càng nhìn về tương lại càng thấy mịt mờ và vô vọng. Càng hướng ra xa thì con thuyền đó cứ dần mất hút theo chiều tà để lại cuộc đời lênh đênh của nàng giữa bốn bề tăm tối nơi đất khách quê người. Không tìm thấy sự hi vọng từ cửa biển, nàng đã hướng về “ngọn nước” gần mình hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Cánh hoa trôi trên dòng nước như gợi nhắc thân phận của Thúy Kiều, nàng càng buồn hơn khi chính mình đã nhìn thấy cuộc đời nhỏ nhoi đang lênh đênh, vô định “ba chìm bảy nổi” giữa sóng nước, cuộc đời sẽ trôi dạt và sẽ đi về đâu? Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất: Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Nhưng càng trông thì càng thấy buồn (rầu rầu), màu “xanh xanh” không còn là màu xanh của sức sống của tháng ngày êm đẹp trong những ngày Tết thanh minh nữa. Màu xanh ở đây chính là sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Màu xanh của không gian gợi cho Kiều sự chán ngán, vô vọng và cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của nhân vật trữ tình trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một âm thanh của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh. Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Cơn “gió cuốn” tạo nên tiếng sóng “ầm ầm” kêu quanh ghế ngồi như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Âm thanh đó chính âm thanh dữ dội của cuộc đời bão táp đang ập xuống thân phận bé nhỏ của kiếp người trong xã hội phong kiến lạc hậu, đầy rẫy bất công. Tiếng sóng làm cho nỗi lo sợ, kinh hãi, đau đớn của nàng dâng đến tột đỉnh, nàng rơi vào thế tuyệt vọng và bất lực trước số phận nghiệt ngã của mình. Cảnh trong tám câu thơ cũng có thể là cảnh thực, cũng có thể là cảnh tượng trưng ước lệ song đây chỉ là phương tiện để gửi gắm tâm cảnh. Tác giả Nguyễn Du đã miêu tả cảnh vật từ xa đến gần, từ đậm đến nhạt, từ tĩnh đến động để khắc họa rõ nét nỗi buồn sâu thẳm đến kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm cực điểm trong lòng Thúy Kiều. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều theo quy luật “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kết bài: Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh phong phú, sinh động tả ngoại cảnh và tâm cảnh. Cái giá trị cốt lõi nhất mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta không chỉ là cảnh vật mà là cái tâm hồn, tâm trạng, tác giả mượn cảnh vật để nói lên cảm xúc khổ đau, xót xa, bi thương của nhân vật trữ tình Thúy Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự thấu hiểu, sẻ chia nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh đồng thời ngợi ca tấm lòng cao đẹp của Thúy Kiều để giúp ta hiểu hơn về những số phận “hồng nhan bac mệnh”. Đọc tiếp: Nghệ thuật miêu tả nội tâm và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du (phần 1)
Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để làm rõ nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. Mở bài: Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Bởi vậy mà qua nhiều thế kỉ nhưng Truyện Kiều vẫn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Hơn thế, Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh ngụ tình mà còn đạt đỉnh cao trong nghệ thuật tả tâm trạng, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một minh chứng. Thân bài: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã được Nguyễn Du miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc cảm xúc trong tâm trạng nàng Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng son sắt Kiều dành cho Kim Trọng và sự hiếu thảo mà nàng dành cho cha mẹ của mình. Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có bố cục rất rõ ràng và hợp lí. Phần đầu là giới thiệu cảnh bị giam lỏng ở Ngưng Bích, phần thứ hai là nỗi cô đơn buồn tủi và nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ, phần thứ ba là tâm trạng đau buồn của Kiều mỗi lúc một lớn và những dự cảm về những giông tố mà Kiều không thể tránh khỏi. Ở sáu câu thơ đầu là khung cảnh hoang vắng, mênh mông đến rợn người bởi ngồi trên lầu cao nhìn về phía trước là những núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng còn nhìn xuống là cát vàng dài vô tận, lác đác là bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, hiu quạnh, tội nghiệp của Thúy Kiều; Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm ki a Với một không gian rộng lớn nhưng không một người thân, không một bóng người càng làm cho Kiều càng xót xa, đau đớn. Hoàn cảnh của Kiều lúc này rất mông lung, bi đát. Tú Bà cho Kiều ra ở Ngưng Bích nhưng thực chất là giam lỏng Kiều để thực hiện kế hoạch đê tiện và tàn bạo hơn, từ “khóa xuân” đã lột tả được những gì mà Kiều đang và sẽ phải đối mặt khi âm mưu bì ổi của Tú Bà đang dần thực hiện. Càng đau đớn, buồn tủi bao nhiêu thì nàng lại thấy xấu hổ, bẽ bàng bấy nhiêu. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Một chữ bẽ bàng đã lột tả được toàn bộ tâm trạng của Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích, nàng xấu hổ trước mây sớm đèn khuya. Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ánh đèn, cảnh và người cùng thao thức và sẻ chia. Giờ đây nàng như mất tất cả: người yêu, gia đình và cả thanh xuân tươi đẹp sự trơ trọi, cô độc ấy nơi đất khách quê người chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Trong tâm trạng ấy, nàng tìm về những người thân của mình, nàng nhớ về mối tình đầu chàng Kim Trọng và nhớ bậc sinh thành. Nỗi nhớ ấy được tác giả Nguyễn Du miêu tả rất đắt trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật Thúy Kiều. Nỗi nhớ thương được chia đều trong tám câu thơ, bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng Thúy Kiều lại nhớ Kim Trọng trước bởi đây là mối tình đầu thắm thiết, là nỗi nhớ nồng nàn sâu thẳm, nàng nhớ về đêm thề nguyền hẹn ước dưới ánh trăng hôm nào. Quá khứ thiêng liêng, đẹp đẽ như vẫn còn đây mà giờ đã thành hoài vọng Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm thân gột rửa bao giờ cho phaii. Lời thơ chứa đựng bao suy tư, thổn thức của Kiều dành cho Kim Trọng, nỗi suy tư đó dường như đang rỉ máu trong trái tim son sắt, thủy chung của nàng. Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang mong ngóng nàng và không biết tin nàng phải bán mình, bị đẩy vào cõi góc bể chân trời bơ vơ. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám cho lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà giờ đây mỗi người mỗi ngả. Nàng thấy mình có lỗi và tự dằn vặt bản thân, lời thề ước đó nàng không thực hiện được, nàng bỗng dưng trở thành kẻ phụ bạc, lỡ hẹn với chàng. Nàng thấy xót xa, tủi hổ khi tất cả những gì đẹp đẽ mà muốn dành cho chàng thì nay lại bị hoen ố, chà đạp và biết bao giờ mới rửa được vết nhơ? “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” Nỗi dằn vặt, vò xé đó biết bao giờ mới nguôi ngoai, phai mờ? Nhớ người yêu, nàng càng xót xa nghĩ đến cha mẹ, mặc dù đã bán mình để cứu cha mẹ và em khỏi vòng tù tội nhưng nghĩ về người sinh thành thì bao trùm trong nàng là nỗi xót xa, lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông ngóng tin của nàng Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ, Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Nàng lo lắng nhiều hơn không biết ở nhà có ai chăm sóc, phung dưỡng cha mẹ mỗi khi thời tiết chuyển mùa? Nàng tưởng tượng nơi quê nhà đã đồi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ đã già yếu. Nguyễn Du đã rất thành Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi sự tàn phá của thời gian.công khi sử dụng thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những trăn trở, băn khoăn của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứn g tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo. Đọc tiếp: Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để làm rõ nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du (tiếp)
Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga Mở bài: Giới thiệu tác giả và dẫn dắt vào đề bài Truyện “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm có sức sống mạnh mẽ và bền lâu được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, đặc biệt là người dân Nam Bộ. Nhân vật chính mà tác giả khắc họa là Lục Vân Tiên, một người anh hùng tài hoa, dũng cảm cứu người khốn khó. Nhân vật được cứu đó là Kiều Nguyệt Nga, một cô gái thùy mị, nết na và có học thức. Để tìm hiểu rõ hơn về hai nhân vật này, chúng ta cùng nhau đi đến tác phẩm. Thân bài: Các em dựa theo các ý như sau: Đoạn trích “Lục Vân Tiên” nằm ở phần đầu của truyện * Nhân vật Lục Vân Tiên - Lục Vân Tiên là nhân vật lí tưởng của tác phẩm, tác giả xây dựng nhân vật theo mô tip quen thuộc của truyện Nôm: chàng trai tài giỏi cứu mĩ nhân qua tình huống khó khăn, rồi từ ân nghĩa đến tình yêu. Mô - tip này thể hiện niềm mong ước của Nguyễn Đình Chiểu và cũng là mong ước của nhân dân trong thời loạn lạc, nhiễu nhương của chế độ phong kiến. - Hình ảnh Lục Vân Tiên nổi bật trong đoạn trích là người anh hùng hảo hán, tuổi đời còn trẻ vừa rời trang sách trong trường học, bước vào đời lòng đầy hăm hở. muốn lập công danh và cứu người giúp đời. Đối mặt với bọn cướp Phong Lai hung dữ là thử thách đầu tiên và cũng là cơ hội hành động thử sức dành cho chàng. Vân Tiên ghé lại bên đàng Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô. Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ! Chớ quen làm thói hồ đồ hại dâ n. Phong Lai mặt đỏ phừng phừng: Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây. Trước gây việc dữ tại mầy, Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng - Bốn câu thơ là hình ảnh một chàng trai giàu lòng nghĩa hiệp, gặp chuyện bất bình giữa đường sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp, không cần phải suy tính. Vân Tiên chỉ có một mình tay không đánh giặc trong khi bọn cướp đông đảo và đầy đủ hung khí hơn thế chúng còn lẫy lừng, ai cũng phải khiếp sợ. Mặc dù vậy chàng không hề run sợ, vẫn “bẻ cây làm gậy” xông vào đánh cướp. Vân Tiên tả đột hữu xông, Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dan g. - Chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật một dũng tướng đánh nhanh, võ hiệp, sánh ngang Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vòng vây quân Tào bảo vệ con nhỏ của Lưu Bị Hành động rất mau lẹ và được tác giả miêu tả thật đẹp và oai hùng, bọn cướp bốn phía bủa vây “Lâu la bốn phía vỡ tan” nhưng Vân Tiên vẫn đánh tan bọn cướp và hạ thủ được tên Phong Lai - kẻ cầm cầm “Phong Lai trở chẳng kịp tay/ Bị Tiên một gậy thác rày thân vong” => Sức mạnh được kết tinh từ khát vọng của nhân dân và lòng anh dũng cả nhân vật đã tạo nên sức mạnh vô địch như vậy. Với lời thơ chân chất, mộc mạc cùng giọng kể hả hê, hào hứng đã làm bật lên chân lí: kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa tất yếu sẽ chiến thắng. Vân Tiên đã chiến thắng bởi sức mạnh của nhân nghĩa, của lẽ phải, sức mạnh của tình yêu thương và lòng dũng cảm kiên cường. Chàng chính là hiện thân của người anh hùng thượng võ dám bênh vực kẻ yếu, tiêu diệt mọi thế lực bạo tàn. Dũng mãnh trước cái ác nhưng Vân Tiên lại rất ân cần, hào hiệp trước cái thiện + Sau khi dẹp xong lũ kiến, chòm ong thấy hai cô gái còn sợ hãi, Vân Tiên ân cần hỏi han, an ủi: Vân Tiên nghe nói động lòng Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la. - Khi nghe trong kiệu vọng ra tiếng nói muốn được tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi ngay: Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai. Câu thơ này chứa đựng lễ giáo phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân”, đã thể hiện suy nghĩ trong sáng của Vân Tiên + Nguyệt Nga muốn cảm tạ, dền ơn chàng nhưng Vân Tiên từ chối: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.” Chàng không muốn nhận những cái lạy tạ của hai cô gái và từ chối lời mời về thăm nhà của Nguyệt Nga. Sau đó, chàng không nhận chiếc trâm vàng nàng tặng mà chỉ cùng nàng xướng họa một bài thơ rồi thanh thản rời đi, không hề vương vấn. Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên. Con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của những bậc anh hùng hảo hán: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. =>Với hành động của Lục Vân Tiên đã bộc lộ phẩm chất cao đẹp và lòng nghĩa hiệp của một anh hùng đầy nhân hậu, chàng đã trở thành một hình tượng lí tưởng trong văn chương của Đồ Chiểu dể gửi gắm vào đó là niềm tin và ước vọng của tác giả. *Nhân vật Kiều Nguyệt Nga - Phẩm chất Kiều Nguyệt Nga được hiện lên qua ngôn ngữ đối thoại của Vân Tiên, đó là lời lẽ của một tiểu thư thùy mị, nết na và có học thức. + Cách xưng hô và nói năng của nàng vừa trân trọng và khiêm nhường và khuôn phép: “quân tử, tiện thiếp, làm con đâu dám cãi cha, chút tôi liễu yếu đào tơ” + Một cô gái đằm thắm, ân tình có trước có sau: “Ơn ai một chút chẳng quên” Nàng rất hiểu phép tắc ứng xử, hiểu được ơn cứu mạng của Vân Tiên với mình là rất lớn. Nàng băn khoăn tiền bạc không có nên có lời mời Vân Tiên về nhà để cha đền đáp: “Hà Khê qua đó cũng gần/ Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng”. Hơn thế nàng còn tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với chàng và sau này dám liều mình để giữ trọn ân nghĩa thủy chung. Qua cách ứng xử của Kiều Nguyệt Nga cho chúng ta thấy nàng là cô gái đáng trân trọng và đáng yêu thương, xứng đáng với người anh hùng nghĩa hiệp. =>Kiều Nguyệt Nga đại diện cho những con người hiền lành, yếu đuối trong xã hội đồng thời là hiện thân của những con người ân nghĩa coi ân nghĩa là gốc rễ của đạo đức. Kết bài: Với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên dễ đi vào lòng người mang đậm sắc thái Nam Bộ, tác giả đã xây dựng thành công hai nhân vật lí tưởng với những phẩm chất tốt đẹp hướng đến khát khao, mơ ước của người dân. Những ước mơ đó cũng là sự ước mở của tác giả, phù hợp với tâm lí của nhân dân và xã hội loạn lac, nhiễu nhương thời phong kiến lúc bấy giờ. Tác phẩm để lại giá trị nhân văn sâu sắc cho nhiều thế hệ độc giả.
