Đoạn văn cách trình bày đoạn văn Lý thuyết a. Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết . hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thàn h. Ví dụ: Mỗi người đều có cách sống của riêng mình, chúng ta không cần phải ngưỡng mộ cuộcc sống của người khác. Có người ngoài mặt tươi cười rạng rỡ nhưng ẩn trong đó là bao giọt nước mắt, lại có người nhìn có vẻ cơ cực nhưng kỳ thực họ lại đang trải qua một cuộc sống rất thoải mái. Hạnhh phúc không có một đáp án chuẩn mực, niềm vui cũng không chỉ xuất phát từ một con đường. Thu lại ánh mắt ngưỡng mộ người khác và nhìn lại tâm hồn mình. Sống cuộc sống mình mong muốn chính là những ngày tháng tươi đẹp nhất, cách sống mà mình muốn mới chính là cách sống tốt nhất. (NLXH) - Câu chủ đề là câu nêu lên cái ý chung khái quát nhất và hàm súc nhất, lời lẽ ngắn gọn thường đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn Ví dụ: Câu chủ đề đoạn văn trên Mỗi người đều có cách sống của riêng mình, chúng ta không cần phải ngưỡng mộ cuộc sống của người khác Đoạn văn có câu chủ đề gồm đoạn diễn dịch, quy nạp, tổng phân- hợp b. Cách trình bày đoạn văn - Đoạn diễn dịch Diễn dịch là cách trình bày đi từ ý chung, ý khái quát đến chi tiết, cụ thể. Câu mang ý nghĩa chung khái quát đứng trước có tư cách là câu chủ đề, các câu còn lại trong đoạn có nhiệm vụ làm rõ câu khái quát - Đoạn quy nạp Quy nạp là cách trình bày đi từ ý chi tiết, cụ thể rút ra ý chung, khái quát. Câu mang ý chung đứng ở cuối đoạn và nó có tư cách câu chủ đề của đoạn văn. Ví dụ: Sống trung thực được cha mẹ chúng ta dạy từ thời thơ ấu. Trung thực chính là tôn trong lẽ phải, không dối trá từ lời nói đến hành vi. Vậy tại sao phải cần trung thực? Đó là điều quan trọng đối với mỗi cá nhân vì nó giúp chúng ta có được niềm tin và sự tôn trọng từ người khác. Đồng thời nó giúp chúng ta duy trì và phát triển các mối quan hê trong đời sống hàng ngày. Đó là cách để chúng ta đối diện với tình huống khó khăn, không phải lừa dối hay che dấu sự thật. Những người sống trung thực luôn tuân theo nguyên tắc sống của bản thân, cho dù bị bạn bè lôi kéo hay bất kể chiêu trò gì thì họ vẫn giữ vững nhân cách của họ. Ví dụ: Bác Hồ là một tấm gương về trung thực trong học tâp mà ai ai cũng biết. Tuy nhiên, vẫn còn những cá nhân thiếu trung thực, hay nịnh bợ, thảo mai… chúng ta cần lên án và phê phán. Để có được đức tính trung thực thì mỗi học sinh cần rèn luyện, phấn đấu ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường để hình thành cho mình một nhân cách tốt cho sự phát triển của xã hội. Với quyết tâm và nỗ lực, chúng ta có thể sống trung thực và được người khác kính trọng. - Đoạn tổng- phân - hợp Tổng phân hợp là cách đi từ ý chung, ý khái quát đến các ý chi tiết, cụ thể và cuối đoạn lại tổng hợp. Câu mang nội dung khái quát đứng ở đầu và cuối đoạn văn có tư cách là chủ đề của đoạn văn. Ví dụ: Trong bài thơ Khi con Tu hú của Tố Hữu độc giả nhiều ấn tượng nhất chắc có lẽ là sáu câu đầu của bài thơ - đây là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp khi trời đất vào hè. Bức tranh mùa hè được tác giả mở đầu bằng câu thơ “Khi con tu hú gọi bầy” điều này đã tạo nên ấn tượng cho người đọc bởi âm thanh rộn vang báo hiệu mùa hè sắp đến. Trong đoạn thơ có rất nhiều hình ảnh thiên nhiên được tác giả chọn lọc vô cùng đẹp và sống động như: lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần. Những hình ảnh thơ tiếp theo như "vườn râm, ve ngân, bắp rây, nắng đào, trời xanh và sáo diều bay bổng". Hình ảnh diều sáo lộn nhào khoáng đạt, tự do giống như một lời thúc giục, như tiếng gọi tự do giúp tác giả lấy lại tinh thần và vượt lên hoàn cảnh mà mình đang gặp phải. Bức tranh thiên nhiên được tác giả vẽ lên qua thủ pháp nghệ thuật liệt