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi Quê hương anh nước mặn đồng chu a Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng bên súng, đầu sát bên đầuu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí (Đồng chí - Chính Hữu) Câu hỏi: a Nêu nội dung chính và hoàn cảnh sáng tác bài thơ? b Tìm câu thành ngữ có trong đoạn thơ trên? Giải thích câu thành ngữ đó? c Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó? d Chỉ ra cấu trúc sóng đôi được sử dụng trong đoạn thơ và nêu tác dụng của cấu trúc câu đó tới việc thể hiện nội dung của đoạn? e Xét theo cấu tạo ngữ pháp, câu thơ cuối đoạn thuộc kiểu câu gì? Nêu ngắn gọn tác dụng của việc sử dụng kiểu câu ấy trong văn cảnh f Viết đoạn văn diễn dịch (khoảng 10 câu) nêu cảm nhận của em về tình đồng chí của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp được thể hiện trong đoạn thơ. Hướng dẫn trả lời a Nội dung chính của đoạn là lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của người lính khi tham gia cách mạng. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc cuối năm 1947, đánh bại cuộc tiến công qu y mô lớn của quân Pháp lên khu căn cứ địa Việt Bắc – đầu não kháng chiến. b Thành ngữ “nước mặn, đồng chua” nói về vùng quê gần biển, nghèo nàn nước mặn, nơi mà gần như chẳng có hoa màu nào phát triển được. “Đất cày lên sỏi đá” nói về vùng đất trung du khó khăn, khô cằn khó canh tác Cả hai thành ngữ nhằm chỉ ra sự tương đồng về xuất thân khó khăn, cùng cảnh ngộ là cơ sở hình thành tình đồng chí c Biện pháp điệp từ và hoán dụ ở hai từ “súng, đầu” Tác dụng tạo nên sự đối xứng trong câu thơ, gợi lên sự khắc nghiệt, nguy hiểm của chiến tranh (hình ảnh súng sẵn sàng chiến đấu) hình ảnh đầu thể hiện sự đoàn kết, chung sức cùng nhau chiến đấu. d Cấu trúc song đôi (đối cặp) - Anh với tôi và Nước mặn đồng chua- đất cày lên sỏi đá Tác dụng: Nhấn mạnh cùng cảnh ngộ và có xuất thân nghèo khó, cấu trúc đã nói lên cơ sở hình thành tình đống chí thân thiết, gắn kết. e Câu thơ cuối có cấu tạo câu đặc biệt: “Đồng chí!” Tác dụng: Về nghệ thuật là bản lề kép, nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau, cùng với dấu chấm cảm đã tạo nên sự trìu mến, yêu thương, thân thiết. Về nội dung: Đó là một lời khẳng định, một định nghĩa về đồng chí, thể hiện cảm xúc bị dồn nén được nói ra như cao trào của cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội. Chính câu đó cũng nhấn mạnh sự thiêng liêng, sâu láng của tình đồng chí. f Học sinh cần đạt đúng về hình thức đoạn văn và nội dung cùng câu chủ đề là diễn dịch - Mở đoạn: Giới thiệu bằng một câu chủ đề về tình đồng chí của những người lính trong kháng chiến chống Pháp - Thân đoạn: Bám sát nội dung và nghệ thuật trong văn bản đề làm rõ cơ sở hình thành tình đồng chí trong đoạn thơ + Các anh cùng chung xuất thân từ tầng lớp nông dân nghèo khó + Họ chung nhiệm vụ, chung lý tưởng chiến đấu + Cùng chia sẻ, đoàn kết trong cuộc sống đầy gian nan của người lính cách mạng - Kết bài; Khẳng định hoặc khái quát vấn đề
Tên văn bản Tác giả Nội dung Nghệ thuật Chị em Thúy Kiều (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) Nguyễn Du (1965 - 1820) tên hiệu Thanh Hiên, tên chữ Tố Như Ca ngợi vẻ đẹp và tài năng của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Dự báo về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh Bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người. Hình ảnh ẩn dụ, liệt kê, nhân hóa khắc họa rõ nét chị em Thúy Kiều. Cảnh ngày xuân Nguyễn Du Bức tranh mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt. Là đoạn trích tiêu biểu trong nghệ thuật tả cảnh của đại thi hào Nguyễn Du Kết hợp nhiều bút pháp nghệ thuật, giàu chất tạo hình, tả cảnh ngụ tình So sánh, nhân hóa, ẩn dụ và nhiều từ láy Mã Giám Sinh Mua Kiều Nguyễn Du Lột trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Tâm trạng đau đớn xót xa, tủi hổ của Thúy Kiều. Lên án thế lực tàn bạo chà đạp lên thân phận người phụ nữ. Khắc họa thành công tính cách nhân vật phản diện qua miêu tả ngoại hình, cử chỉ ngôn ngữ và đối thoại Kiều ở lầu Ngưng Bích Nguyễn Du Cảnh cô đơn, tâm trạng buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều Khắc họa thành công nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và bút pháp tả cảnh ngụ tình Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (trích Truyện Lục Vân Tiên) Nguyễn Đình Chiểu (1822- 1888) gọi là Đồ Chiểu. Quê Thừa Thiên Huế, ông sinh ra tại quê mẹ Gia Định Khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng, đề cao tinh thần nghĩa hiêp, sẵn sàng cứu giúp người khác. Ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga Nhân vật được kể thiên về lời nói, diễn biến nội tâm qua đó nhân vật tự bộc lộ tính cách, phẩm chất
Trình bày những nét cơ bản về sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân. I Đặt vấn đề Nguyễn Tuân đã để lại một sự nghiệp văn học có giá trị sâu sắc và chiếm một vị trí đặc biệt trong nền văn học dân tộc. Sự nghiệp văn học đó xuất phát từ một quan điểm nghệ thuật tiến bộ. Được hoàn thiện qua hai trận sáng tác trước sau cách mạng tháng Tám năm 1945. II Giải quyết vấn đề 1 Giai đoạn trước cách mạng T8 năm 1945 Các tác phẩm tiêu biểu: một chuyến đi (1938), vang bóng một thời (1939), thiếu quê hương (1940), chiếc lư đồng mắt cua (1941) Điểm đặc sắc nghệ thuật và nội dung: tập trung vào 3 đề tài: chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời, đời sống trụy lạc. Chủ nghĩa xê dịch: đây là tư tưởng vay mượn của phương tây với chủ trương đi không mục đích để tìm cảm giác mới lạ trong tư tưởng. Thoát li trách nhiệm với gia đình và xã hội Với nghệ thuật: Ông tìm đến tư tưởng này bộc lộ thái độ bất mãn với xã hội. Ông muốn thay đổi thực đơn cho giác quan. Thỏa mãn cá tính của người nghệ sĩ có dịp đến với thiên nhiên với miền đất nước. => Tác dụng: chính vì vậy Nguyễn Tuân có những những trang trang viết thành công ca ngợi cảnh sắc của nhiều vùng quê trên khắp mọi miền tổ quốc. Vẻ đẹp vang bóng một thời: không tin tưởng vào hiện tại và tương lai. Nguyễn Tuân đã tìm đến vẻ đẹp trong quá khứ “vang bóng một thời”. Đó là ông tìm về vẻ đẹp của nền văn học truyền thống với những phong tục tập quán để được thể hiện qua các nhân vật TT - lớp nhà nho tài hoa tuy đã lỗi thời thất thế nhưng không chịu sống theo lối sống xã hội thực dân nửa phong kiến mà vẫn giữ trọn khí tiết thanh cao của những nhà nho chân chính. Đời sống truy lạc: Nguyễn Tuân đã thể hiện sự bế tắc muốn thoát ly để cho nhân vật của mình chìm đắm trong đàn hát, rượu, thuốc phiện. Tuy nhiên trong đó đôi khi vẫn toát lên niềm khao khát một thế giới thanh cao được nâng đỡ trên đôi cánh của nghệ thuật -> sáng tác không nhiều => Trước cách mạng tháng 8 sáng tác của Nguyễn Tuân nổi bật với cái nhất tài hoa đối lập với trật tự xã hội đen tối mang đậm bản sắc dân tộc. Trước cách mạng tháng tám ông được đánh giá là cây bút tiêu biểu nhất của VHLM trong chặng cuối cùng. 2 Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Tác phẩm tiêu biểu: Tùy bút kháng chiến (1945), Đường vui (1949), Tình Chiến Dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972). Đặc sắc: Sau cách mạng Nguyễn Tuân có sự thay đổi sâu sắc về tư tưởng ông chuyển thành hướng về cuộc sống ảnh chiến đấu của dân tộc. Sự nghiệp: xây dựng cuộc sống mới, con người mới trên quê hương đất nước. Do vậy ông luôn luôn có ý thức đóng góp cho nền văn học dân tộc trên cương vị của một nhà văn ông phát huy cá tính và phẩm chất nghệ thuật độc đáo của mình. Chính vì vậy ông có khá nhiều tác phẩm xuất sắc ca ngợi nhân dân đất nước đặc biệt ông phát huy sở trường trong thể tùy bút. Vì vậy sau cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân được đánh giá là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 3 Kết thúc vấn đề Khẳng định vị trí văn học lịch sử của Nguyễn Tuân. Với những sáng tác của mình Nguyễn Tuân được đánh giá là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nguyễn Tuân không chỉ là nhà văn có tài mà ông còn là nhà văn có nhân cách, có cái tâm trong sáng. Cuộc đời sáng tác của ông đã được để lại nhiều bài học quý giá nên có người nói “Nguyễn Tuân là một câu định nghĩa về người nghệ sĩ” quả không sai.