kê, đảo ngữ tạo nên bức tranh hoàn hảo, có sự hòa quyện giữa âm thanh và màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp. Tóm lại, bức tranh thiên nhiên mùa hè đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động trong sáu câu thơ đầu của bài thơ. - Đoạn móc xích: Móc xích là cách trình bày ý nọ tiếp ý kia theo lối ý sau móc nối ý trước qua những từ cụ thể để bổ sung, giải thích cho ý trước Ví dụ: Học sinh chăm học thì điểm sẽ cao. Học sinh điểm cao thì có thành tích tốt. Học sinh có thành tích tốt thì thi trường nào cũng đỗ. Học sinh thi đỗ thì được đánh giá cao. - Đoạn song hành là cách sắp xếp các ý ngang nhau, không có hiện tượng ý này bao quát ý kia hoặc ý này móc vào ý kia Ví dụ: Học tập là nguồn năng lượng cho sự tiến bộ. Chúng ta cần chăm chỉ học hỏi, tìm hiểu và khám phá. Những kiến thức và kỹ năng mới sẽ là nền tảng cho sự phát triển cá nhân và tạo ra những giá trị thiết thực. Hơn nữa, học tập cũng không chỉ dừng lại ở việc thu thập thông tin, mà còn yêu cầu chúng ta sáng tạo, phân tích và áp dụng kiến thức vào thực tế.
Biến đổi câu Lý thuyết a. Câu rút gọn: Trong tình huống nhất định, để tránh lặp lại những từ ngữ đã xuất hiện, làm cho thông tin được nhanh, tập trung chúng ta có thể lược bỏ một số thành phần nào đó trong câu, câu bị lược bỏ gọi là câu rút gọn. - Cần lưu ý khi sử dụng câu rút gọn, nếu sử dụng không đúng ngữ cảnh sẽ trở nên thiếu lịch sự, không phù hợp. b. Câu mở rộng Những cụm từ có cấu tạo giống như câu đơn bình thường đượcc gọi là cụm C-V. Dùng cụm chủ vị để mở rộng câu, có nghĩa là khi đặt câu, có thể làm cho thành phần nào đó của câu có cấu tạo là một cụm Chủ -vị (như trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) Có bốn trường hợp mở rộng - Chủ ngữ là một cụm chủ vị được gọi là câu mở rộng thành phần chủ ngữ Ví dụ: Mẹ em là cô giáo - Vị ngữ là một cụm chủ vị Ví dụ: “Nhân dân ta một lòng nồng nàn yêu nước” - Bổ ngữ (phụ ngữ) là một cụm chủ vị: Ví dụ: Tôi đã làm xong bài cô giáo giao hôm qua - Trạng ngữ là một cụm chủ vị Ví dụ; Ở trên mặt bàn, tôi có thấy quyển sách văn c. Chuyểnn câu chủ động thành câu bị động - Câu chủ động là câu có chủ ngữ chỉ người hay vật thực hiện một hoạt động hướng vào người, vật khác (chỉ chủ thể của hoạt động) - Câu bị động là câu có chủ ngữ chỉ đối tượng bị hành động nêu ở vị ngữ Ví dụ: Tôi được cô giáo chủ nhiệm tuyên dương trước lớp - Chuyển câu chủ động thành câu bị động là làm cho câu đang có chủ ngữ chỉ chủ thể của hành động thành câu có chủ ngữ chỉ đối tượng của hành động được nêu đến ở vị ngữ Thực hành Bài 1: Tìm câu đặc biệt và câu rút gọn trong những câu sau: a. “Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi ống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũn g có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằn g bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc, Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc.” (Nguyễn Ngọc Tư) b. Ở rừng mùa này thường như thế. Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên nóc hang. Có cái gì đó vô cùng sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy đau, ướt ở má. (Lê Minh Khuê) Bài 2: Biến đổi các câu đơn sau thành câu mở rộng thành phần vị ngữ rồi rút ra kết luận về cách biến đổi a. Cây Bàng này quả rất nhiều b. Mẹ em chẳng lúc nào rời tay máy khâu Bài 3: Câu nào là câu bị động trong những câu sau a. Tớ mới mua quyển vở b. Quyển vở mới được tớ mua c. Quyển vở này được bạn tớ mua Hướng dẫn giải bài tập Bài 1: a. Câu rút gọn: Ở truồng và khóc, Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc.” b. Câu đặc biệt: Mưa, gió Bài 2: a. Cây Bàng này rất nhiều quả b. Mẹ em tay chẳng lúc nào rời máy khâu Bài 3: Câu bị động: b. Quyển vở mới được tớ mua c. Quyển vở này được bạn tớ mua
Đề có hướng mở và mang tính vận dụng sáng tạo. Các em sử dụng phép lập luận phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận để làm sáng tỏ. Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận Viết về mẹ luôn là một chủ đề bất tận trong văn chương mà mỗi khi đặt bút thi nhân luôn có cảm xúc dạt dào về tình mẫu tử. Chế Lan Viên đã thể hiện tình mẹ qua hình ảnh con cò trong lời ru bên chiếc võng. Bài thơ “Con cò” đã đi qua bao nhiêu năm tháng luôn vẫn luôn giữ vị trí trong tâm hồn bạn đọc về tình mẹ và triết lý trong cuộc đời Thân bài: - Hoàn cảnh sáng tác và khái quát tác phẩm - Con cò là hình tượng trung tâmm. Một hình tượng được gợi ra từ những câu ca dao quen thuộc. Con cò được lặp lại trong bài thơ nhưng được tác giả mở rộng ý nghĩa biểu tượng, tập trung hướng vào tình mẹ sâu nặng, lớn lao đối với con của mình. Nghĩa biểu tượng của hình ảnh này được phát triển qua từng đoạn thơ, nhưng vẫn mang tính thống nhất. - Hình ảnh con cò rất quen thuộc trên những cánh đồng bát ngát, mênh mông. Khi cánh cò rập rờn trên cánh đồng lúa xanh biếc đang thì con gái gợi ra cảnh tượng cuộc sống no ấm, bình yên nơi thôn dã; khi lặng lẽ, lầm lụi, lò dò bắt tép trong mưa lại gợi ra cảnh nhà nông tảo tần, lam lũ. - Ở đoạn thứ nhất của bài thơ, nhà thơ đã vận dụng một cách sáng tạo hình ảnh con cò trong lời hát ru của bà, của mẹ bên cánh võng làm điểm tựa cho tứ thơ phát triển. Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời mẹ hát Có cánh cò đang bay: + Con còn bé chưa biết về con cò nhưng qua lời hát ru của mẹ thì con đã biết con cò “cánh cò đang bay”. Trong lời hát đó có cánh cò trắng một hình ảnh thân quen với người nông Việt Nam, hơn thể là cả tình yêu mênh mông của mẹ dành cho con. - Những câu ca dao được tác giả sử dụng gợi sự phong phú và ý nghĩa biểu trưng hình ảnh con cò: Con cò bay la Con cò bay lả Con cò cổng phủ Con cò Đồng Đăng... ….. Con cò ăn đêm Con cò xa tổ, Cò gặp cành mềm Cò sợ xáo măng… + Hình ảnh cò dược lặp lại trong câu ca dao nhưng mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Lời ca gợi ra không gian đẹp, thoáng đãng, lãng mạn, quen thuộc và nhịp sống yên bình nơi vùng quê thời xưa. + Những ý tiếp theo: Có một mình, cò phải kiếm ăn, “Con cò ăn đêm / Con cò xa tổ/ Cò gặp cành mềm/ Cò sợ xáo măng…” hàm chứa nội dung, tư tưởng sâu sắc về một cuộc đời lam lũ, vất vả, gian lao. Con cò ở đây biểu trưng cho người phụ nữ Việt Nam nhọc nhằn lam lũ và không thể tránh khỏi những bất trắc, éo le trong cuộc sống “cò gặp cành mềm”. Lời thơ gợi cho ta nhớ đến câu ca dao: “Con cò đi đón cơn mưa Tối tăm mù mịt ai đưa cò về” - Con cò trong ca dao nhọc nhằn, vất vả bởi con cò chỉ có một mình. “Cò một mình cò phải kiếm ăn”. Còn con, con bé bỏng như con cò nhưng con đã có mẹ: “Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ”, Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi chớ sợ! Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nân g!”, … Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân” + Câu thơ: Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi chớ sợ! ngắt nhịp 2/2/2/3 rất đều giống như những nhịp vỗ về của người mẹ cho đứa con thơ của mình vào giấc ngủ nhanh. Vì thế mà lời thơ mang âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. + Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa; “Cành mềm mẹ đã sẵn tay nâng”, “Lời ru của mẹ thấm hơi xuân”. “Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân” Những hình ảnh ẩn dụ ấy nói lên tình yêu thương vô bờ bến dành cho con. Hơi xuân ở đây chỉ khí xuân và hơi ấm của mẹ luôn bao bọc, chở che cho con, đó là tình cảm tha thiết, ngọt ngào, tươi mới trong từng lời ru của mẹ. =>Hình ảnh con cò đến với tuổi ấu thơ của con một