Đọc văn Nguyễn Tuân có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời là người nghệ sĩ, suốt đời đi tìm cái đẹp” Hãy phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao để làm sáng tỏ ý kiến trên A Đặt vấn đề Giới thiệu nhà văn Nguyễn Tuân và dẫn yêu cầu của đề bài: Ông là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp đặc biệt ở Chữ người tử tù với nhân vật Huấn Cao B Giải quyết vấn đề 1 Phân tích nhận định 2 Ý nghĩa của lời nhận định Ý kiến trên đã khẳng định: Đọc văn Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cảm giác người nghệ sĩ này luôn luôn ngợi ca tìm kiếm về cái đẹp. Từ những trang văn đầu tiên cho đến những trang văn cuối cùng ông luôn khao khát kiếm tìm và phản ánh về cái đẹp ở mọi phương diện góc độ điểm nhìn. Dường như Nguyễn Tuân cho rằng cái đẹp mới chính là biểu hiện của nghệ thuật chính nó mới có khả năng tạo nên tính thẩm mỹ tính nghệ thuật trong sáng tác văn chương. Cái đẹp có sức hấp dẫn lôi cuốn đối với người nghệ sĩ với Nguyễn Tuân cái đẹp mà ông khao khát kiếm tìm được hiện diện ở tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống (thiên nhiên, con người, quá khứ, hiện tại…) ngay cả ở những đối tượng tưởng như khó có thể tìm ra giá trị của cái đẹp như: Quản ngục, Đao phủ… Nguyễn Tuân đã tìm ra vẻ đẹp độc đáo trong con người ấy. 3 Tại sao Nguyễn Tuân Lại có quan niệm như vậy? Sở dĩ Nguyễn Tuân cho rằng cái đẹp là biểu hiện của nghệ thuật, chính nó mới có khả năng tạo nên tính thẩm mỹ tính nghệ thuật văn chương. Vì ông cho rằng cái kim tiền, nhốn nháo lúc bấy giờ là thù địch với nghệ thuật các thế hệ nhà văn lãng mạn nói chung và Nguyễn Tuân nói riêng. Tìm đến cái đẹp như một cứu cánh để thoát khỏi cuộc sống tù túng bó buộc, đầy rẫy những những nhố nhăng đương thời. Với Xuân Diệucái đẹp mà mùa xuân, tình yêu là tuổi trẻ. Với nhà thơ Lưu Trọng Lư thì cái đẹp là ở thế giới đầy thơ mộng. Thế Lữ cái đẹp phải ở cõi tiên…và với Nguyễn Tuân cái đẹp được nằm ngay trong những những chương trình nghệ thuật của tạo hóa nó là thiên nhiên xã hội trong thế giới của con người. Nguyễn Tuân đã tự tạo cho mình một phong cách nghệ thuật riêng để chiếm lĩnh cái đẹp khiến cho cái đẹp ấy bất tử sống mãi với thời gian. Qua đó nhà văn thể hiện niềm tin với cái đẹp vì thế nhà văn bao giờ cũng tiếp cận đối tượng ở phương diện văn hóa nghệ thuật thẩm mỹ và tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ II Phân tích (đề 2 ) III Đánh giá theo đề 2 C Kết thúc vấn đề Nhận định trên hoàn toàn đúng trong cách đánh giá về tác phẩm của Nguyễn Tuân và phong cách nghệ thuật
Đoạn văn cách trình bày đoạn văn Lý thuyết a. Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết . hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thàn h. Ví dụ: Mỗi người đều có cách sống của riêng mình, chúng ta không cần phải ngưỡng mộ cuộcc sống của người khác. Có người ngoài mặt tươi cười rạng rỡ nhưng ẩn trong đó là bao giọt nước mắt, lại có người nhìn có vẻ cơ cực nhưng kỳ thực họ lại đang trải qua một cuộc sống rất thoải mái. Hạnhh phúc không có một đáp án chuẩn mực, niềm vui cũng không chỉ xuất phát từ một con đường. Thu lại ánh mắt ngưỡng mộ người khác và nhìn lại tâm hồn mình. Sống cuộc sống mình mong muốn chính là những ngày tháng tươi đẹp nhất, cách sống mà mình muốn mới chính là cách sống tốt nhất. (NLXH) - Câu chủ đề là câu nêu lên cái ý chung khái quát nhất và hàm súc nhất, lời lẽ ngắn gọn thường đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn Ví dụ: Câu chủ đề đoạn văn trên Mỗi người đều có cách sống của riêng mình, chúng ta không cần phải ngưỡng mộ cuộc sống của người khác Đoạn văn có câu chủ đề gồm đoạn diễn dịch, quy nạp, tổng phân- hợp b. Cách trình bày đoạn văn - Đoạn diễn dịch Diễn dịch là cách trình bày đi từ ý chung, ý khái quát đến chi tiết, cụ thể. Câu mang ý nghĩa chung khái quát đứng trước có tư cách là câu chủ đề, các câu còn lại trong đoạn có nhiệm vụ làm rõ câu khái quát - Đoạn quy nạp Quy nạp là cách trình bày đi từ ý chi tiết, cụ thể rút ra ý chung, khái quát. Câu mang ý chung đứng ở cuối đoạn và nó có tư cách câu chủ đề của đoạn văn. Ví dụ: Sống trung thực được cha mẹ chúng ta dạy từ thời thơ ấu. Trung thực chính là tôn trong lẽ phải, không dối trá từ lời nói đến hành vi. Vậy tại sao phải cần trung thực? Đó là điều quan trọng đối với mỗi cá nhân vì nó giúp chúng ta có được niềm tin và sự tôn trọng từ người khác. Đồng thời nó giúp chúng ta duy trì và phát triển các mối quan hê trong đời sống hàng ngày. Đó là cách để chúng ta đối diện với tình huống khó khăn, không phải lừa dối hay che dấu sự thật. Những người sống trung thực luôn tuân theo nguyên tắc sống của bản thân, cho dù bị bạn bè lôi kéo hay bất kể chiêu trò gì thì họ vẫn giữ vững nhân cách của họ. Ví dụ: Bác Hồ là một tấm gương về trung thực trong học tâp mà ai ai cũng biết. Tuy nhiên, vẫn còn những cá nhân thiếu trung thực, hay nịnh bợ, thảo mai… chúng ta cần lên án và phê phán. Để có được đức tính trung thực thì mỗi học sinh cần rèn luyện, phấn đấu ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường để hình thành cho mình một nhân cách tốt cho sự phát triển của xã hội. Với quyết tâm và nỗ lực, chúng ta có thể sống trung thực và được người khác kính trọng. - Đoạn tổng- phân - hợp Tổng phân hợp là cách đi từ ý chung, ý khái quát đến các ý chi tiết, cụ thể và cuối đoạn lại tổng hợp. Câu mang nội dung khái quát đứng ở đầu và cuối đoạn văn có tư cách là chủ đề của đoạn văn. Ví dụ: Trong bài thơ Khi con Tu hú của Tố Hữu độc giả nhiều ấn tượng nhất chắc có lẽ là sáu câu đầu của bài thơ - đây là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp khi trời đất vào hè. Bức tranh mùa hè được tác giả mở đầu bằng câu thơ “Khi con tu hú gọi bầy” điều này đã tạo nên ấn tượng cho người đọc bởi âm thanh rộn vang báo hiệu mùa hè sắp đến. Trong đoạn thơ có rất nhiều hình ảnh thiên nhiên được tác giả chọn lọc vô cùng đẹp và sống động như: lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần. Những hình ảnh thơ tiếp theo như "vườn râm, ve ngân, bắp rây, nắng đào, trời xanh và sáo diều bay bổng". Hình ảnh diều sáo lộn nhào khoáng đạt, tự do giống như một lời thúc giục, như tiếng gọi tự do giúp tác giả lấy lại tinh thần và vượt lên hoàn cảnh mà mình đang gặp phải. Bức tranh thiên nhiên được tác giả vẽ lên qua thủ pháp nghệ thuật liệt kê, đảo ngữ tạo nên bức tranh hoàn hảo, có sự hòa quyện giữa âm thanh và màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp. Tóm lại, bức tranh thiên nhiên mùa hè đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động trong sáu câu thơ đầu của bài thơ. - Đoạn móc xích: Móc xích là cách trình bày ý nọ tiếp ý kia theo lối ý sau móc nối ý trước qua những từ cụ thể để bổ sung, giải thích cho ý trước Ví dụ: Học sinh chăm học thì điểm sẽ cao. Học sinh điểm cao thì có thành tích tốt. Học sinh có thành tích tốt thì thi trường nào cũng đỗ. Học sinh thi đỗ thì được đánh giá cao. - Đoạn song hành là cách sắp xếp các ý ngang nhau, không có hiện tượng ý này bao quát ý kia hoặc ý này móc vào ý kia Ví dụ: Học tập là nguồn năng lượng cho sự tiến bộ. Chúng ta cần chăm chỉ học hỏi, tìm hiểu và khám phá. Những kiến thức và kỹ năng mới sẽ là nền tảng cho sự phát triển cá nhân và tạo ra những giá trị thiết thực. Hơn nữa, học tập cũng không chỉ dừng lại ở việc thu thập thông tin, mà còn yêu cầu chúng ta sáng tạo, phân tích và áp dụng kiến thức vào thực tế.