cách vô thức từ khi con còn bế ngửa. Nhưng đây chính là khởi đầu con đường đi vào thế giới nội tâm con người từ những lời ru, những lời ca dao dân ca - điệu hồn dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng hinh ảnh giàu ý nghĩa về tình mẫu tử đó là “sữa mẹ”. - Con chỉ biết trong tiềm thức của mình được đón nhận hơi ấm của mẹ, lời ru dịu êm và những cái vỗ về dịu dàng. Con ngủ yên thì cò cũng ngủ, Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi. + Khi đến tuổi tới trường: Mai con lớn, con theo cò đi học, Cánh trắng cò bay theo gót đôi châ n. + Và đến lúc trưởng thành: Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn... => Như vậy, hình ảnh con cò trong ca dao qua sự liên tưởng độc đáo của nhà thơ, nó như bay ra để rồi sống trong tâm hồn con người, theo con người và nâng niu con người. Hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng cho lòng mẹ, mẹ luôn dành tình yêu thương con bao la, luôn chở che và bảo vệ con. + Cánh cò và tuổi thơ, cánh cò và cuộc đời người, cánh cò và tình mẹ, đến đây tất cả như có sự hòa quyện và bổ sung cho nhau. - Đến đoạn thứ ba, hình ảnh con còn mang triết lý sâu sắc: tình mẹ, lòng mẹ cao cả, vững bền Dù ở gần con, Dù ở xa con, Lên rừng xuống bể, Cò sẽ tìm con, Cò mãi yêu con. Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. + Điệp ngữ, điệp cấu trúc tiếp tục làm cho nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt rất gần với những lời hát ru. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phép đối: gần - xa và thành ngữ: “lên rừng xuống bể” để nói đến thời gian và không gian khác nhau. Cho dù ở đâu chỗ nào, cuộc sống có nhọc nhằn thì mẹ vẫn bên con. + Mẹ là quê hương, là điểm tựa tinh thần, là mái ấm chở che, chốn bình yên, bờ vai ấm... nhất là cho những đứa con gặp bước thăng trầm trong cuộc sống. Lời thơ giản dị, mộc mạc mà lay động sâu thẳm nơi trái tim người đọc. Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhà thơ Nguyễn Duy cũng viết: Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. - Phần cuối, bài thơ trở lại với âm điệu lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò trong lời ru ấy: Một con cò thôi, Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi. Ngủ đi! Ngủ đi! Cho cánh cò, cánh vạc Cho cả sắc đời Đến hát Quanh nôi. Đến đây, hình tượng con cò không còn bó hẹp ở hình tượng người mẹ mà được phát triển thêm một tầng nghĩa sâu rộng, khái quát hơn: con cò – người mẹ cuộc đời “vỗ cánh qua nổi”. Cuộc đời đi qua lời ru, lời ru không chỉ đem đến cho đứa trẻ tình yêu thương, vỗ về của mẹ, mà qua đó còn là nỗi niềm sau kín của cuộc đời mẹ, là tâm hồn của dân tộc, đất nước di dưỡng tâm hồn cho con: “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn” (Nguyễn Duy). Kết bài: Bài thơ với những âm hưởng nhẹ nhàng, giản dị đã để lại nhiều giá trị sâu sắc cho tâm hồn bạn đọc. Triết lí ấy còn sống mãi với thời gian, góp phần vào mạch cảm xúc thi ca dồi dào ca ngợi tình mẹ trong văn học nhân loại, một khúc ca da diết, sâu lắng về tình mẹ và khúc hát ru mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc.
Luận điểm 3: Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc: "Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước" Phân tích nghệ thuật, bình luận -> Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một n gười mẹ tần tảo, vất vả, gian lao đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ cha ông. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được ý chí và lòng dũng cảm dân tộc Việt Nam, cũng vì lẽ đó mà Huy Cận đã từng viết: “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sữn g Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Ngoài phép nhân hóa, Thanh Hải còn sử dụng phép tu từ so sánh chứa đựng nhiều ý nghĩa: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. “Sao” là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời về đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước luôn hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn tỏa sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Tiểu kết: Từ những vần thơ đặc sắc, ta cảm nhận được niềm tin của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh vất vả, gian lao chính là tiếng vang cho một thế hệ anh hùng của mùa xuân đất nước. Luận điểm 4: Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ - Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày tỏ những suy tư và tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa giá trị của cuộc đời mỗi con người: “Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến”. Phân tích nghệ thuật: Để bày tỏ lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã đem đến cho người đọc cái giai điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tiếp “ta” - “hòa” - “ca”. Với Điệp từ “ta làm” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha của chính tác giả khi đang nằm trên giường bệnh. Động từ “làm” - ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ, sự hoá thân để sống đẹp, sống có ích cho xã hội. Hình ảnh “nốt trầm” và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấy ước muốn tha thiết, chân thành của mình. Không ồn ào, cao giọng, nhà thơ chỉ muốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là “một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bản hoà ca chung. Nghĩa là nhà thơ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của đất nước. Suy nghĩ -> Còn gì đẹp hơn khi được làm con chim nhỏ cất tiếng hót rộn rã làm vui cho đời? Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ? Tiểu kết: Đọc đoạn thơ, ta xúc động và trân trọng trước ước nguyện của nhà thơ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người trong xã hội. Luận điểm 5: Nhà thơ Thanh Hải thể hiện cách dâng hiến cao đẹp “Một mùa xuân nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc.” Nghệ thuật -> Cách sử dụng ngôn từ của tác giả rất chính xác và tinh tế, “mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo cho thấy thái độ chân thành, khiêm nhường lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến và phục vụ cho đất nước. Điệp từ "dù là" được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và tuổi tác của tác giả. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, khi tóc bạc” như một thông điệp ẩn chứa ý nghĩa hết sức sâu sắc: nhiệm vụ cống hiến, xây dựng đất nước là của mọi người, và là mãi mãi; nghĩa vụ ấy kéo dài cả một đời người, từ tuổi hai mươi cho đến khi đầu đã điểm bạc theo tháng năm. Đây là lời kêu gọi mọi người cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và phát triển đất nước, để đất nước có thể vững vàng mà tiếp tục "đi lên phía trước”. Đây cũng là cách sống mà nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Nếu là con chim chiếc lá Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” Bình luận, đánh giá -> Những dòng thơ như lời tâm sự chân thành, tha thiết chứ không phải là sự bồng bột của tuổi trẻ hay sự gắng gượng của tuổi già mà là khát vọng, nguyện ước của nhà thơ. Ước nguyện vượt lên cả giới hạn cá nhân nhỏ bé để mang ý nghĩa rộng lớn, đó là lí tưởng sống cao đẹp của cả cộng đồng. Tiểu kết: Qua đây ta thấy, Thanh Hải chỉ “lặng lẽ” nhưng cháy bỏng một nỗi khát khao được hiến dâng những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước. Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh niên với bứ vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách mạng. Điều đó càng làm tăng giá trị tư tưởng sâu sắc cho nhiều thế hệ. Luận điểm 6: Tiếng hát yêu thương, niềm tự hào về quê hương đất nước: "Mùa xuân - ta xin hát Khúc Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế" Kết thúc bài thơ là một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước. Bình luận: Có lẽ, trong những ngày tháng nằm trên giường bệnh, cận kề cái chết, nhà thơ lại thấy quê hương của mình đẹp hơn, đáng tự hào hơn. Qua câu hát Nam ai, Nam bình cho thấy rõ nhà thơ rất yêu mến quê hương xứ Huế thơ mộng của mình, có lẽ cũng từ đó mà ông có thể mở rộng tình cảm để yêu mến đất nước, mới có thể cống hiến cả cuộc đời cho nước nhà. Kết bài: Với thể thơ năm chữ cùng giọng thơ tha thiết, sâu lắng đã tạo nên chất nhạc xao xuyến về tinh yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Những hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, biện pháp nhân hóa, điệp ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi và những từ ngữ tượng hình được sử dụng thành công đã khiến bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” càng trở nên gần gũi, quen thuộc với bạn đọc. Dù thời gian đã trôi qua nhưng những vần thơ và triết lí sống của Thanh Hải vẫn trường tồn theo thời gian. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (phần 1)
Mở bài: Xuân đến đánh thức ngàn cây cỏ đâm chồi nảy lộc và tạo cảm hứng bất tận trong tâm hồn thi nhân, thi ca. Mùa xuân đẹp, đất trời tươi mới đang rạo rực trong hồn thơ Thanh Hải, sự hoàn quyện của thiên nhiên và sức sống mãnh liệt đã tạo nên “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ sâu lắng, bình dị đã để lại nhiều ý nghĩa cho thế hệ hôm nay, mai sau. Thân bài: Thanh Hải là một trong những cây bút nổi bật thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của ông luôn hướng tình cảm về miền Bắc xa nhớ, với hồn thơ giản dị đậm chất Huế, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong tâm hồn bạn đọc. Trước lúc rời xa trần thế vào năm 1980, Thanh Hải vẫn dành trọn từng giây từng phút cho văn chương nghệ thuật, cho đời và cho người. Thanh Hải viết những vần thơ thật nhân hậu và thiết tha, những vần thơ không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Vần thơ ấy, con người ấy mãi mãi trường tồn trong thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ”. Luận điểm 1 Thanh Hải phác họa nên một bức tranh xuân giản dị, tươi đẹp và giàu sức sống. "Mọc giữa dòng sông xanh, Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời" Phân tích -> Khổ thơ mở đầu bằng hình ảnh “dòng sông xanh” gợi một dòng sông thơ mộng với vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế. Trên gam màu trong xanh “mọc” lên hình ảnh một bông hoa tím biếc. Màu xanh ấy không chỉ là màu xanh của nước mà còn là màu xanh của bầu trời, của cây cối quanh dòng sông. Động từ “mọc” được đặt ngay đầu câu là một dụng ý nghệ thuật để tạo ấn tượng về sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Bình luận, trình bày suy nghĩ -> Một cách viết khác lạ của Thanh Hải khi nói về mùa xuân không màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không màu đỏ thắm của hoa đào đã tạo nên một nét độc đáo riêng biệt cho hồn thơ tác giả mang đậm bản sắc Cố đô Huế. Sự kết hợp giữa màu xanh và màu tím biếc đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy bình an và hạnh phúc. -> Phải chăng, nét khác lạ, độc đáo ấy đã cho người đọc những ấn tượng khó phai khi cất lên vần thơ của Thanh Hải? Trong bức tranh tươi đẹp, thơ mộng đó không chỉ có màu xanh của lá, màu xanh của nước, của trời và màu tím của hoa mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nga của con chim chiền chiện hót vang bầu trời. Tiếng tiếng chim hót lảnh lót ngân vang trên bầu trời đã mở ra một không gian cao vời, trong trẻo chuyển bức tranh thiên nhiên từ tĩnh sang động đã làm lay động trái tim và tâm hồn tác giả. Một mùa xuân tươi đẹp đậm chất quê hương và chứa đựng sức sống mạnh mẽ của xứ Huế mộng mơ. Những từ ngữ cảm thán "ơi", "hót chi" của Thanh Hải đã thể hiện rõ nét cảm xúc ngây ngất dạt dào đến ngỡ ngàng khi đứng trước vẻ đẹp của đất trời sang xuân. Tiếng hót đã vực dậy cả một tâm hồn tác giả đang phải đối mặt với bóng đen u ám của bệnh tật và sự ghê rợn của tử thần. Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị mà nên thơ của mùa xuân, tác giả bồi hồi, xúc động bằng cả trái tim xao xuyến của mình. “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng” “Giọt long lanh” gợi lên liên tưởng phong phú và đầy thú vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm bình minh của mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng soi sáng trên bầu trời và cũng có thể là giọt mưa xuân đang rơi. Bình luận -> Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, hi vọng rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực sức xuân. Cử chỉ “tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời với cảm xúc say sưa, xốn xang và rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời. Nhận xét nghệ thuật -> Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được tác giả vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng phong phú. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác (long lanh), thính giác (rơi), và xúc giác (hứng). Tiểu kết Khổ thơ đầu mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp và nên thơ, một bức tranh có đầy đủ hình ảnh, màu sắc và âm thanh được hòa quyện tạo nên sức sống mạnh mẽ cho mùa xuân. Bức tranh này có thể gọi là bức tranh vô cùng đặc biệt bởi bài thơ được sáng tác tháng 11 năm 1980- thời điểm mùa đông giá rét. Như vậy những hình ảnh xuân được miêu tả trong tâm tưởng của nhà thơ khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh và phải đối mặt với tử thần. Cái chết cận kề nhưng Thanh Hải vẫn hướng đến mùa xuân tươi trẻ, tràn đầy sức sống, thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời, một niềm khát khao cuộc sống cháy bỏng. Luận điểm 2 Từ vẻ đẹp tươi mới của mùa xuân, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của con người. Tôi nện gót trên đường phố Huế Dửng dưng không một cảm tình chi Không gian sặc sụa mùi ô uế Như nước dòng Hương mãi cuốn đi Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm tha n. Thời gian trôi đi, Huế đã chuyển mình đổi khác, nay là Huế của những con người rạo rực sức xuân phát triển cùng đất nước. "Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ" Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành cùng sự xuất hiện hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” đã thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và sản xuất phát triển đất nước. Các điệp ngữ “mùa xuân”, “lộc”, “người” như trải rộng khung cảnh hiện thực khi gắn với cuộc sống chiến đấu, lao động của nhân dân. Phân tích -> Nét đặc sắc của đoạn thơ là hình ảnh “lộc” được sáng tạo rất độc đáo. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là là cành lá ngụy trang để che mắt quân thù hơn nữa lộc còn là sự chiến thắng đem lại tự hào cho dân tộc. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên những đồng ruộng mênh mông, bát ngát báo hiệu một mùa bội thu với những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng hiến dâng của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuấtt. “Lộc” chính là thành quả hôm nay là niềm tin, hi vọng của ngày mai. Từ những nhiệm vụ đó tất cả dân tộc bước vào xuân mới với khí thế khẩn trương, náo nhiệt: "Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao..." Phân tích nghệ thuật -> Điệp ngữ “tất cả” và từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” cùng nhịp thơ nhanh, nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. “hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bậtt của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng, nhộn nhịp, gấp gáp. Tất cả ý thơ đều thể hiện tinh thần phấn khởi của dân tộc cho một sự phát triển của đất nước. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (phần 2)