Biến đổi câu Lý thuyết a. Câu rút gọn: Trong tình huống nhất định, để tránh lặp lại những từ ngữ đã xuất hiện, làm cho thông tin được nhanh, tập trung chúng ta có thể lược bỏ một số thành phần nào đó trong câu, câu bị lược bỏ gọi là câu rút gọn. - Cần lưu ý khi sử dụng câu rút gọn, nếu sử dụng không đúng ngữ cảnh sẽ trở nên thiếu lịch sự, không phù hợp. b. Câu mở rộng Những cụm từ có cấu tạo giống như câu đơn bình thường đượcc gọi là cụm C-V. Dùng cụm chủ vị để mở rộng câu, có nghĩa là khi đặt câu, có thể làm cho thành phần nào đó của câu có cấu tạo là một cụm Chủ -vị (như trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) Có bốn trường hợp mở rộng - Chủ ngữ là một cụm chủ vị được gọi là câu mở rộng thành phần chủ ngữ Ví dụ: Mẹ em là cô giáo - Vị ngữ là một cụm chủ vị Ví dụ: “Nhân dân ta một lòng nồng nàn yêu nước” - Bổ ngữ (phụ ngữ) là một cụm chủ vị: Ví dụ: Tôi đã làm xong bài cô giáo giao hôm qua - Trạng ngữ là một cụm chủ vị Ví dụ; Ở trên mặt bàn, tôi có thấy quyển sách văn c. Chuyểnn câu chủ động thành câu bị động - Câu chủ động là câu có chủ ngữ chỉ người hay vật thực hiện một hoạt động hướng vào người, vật khác (chỉ chủ thể của hoạt động) - Câu bị động là câu có chủ ngữ chỉ đối tượng bị hành động nêu ở vị ngữ Ví dụ: Tôi được cô giáo chủ nhiệm tuyên dương trước lớp - Chuyển câu chủ động thành câu bị động là làm cho câu đang có chủ ngữ chỉ chủ thể của hành động thành câu có chủ ngữ chỉ đối tượng của hành động được nêu đến ở vị ngữ Thực hành Bài 1: Tìm câu đặc biệt và câu rút gọn trong những câu sau: a. “Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi ống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũn g có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằn g bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc, Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc.” (Nguyễn Ngọc Tư) b. Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì đó vô cùng sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má. (Lê Minh Khuê) Bài 2: Biến đổi các câu đơn sau thành câu mở rộng thành phần vị ngữ rồi rút ra kết luận về cách biến đổi a. Cây Bàng này quả rất nhiều b. Mẹ em chẳng lúc nào rời tay máy khâu Bài 3: Câu nào là câu bị động trong những câu sau a. Tớ mới mua quyển vở b. Quyển vở mới được tớ mua c. Quyển vở này được bạn tớ mua Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: a. Câu rút gọn: Ở truồng và khóc, Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc.” b. Câu đặc biệt: Mưa, gió Bài 2: a. Cây Bàng này rất nhiều quả b. Mẹ em tay chẳng lúc nào rời máy khâu Bài 3: Câu bị động: b. Quyển vở mới được tớ mua c. Quyển vở này được bạn tớ mua
Đề có hướng mở và mang tính vận dụng sáng tạo. Các em sử dụng phép lập luận phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận để làm sáng tỏ. Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận Viết về mẹ luôn là một chủ đề bất tận trong văn chương mà mỗi khi đặt bút thi nhân luôn có cảm xúc dạt dào về tình mẫu tử. Chế Lan Viên đã thể hiện tình mẹ qua hình ảnh con cò trong lời ru bên chiếc võng. Bài thơ “Con cò” đã đi qua bao nhiêu năm tháng luôn vẫn luôn giữ vị trí trong tâm hồn bạn đọc về tình mẹ và triết lý trong cuộc đời Thân bài: - Hoàn cảnh sáng tác và khái quát tác phẩm - Con cò là hình tượng trung tâmm. Một hình tượng được gợi ra từ những câu ca dao quen thuộc. Con cò được lặp lại trong bài thơ nhưng được tác giả mở rộng ý nghĩa biểu tượng, tập trung hướng vào tình mẹ sâu nặng, lớn lao đối với con của mình. Nghĩa biểu tượng của hình ảnh này được phát triển qua từng đoạn thơ, nhưng vẫn mang tính thống nhất. - Hình ảnh con cò rất quen thuộc trên những cánh đồng bát ngát, mênh mông. Khi cánh cò rập rờn trên cánh đồng lúa xanh biếc đang thì con gái gợi ra cảnh tượng cuộc sống no ấm, bình yên nơi thôn dã; khi lặng lẽ, lầm lụi, lò dò bắt tép trong mưa lại gợi ra cảnh nhà nông tảo tần, lam lũ. - Ở đoạn thứ nhất của bài thơ, nhà thơ đã vận dụng một cách sáng tạo hình ảnh con cò trong lời hát ru của bà, của mẹ bên cánh võng làm điểm tựa cho tứ thơ phát triển. Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời mẹ hát Có cánh cò đang bay: + Con còn bé chưa biết về con cò nhưng qua lời hát ru của mẹ thì con đã biết con cò “cánh cò đang bay”. Trong lời hát đó có cánh cò trắng một hình ảnh thân quen với người nông Việt Nam, hơn thể là cả tình yêu mênh mông của mẹ dành cho con. - Những câu ca dao được tác giả sử dụng gợi sự phong phú và ý nghĩa biểu trưng hình ảnh con cò: Con cò bay la Con cò bay lả Con cò cổng phủ Con cò Đồng Đăng... ….. Con cò ăn đêm Con cò xa tổ, Cò gặp cành mềm Cò sợ xáo măng… + Hình ảnh cò dược lặp lại trong câu ca dao nhưng mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Lời ca gợi ra không gian đẹp, thoáng đãng, lãng mạn, quen thuộc và nhịp sống yên bình nơi vùng quê thời xưa. + Những ý tiếp theo: Có một mình, cò phải kiếm ăn, “Con cò ăn đêm / Con cò xa tổ/ Cò gặp cành mềm/ Cò sợ xáo măng…” hàm chứa nội dung, tư tưởng sâu sắc về một cuộc đời lam lũ, vất vả, gian lao. Con cò ở đây biểu trưng cho người phụ nữ Việt Nam nhọc nhằn lam lũ và không thể tránh khỏi những bất trắc, éo le trong cuộc sống “cò gặp cành mềm”. Lời thơ gợi cho ta nhớ đến câu ca dao: “Con cò đi đón cơn mưa Tối tăm mù mịt ai đưa cò về” - Con cò trong ca dao nhọc nhằn, vất vả bởi con cò chỉ có một mình. “Cò một mình cò phải kiếm ăn”. Còn con, con bé bỏng như con cò nhưng con đã có mẹ: “Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”, Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi chớ sợ! Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nân g!”, … Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân” + Câu thơ: Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi chớ sợ! ngắt nhịp 2/2/2/3 rất đều giống như những nhịp vỗ về của người mẹ cho đứa con thơ của mình vào giấc ngủ nhanh. Vì thế mà lời thơ mang âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. + Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa; “Cành mềm mẹ đã sẵn tay nâng”, “Lời ru của mẹ thấm hơi xuân”. “Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân” Những hình ảnh ẩn dụ ấy nói lên tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Hơi xuân ở đây chỉ khí xuân và hơi ấm của mẹ luôn bao bọc, chở che cho con, đó là tình cảm tha thiết, ngọt ngào, tươi mới trong từng lời ru của mẹ. =>Hình ảnh con cò đến với tuổi ấu thơ của con một cách vô thức từ khi con còn bế ngửa. Nhưng đây chính là khởi đầu con đường đi vào thế giới nội tâm con người từ những lời ru, những lời ca dao dân ca - điệu hồn dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng hinh ảnh giàu ý nghĩa về tình mẫu tử đó là “sữa mẹ”. - Con chỉ biết trong tiềm thức của mình được đón nhận hơi ấm của mẹ, lời ru dịu êm và những cái vỗ về dịu dàng. Con ngủ yên thì cò cũng ngủ, Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi. + Khi đến tuổi tới trường: Mai con lớn, con theo cò đi học, Cánh trắng cò bay theo gót đôi châ n. + Và đến lúc trưởng thành: Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn... => Như vậy, hình ảnh con cò trong ca dao qua sự liên tưởng độc đáo của nhà thơ, nó như bay ra để rồi sống trong tâm hồn con người, theo con người và nâng niu con người. Hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng cho lòng mẹ, mẹ luôn dành tình yêu thương con bao la, luôn chở che và bảo vệ con. + Cánh cò và tuổi thơ, cánh cò và cuộc đời người, cánh cò và tình mẹ, đến đây tất cả như có sự hòa quyện và bổ sung cho nhau. - Đến đoạn thứ ba, hình ảnh con còn mang triết lý sâu sắc: tình mẹ, lòng mẹ cao cả, vững bền Dù ở gần con, Dù ở xa con, Lên rừng xuống bể, Cò sẽ tìm con, Cò mãi yêu con. Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. + Điệp ngữ, điệp cấu trúc tiếp tục làm cho nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt rất gần với những lời hát ru. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phép đối: gần - xa và thành ngữ: “lên rừng xuống bể” để nói đến thời gian và không gian khác nhau. Cho dù ở đâu chỗ nào, cuộc sống có nhọc nhằn thì mẹ vẫn bên con. + Mẹ là quê hương, là điểm tựa tinh thần, là mái ấm chở che, chốn bình yên, bờ vai ấm... nhất là cho những đứa con gặp bước thăng trầm trong cuộc sống. Lời thơ giản dị, mộc mạc mà lay động sâu thẳm nơi trái tim người đọc. Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhà thơ Nguyễn Duy cũng viết: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. - Phần cuối, bài thơ trở lại với âm điệu lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò trong lời ru ấy: Một con cò thôi, Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi. Ngủ đi! Ngủ đi! Cho cánh cò, cánh vạc Cho cả sắc đời Đến hát Quanh nôi. Đến đây, hình tượng con cò không còn bó hẹp ở hình tượng người mẹ mà được phát triển thêm một tầng nghĩa sâu rộng, khái quát hơn: con cò – người mẹ cuộc đời “vỗ cánh qua nổi”. Cuộc đời đi qua lời ru, lời ru không chỉ đem đến cho đứa trẻ tình yêu thương, vỗ về của mẹ, mà qua đó còn là nỗi niềm sau kín của cuộc đời mẹ, là tâm hồn của dân tộc, đất nước di dưỡng tâm hồn cho con: “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” (Nguyễn Duy). Kết bài: Bài thơ với những âm hưởng nhẹ nhàng, giản dị đã để lại nhiều giá trị sâu sắc cho tâm hồn bạn đọc. Triết lí ấy còn sống mãi với thời gian, góp phần vào mạch cảm xúc thi ca dồi dào ca ngợi tình mẹ trong văn học nhân loại, một khúc ca da diết, sâu lắng về tình mẹ và khúc hát ru mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc.
Luận điểm 3: Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc: "Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước" Phân tích nghệ thuật, bình luận -> Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một n gười mẹ tần tảo, vất vả, gian lao đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ cha ông. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được ý chí và lòng dũng cảm dân tộc Việt Nam, cũng vì lẽ đó mà Huy Cận đã từng viết: “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sữn g Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Ngoài phép nhân hóa, Thanh Hải còn sử dụng phép tu từ so sánh chứa đựng nhiều ý nghĩa: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. “Sao” là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời về đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước luôn hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn tỏa sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Tiểu kết: Từ những vần thơ đặc sắc, ta cảm nhận được niềm tin của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh vất vả, gian lao chính là tiếng vang cho một thế hệ anh hùng của mùa xuân đất nước. Luận điểm 4: Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ - Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy tư và tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người: “Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến”. Phân tích nghệ thuật: Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp “ta” - “hòa” - “ca”. Với Điệp từ “ta làm” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha của chính tác giả khi đang nằm trên giường bệnh. Động từ “làm” - ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ, sự hoá thân để sống đẹp, sống có ích cho xã hội. Hình ảnh “nốt trầm” và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấy ước muốn tha thiết, chân thành của mình. Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là “một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bản hoà ca chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất nước. Suy nghĩ -> Còn gì đẹp hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời? Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ? Tiểu kết: Đọc đoạn thơ, ta xúc động và trân trọng trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người trong xã hội. Luận điểm 5: Nhà thơ Thanh Hải thể hiện cách dâng hiến cao đẹp “Một mùa xuân nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc.” Nghệ thuật -> Cách sử dụng ngôn từ của tác giả rất chính xác và tinh tế, “mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo cho thấy thái độ chân thành, khiêm nhường lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến và phục vụ cho đất nước. Điệp từ "dù là" được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và tuổi tác của tác giả. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, khi tóc bạc” như một thông điệp ẩn chứa ý nghĩa hết sức sâu sắc: nhiệm vụ cống hiến, xây dựng đất nước là của mọi người, và là mãi mãi; nghĩa vụ ấy kéo dài cả một đời người, từ tuổi hai mươi cho đến khi đầu đã điểm bạc theo tháng năm. Đây là lời kêu gọi mọi người cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước có thể vững vàng mà tiếp tục "đi lên phía trước”. Đây cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” Bình luận, đánh giá -> Những dòng thơ như lời tâm sự chân thành, tha thiết chứ không phải là sự bồng bột của tuổi trẻ hay sự gắng gượng của tuổi già mà là khát vọng, nguyện ước của nhà thơ. Ước nguyện vượt lên cả giới hạn cá nhân nhỏ bé để mang ý nghĩa rộng lớn, đó là lí tưởng sống cao đẹp của cả cộng đồng. Tiểu kết: Qua đây ta thấy, Thanh Hải chỉ “lặng lẽ” nhưng cháy bỏng một nỗi khát khao được hiến dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh niên với bứ vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều đó càng làm tăng giá trị tư tưởng sâu sắc cho nhiều thế hệ. Luận điểm 6: Tiếng hát yêu thương, niềm tự hào về quê hương đất nước: "Mùa xuân - ta xin hát Khúc Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế" Kết thúc bài thơ là một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước. Bình luận: Có lẽ, trong những ngày tháng nằm trên giường bệnh, cận kề cái chết, nhà thơ lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, đáng tự hào hơn. Qua câu hát Nam ai, Nam bình cho thấy rõ nhà thơ rất yêu mến quê hương xứ Huế thơ mộng của mình, có lẽ cũng từ đó mà ông có thể mở rộng tình cảm để yêu mến đất nước, mới có thể cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Kết bài: Với thể thơ năm chữ cùng giọng thơ tha thiết, sâu lắng đã tạo nên chất nhạc xao xuyến về tinh yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã khiến bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” càng trở nên gần gũi, quen thuộc với bạn đọc. Dù thời gian đã trôi qua nhưng những vần thơ và triết lí sống của Thanh Hải vẫn trường tồn theo thời gian. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (phần 1)
Mở bài: Xuân đến đánh thức ngàn cây cỏ đâm chồi nảy lộc và tạo cảm hứng bất tận trong tâm hồn thi nhân, thi ca. Mùa xuân đẹp, đất trời tươi mới đang rạo rực trong hồn thơ Thanh Hải, sự hoàn quyện của thiên nhiên và sức sống mãnh liệt đã tạo nên “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ sâu lắng, bình dị đã để lại nhiều ý nghĩa cho thế hệ hôm nay, mai sau. Thân bài: Thanh Hải là một trong những cây bút nổi bật thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của ông luôn hướng tình cảm về miền Bắc xa nhớ, với hồn thơ giản dị đậm chất Huế, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong tâm hồn bạn đọc. Trước lúc rời xa trần thế vào năm 1980, Thanh Hải vẫn dành trọn từng giây từng phút cho văn chương nghệ thuật, cho đời và cho người. Thanh Hải viết những vần thơ thật nhân hậu và thiết tha, những vần thơ không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Vần thơ ấy, con người ấy mãi mãi trường tồn trong thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ”. Luận điểm 1 Thanh Hải phác họa nên một bức tranh xuân giản dị, tươi đẹp và giàu sức sống. "Mọc giữa dòng sông xanh, Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời" Phân tích -> Khổ thơ mở đầu bằng hình ảnh “dòng sông xanh” gợi một dòng sông thơ mộng với vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế. Trên gam màu trong xanh “mọc” lên hình ảnh một bông hoa tím biếc. Màu xanh ấy không chỉ là màu xanh của nước mà còn là màu xanh của bầu trời, của cây cối quanh dòng sông. Động từ “mọc” được đặt ngay đầu câu là một dụng ý nghệ thuật để tạo ấn tượng về sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Bình luận, trình bày suy nghĩ -> Một cách viết khác lạ của Thanh Hải khi nói về mùa xuân không màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không màu đỏ thắm của hoa đào đã tạo nên một nét độc đáo riêng biệt cho hồn thơ tác giả mang đậm bản sắc Cố đô Huế. Sự kết hợp giữa màu xanh và màu tím biếc đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy bình an và hạnh phúc. -> Phải chăng, nét khác lạ, độc đáo ấy đã cho người đọc những ấn tượng khó phai khi cất lên vần thơ của Thanh Hải? Trong bức tranh tươi đẹp, thơ mộng đó không chỉ có màu xanh của lá, màu xanh của nước, của trời và màu tím của hoa mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nga của con chim chiền chiện hót vang bầu trời. Tiếng tiếng chim hót lảnh lót ngân vang trên bầu trời đã mở ra một không gian cao vời, trong trẻo chuyển bức tranh thiên nhiên từ tĩnh sang động đã làm lay động trái tim và tâm hồn tác giả. Một mùa xuân tươi đẹp đậm chất quê hương và chứa đựng sức sống mạnh mẽ của xứ Huế mộng mơ. Những từ ngữ cảm thán "ơi", "hót chi" của Thanh Hải đã thể hiện rõ nét cảm xúc ngây ngất dạt dào đến ngỡ ngàng khi đứng trước vẻ đẹp của đất trời sang xuân. Tiếng hót đã vực dậy cả một tâm hồn tác giả đang phải đối mặt với bóng đen u ám của bệnh tật và sự ghê rợn của tử thần. Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị mà nên thơ của mùa xuân, tác giả bồi hồi, xúc động bằng cả trái tim xao xuyến của mình. “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng” “Giọt long lanh” gợi lên liên tưởng phong phú và đầy thú vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm bình minh của mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng soi sáng trên bầu trời và cũng có thể là giọt mưa xuân đang rơi. Bình luận -> Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, hi vọng rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực sức xuân. Cử chỉ “tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời với cảm xúc say sưa, xốn xang và rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời. Nhận xét nghệ thuật -> Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được tác giả vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng phong phú. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác (long lanh), thính giác (rơi), và xúc giác (hứng). Tiểu kết Khổ thơ đầu mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp và nên thơ, một bức tranh có đầy đủ hình ảnh, màu sắc và âm thanh được hòa quyện tạo nên sức sống mạnh mẽ cho mùa xuân. Bức tranh này có thể gọi là bức tranh vô cùng đặc biệt bởi bài thơ được sáng tác tháng 11 năm 1980- thời điểm mùa đông giá rét. Như vậy những hình ảnh xuân được miêu tả trong tâm tưởng của nhà thơ khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh và phải đối mặt với tử thần. Cái chết cận kề nhưng Thanh Hải vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống cháy bỏng. Luận điểm 2 Từ vẻ đẹp tươi mới của mùa xuân, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của con người. Tôi nện gót trên đường phố Huế Dửng dưng không một cảm tình chi Không gian sặc sụa mùi ô uế Như nước dòng Hương mãi cuốn đi Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm tha n. Thời gian trôi đi, Huế đã chuyển mình đổi khác, nay là Huế của những con người rạo rực sức xuân phát triển cùng đất nước. "Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ" Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành cùng sự xuất hiện hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” đã thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và sản xuất phát triển đất nước. Các điệp ngữ “mùa xuân”, “lộc”, “người” như trải rộng khung cảnh hiện thực khi gắn với cuộc sống chiến đấu, lao động của nhân dân. Phân tích -> Nét đặc sắc của đoạn thơ là hình ảnh “lộc” được sáng tạo rất độc đáo. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là là cành lá ngụy trang để che mắt quân thù hơn nữa lộc còn là sự chiến thắng đem lại tự hào cho dân tộc. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên những đồng ruộng mênh mông, bát ngát báo hiệu một mùa bội thu với những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng hiến dâng của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuấtt. “Lộc” chính là thành quả hôm nay là niềm tin, hi vọng của ngày mai. Từ những nhiệm vụ đó tất cả dân tộc bước vào xuân mới với khí thế khẩn trương, náo nhiệt: "Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao..." Phân tích nghệ thuật -> Điệp ngữ “tất cả” và từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” cùng nhịp thơ nhanh, nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. “hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bậtt của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng, nhộn nhịp, gấp gáp. Tất cả ý thơ đều thể hiện tinh thần phấn khởi của dân tộc cho một sự phát triển của đất nước. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (phần 2)
Từ khi ra đời cho tới nay tác phẩm Chí Phèo đã qua mấy tên gọi? A Đặt vấn đề Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất giai đoạn 30 - 45 các tác phẩm của ông tái hiện chân thực và sâu sắc những số phận cá nhân, nạn nhân của xã hội rối ren mà chủ yếu là tầng lớp trí thức tiểu tư sản và nhân dân nghèo. Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu của ông được coi là kiệt tác trong văn học hiện thực Việt Nam. Truyện ngắn Chí Phèo xoay quanh cuộc đời đầy bi kịch của một con người và truyện ngắn này cũng đã trải qua nhiều cái tên gọi khác nhau mỗi cái tên đều mang một ý nghĩa nhất định tìm hiểu về ý nghĩa nhan đề ấy Để người đọc hiểu … B Giải quyết vấn đề Từ khi ra đời cho đến nay truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao trải qua ba tên gọi khác nhau lúc đầu là Lò Gạch Cũ - Đôi lứa xứng đôi - Chí Phèo Lúc đầu Nam Cao đặt tác phẩm là Lò Gạch Cũ phải chăng hình ảnh này là hình ảnh xuất hiện mở đầu và kết thúc tác phẩm. Đó cũng chính là nơi người ta nhặt được Chí Phèo. Nơi đó mở đầu cho một số phận bất hạnh khởi đầu cho một kiếp người đầy bi kịch, hình ảnh này được xuất hiện ở cuối tác phẩm. Sự xuất hiện hình ảnh cái lò gạch cũ ở đầu và cuối tác phẩm đã tạo nên một kết cấu đầu cuối - tương ứng thể hiện dụng ý nghệ thuật của Nam Cao. Cũng có thể coi đây là sự xuất hiện có tính biểu tượng có tính quy luật của hình tượng Chí Phèo (hình tượng trọng tâm của tác phẩm). Những cái tên ấy còn thể hiện cái nhìn bi quan về số phận của người nhân dân tạo ra một điểm hạn chế chung của văn học hiện thực phê phán đó là chủ yếu đi sâu phản ánh về hiện thực đời sống nhưng họ chưa nhìn nhận được về tương lai tươi sáng của con người mà điều này chỉ văn học cách mạng mới thể hiện rõ nét Cái tên thứ 2 “đôi lứa xứng đôi” : khi văn bản thành sách lần đầu 1941 nhà xuất bản “đời mới” đổi tên thành đôi lứa xứng đôi. Vì họ đã căn cứ vào mối tình giữa Chí Phèo và Thị Nở để đặt ra nhan đề này mà người coi mối tình của người - ngợm. Cái tên này có tác dụng câu khách gợi chuyện tình ái ở một số người: cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở Đúng là bước ngoặt lớn trong chủ đề Chí Phèo. Nhưng xét về dung lượng và kết cấu của tác phẩm thì cuộc gặp gỡ này được miêu tả từ nửa sau của tác phẩm còn nửa đầu nhà Văn tập trung miêu tả sự tha hóa lưu manh hóa của Chí Phèo. Từ những kết hợp trên vì vậy ta nhận ra tên gọi này chưa bao quát được trọn vẹn về ý nghĩa của tác phẩm lại còn như muốn biến mối tình ấy thành trò cười tạo ra một định hướng thưởng thức hời hợt, sai lạc của tác phẩm không đúng với ý nghĩa của Nam cao khi viết tác phẩm Chí Phèo đến khi in lại trong tập “Luống Cày” 1946 Nam Cao đặt nhan đề là Chí Phèo cách đặt tên này thống nhất cho cách đặt tên của Nam cao như: Lão Hạc, gì Hảo, Lang giận. Vì Nam Cao thường lấy tên nhân vật chính để đặt tên cho tác phẩm của mình Chí Phèo là linh hồn của tác phẩm, tác phẩm đã hội tụ được giá trị tư tưởng kết tinh những đặc sắc nghệ thuật và thể hiện được những bứt phá trong sáng tạo của Nam Cao. Chí Phèo - Nam Cao đã gửi gắm một bức thông điệp về số phận bi kịch bất hạnh của nhân dân và cũng thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người: “ dù sống trong môi trường hoàn cảnh nào nhưng con người luôn khát khao vươn tới cuộc sống lương thiện” => Đây là nhan đề thể hiện được chủ đề của tác phẩm mang tầm khái quát lớn nên nhan đề này có giá trị hơn tình cảm. C. Kết thúc vấn đề Từ khi ra đời cho tới nay tác phẩm Chí Phèo đã có nhiều tên gọi xong nhan đề Chí Phèo gắn liền với Nam Cao nhất và đây là nhan đề có ý nghĩa nhất Đọc tiếp: Phân tích mối quan hệ của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao với thế giới nhân vật trong truyện?
Câu 2: Phân tích mối quan hệ của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao với thế giới nhân vật trong truyện? A.Đặt vấn đề Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất 1930 đến 1945 các tác phẩm của ông tái hiện chân thực và sâu sắc những số phận cá nhân. Những nạn nhân của xã hội nhiều rối ren mà chủ yếu là tầng lớp trí thức và nhân dân nghèo. Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu của ông cũng có thể coi đây là một kiệt tác trong văn hóa hiện thực phê phán Việt Nam. Truyện ngắn Chí Phèo xoay quanh cuộc đời bi kịch của một đứa trẻ bị bỏ rơi trong một làng quê nghèo trước cách mạng khắc họa cuộc đời đầy đau khổ của Chí Phèo với mọi người xung quanh trong mối quan hệ đầy phức tạp ấy khiến người đọc càng hiểu rõ hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm B.Giải quyết vấn đề Khái quát chung Chí Phèo là nhân vật trọng tâm (Chí Phèo là nhân vật chính của tác phẩm) là linh hồn của tác phẩm đã góp phần chính trong việc thể hiện chủ ý của tác phẩm này Để Thể hiện rõ về tính chất nhân vật nhà văn đã khắc họa nhân vật Chí Phèo trong mối quan hệ giữa thế giới các nhân vật trong truyện. Chí Phèo được đặt trong mối quan hệ với nhiều nhân vật. Nhà văn đã khắc họa mối quan hệ này của nhân vật để chỉ rõ có những nhân vật ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời Chí Phèo. Trong mối quan hệ nào Chí Phèo cũng bị chừa ra thành một cá thể cô độc tâm hồn anh ta là một thế giới cô đơn đầy bi kịch Phân tích Chí Phèo mối quan hệ với người đã sinh ra mình: Chí Phèo là một sản phẩm ngoài mong muốn là một sinh linh bị bỏ rơi có rất nhiều ngôn ngữ để người ta từ chối giọt máu mà mình sinh ra. Nhưng có một điều chắc chắn là đứa trẻ ấy sẽ phải lớn lên trong sự cô độc không tình thương không bàn tay chăm sóc của những người ruột thịt Chí Phèo trong mối quan hệ với những người đã nuôi Chí. Chí đã được anh thả ống lươn nhặt về trao tay cho bà góa mù Bà góa mù lại bán Chí cho vợ chồng bác phó cối không con. Điều này chứng tỏ người ta nhặt được chí và tùy cơ xử lý Chí. Có lẽ quãng đời hạnh phúc nhất là khi Chí ở nhà Vợ chồng bác phó. Khi vợ chồng bác phó cối chết Chí bơ vơ rồi đi làm thuê làm mướn cho tất cả mọi người trong làng để kiếm sống đến khi 20 tuổi Chí đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến Bác Kiến và gia đình hắn đã bóc lột sức lao động tuổi xuân và chà đạp lên lòng tự trọng khát vọng sống lương thiện của con người mới 20 tuổi ấy. Cũng chính vì lý do này Chí đã mất đi tự do mất đi cuộc đời lương thiện mà Chí phải vào tù Chí Phèo với người dân làng Vũ Đại: Chí Phèo là một con người hiền lành đáng thương nhưng sau khi đi ở tù về Chí Phèo trở thành kẻ tha hóa lưu manh hóa -> con quỷ dữ của Làng Vũ Đại. Những người dân hiền lành coi Chí là một nỗi sợ hãi bởi chính Chí đã nhận ra hắn đã đạp đổ bao cảnh nhà yên vui, phá tan bao nhiêu hạnh phúc làm chảy máu và nước mắt của con người. Vì vậy tất cả dân làng đều sợ hãi và tránh mặt hắn. Chí cô đơn ngay trên chính quê hương mình vì bị dân làng sợ hãi tránh mặt nên trí rất thèm giao tiếp và không ai chịu giao tiếp thì hắn chửi, cứ rượu xong là hắn chửi… chửi tất cả Chí Phèo với Bá Kiến: Đây là mối quan hệ để Nam Cao liên tiếp thể hiện bi kịch bị tha hóa và gián tiếp thể hiện bi kịch từ chối quyền làm người của Chí Phèo trong tác phẩm của Nam Cao. Miêu tả 3 lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến và lần nào hắn cũng mang theo hung khí. Lần một là cái vỏ chai thủy tinh, lần 2 là con dao nhỏ nhưng sắc, lần 3 hắn xách một con dao. Lần nào cũng vậy Chí Phèo đều gặp và đối thoại với chính chủ nhà đều bằng lời nói ngọt nhạt khôn khéo. Bá Kiến ung dung khiến Chí Phèo phải ra về => Qua đó ta nhận thấy sự hiện diện của Bá Kiến chính là nguyên nhân sâu xa liên tiếp dẫn Chí Phèo đến với bi kịch đau thương nhất của cuộc đời mình là bị cự tuyệt quyền làm người. Xét về mặt logic hiện thực Bá Kiến là một yếu tố không thể thiếu để tô đậm tính cách điển hình của Chí Phèo Chí Phèo trong mối quan hệ của Thị Nở: Đây là mối quan hệ liên tiếp thể hiện phần nhân tính bị chìm khuất cũng như bi kịch từ chối quyền làm người. Sự xuất hiện của Thị Nở có vai trò khá quan trọng trong việc thể hiện số phận tính chất của Chí Phèo một tính cách không đơn giản không thuần nhất và cũng giúp Nam Cao khắc họa nổi bật những khám phá bất ngờ của ông trong nội dung nhân vật về tính cách về số phận Một mặt dưới con mắt của người dân làng Vũ Đại. Thị Nở nghèo xấu dở hơi dòng dõi nhà có mả hủi Mặt khác với Chí Phèo Thị Nở lại là người khơi gợi thức dậy khát vọng hạnh phúc trong Chí. Chỉ khi gặp Thị Nở Chí Phèo mới hay rằng bát cháo hành ăn rất ngon hoặc “đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm cho người ta say” Đó là hương vị quyến rũ của hạnh phúc của tình yêu. Có thể nói Thị Nở đã giúp Chí Phèo tìm lại được chính mình và thức tỉnh được nhân tính trong Chí Đối thoại Chí Phèo - Thị Nở: Trong truyện ta thấy hội thoại giữa Chí Phèo và Thị Nở là hội thoại đơn vì Thị Nở không trả lời và chỉ biểu hiện bằng nét mặt. Chỉ có lời của Chí Phèo điều đó báo hiệu một mối quan hệ sẽ không được bền lâu như một cái gì tốt đẹp nằm ngoài sức với Chí ngay trong tính cách Chí cũng là cô đơn. Thị Nở là là niềm đau của Chí Phèo. Vốn nghèo xấu dở hơi nhưng Chí Phèo vẫn không được xứng đôi với Thị Nở và Chí chỉ cần lấy được Thị Nở là có thể trở về làm người lương thiện nhưng trí không làm được điều đó. Điều này có tác dụng tô đậm thêm cái bi đát hẩm hiu trong số phận của nhân vật Chí Phèo Chí Phèo với vợ Bá Kiến Kiến (Bà Ba): Bà vợ chỉ lợi dụng sức trai trẻ của Chí Phèo. Chí Phèo với chính bản thân mình: Chí giật mình khi tỉnh rượu Chí nhận ra mình đã từng có một quá khứ đẹp. Chí đã ý thức được sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, quá khứ đẹp với ước mơ bình dị nhỏ bé là có một gia đình hạnh phúc. Nhưng hiện tại thì đen tối cô độc và đầy tội ác. Đặc biệt đỉnh cao của bi kịch trong Chí là muốn làm người lương thiện mà không thể được, cuối cùng Chí Phèo phải giết chết Bá Kiến rồi tự tử đẩy bi kịch ấy lên tới đỉnh cao nhất cần giải quyết nhưng hướng giải quyết manh động tiêu cực Đánh giá Nhà Văn đặt nhân vật Chí Phèo trong mối quan hệ với thế giới các nhân vật trong truyện và trong từng mối quan hệ ấy số phận tính cách của Chí Phèo được bộc lộ rõ nét. Truyện ngắn Chí Phèo với một tác phẩm với nhiều chủ đề sâu sắc nỗi cô đơn bất hạnh của nhân vật Chí Phèo chính là một trong những chủ đề chính để làm nên giá trị của tác phẩm C. Kết thúc vấn đề Khi tìm hiểu mối quan hệ của nhân vật Chí Phèo với thế giới nhân vật trong truyện khiến ta càng hiểu rõ hơn Nam Cao là nhà văn có tấm lòng nhân đạo sâu sắc và cũng rất tài năng trong việc miêu tả nhân vật miêu tả tâm lý con người Đọc tiếp: Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao có một điểm đáng lưu ý: cái hệ thống không gian xuất hiện trong đời Chí Phèo: Lò Gạch cũ ,nhà của những người nghèo khổ, nhà của bác kiến, nhà tù, Làng Vũ Đại, vườn chuối ven sông, nhà Bá Kiến rồi lại lò gạch cũ. Anh chị hãy phân tích ý nghĩa của sơ đồ trên