Từ khi ra đời cho tới nay tác phẩm Chí Phèo đã qua mấy tên gọi? A Đặt vấn đề Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất giai đoạn 30 - 45 các tác phẩm của ông tái hiện chân thực và sâu sắc những số phận cá nhân, nạn nhân của xã hội rối ren mà chủ yếu là tầng lớp trí thức tiểu tư sản và nhân dân nghèo. Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu của ông được coi là kiệt tác trong văn học hiện thực Việt Nam. Truyện ngắn Chí Phèo xoay quanh cuộc đời đầy bi kịch của một con người và truyện ngắn này cũng đã trải qua nhiều cái tên gọi khác nhau mỗi cái tên đều mang một ý nghĩa nhất định tìm hiểu về ý nghĩa nhan đề ấy Để người đọc hiểu … B Giải quyết vấn đề Từ khi ra đời cho đến nay truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao trải qua ba tên gọi khác nhau lúc đầu là Lò Gạch Cũ - Đôi lứa xứng đôi - Chí Phèo Lúc đầu Nam Cao đặt tác phẩm là Lò Gạch Cũ phải chăng hình ảnh này là hình ảnh xuất hiện mở đầu và kết thúc tác phẩm. Đó cũng chính là nơi người ta nhặt được Chí Phèo. Nơi đó mở đầu cho một số phận bất hạnh khởi đầu cho một kiếp người đầy bi kịch, hình ảnh này được xuất hiện ở cuối tác phẩm. Sự xuất hiện hình ảnh cái lò gạch cũ ở đầu và cuối tác phẩm đã tạo nên một kết cấu đầu cuối - tương ứng thể hiện dụng ý nghệ thuật của Nam Cao. Cũng có thể coi đây là sự xuất hiện có tính biểu tượng có tính quy luật của hình tượng Chí Phèo (hình tượng trọng tâm của tác phẩm). Những cái tên ấy còn thể hiện cái nhìn bi quan về số phận của người nhân dân tạo ra một điểm hạn chế chung của văn học hiện thực phê phán đó là chủ yếu đi sâu phản ánh về hiện thực đời sống nhưng họ chưa nhìn nhận được về tương lai tươi sáng của con người mà điều này chỉ văn học cách mạng mới thể hiện rõ nét Cái tên thứ 2 “đôi lứa xứng đôi” : khi văn bản thành sách lần đầu 1941 nhà xuất bản “đời mới” đổi tên thành đôi lứa xứng đôi. Vì họ đã căn cứ vào mối tình giữa Chí Phèo và Thị Nở để đặt ra nhan đề này mà người coi mối tình của người - ngợm. Cái tên này có tác dụng câu khách gợi chuyện tình ái ở một số người: cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở Đúng là bước ngoặt lớn trong chủ đề Chí Phèo. Nhưng xét về dung lượng và kết cấu của tác phẩm thì cuộc gặp gỡ này được miêu tả từ nửa sau của tác phẩm còn nửa đầu nhà Văn tập trung miêu tả sự tha hóa lưu manh hóa của Chí Phèo. Từ những kết hợp trên vì vậy ta nhận ra tên gọi này chưa bao quát được trọn vẹn về ý nghĩa của tác phẩm lại còn như muốn biến mối tình ấy thành trò cười tạo ra một định hướng thưởng thức hời hợt, sai lạc của tác phẩm không đúng với ý nghĩa của Nam cao khi viết tác phẩm Chí Phèo đến khi in lại trong tập “Luống Cày” 1946 Nam Cao đặt nhan đề là Chí Phèo cách đặt tên này thống nhất cho cách đặt tên của Nam cao như: Lão Hạc, gì Hảo, Lang giận. Vì Nam Cao thường lấy tên nhân vật chính để đặt tên cho tác phẩm của mình Chí Phèo là linh hồn của tác phẩm, tác phẩm đã hội tụ được giá trị tư tưởng kết tinh những đặc sắc nghệ thuật và thể hiện được những bứt phá trong sáng tạo của Nam Cao. Chí Phèo - Nam Cao đã gửi gắm một bức thông điệp về số phận bi kịch bất hạnh của nhân dân và cũng thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người: “ dù sống trong môi trường hoàn cảnh nào nhưng con người luôn khát khao vươn tới cuộc sống lương thiện” => Đây là nhan đề thể hiện được chủ đề của tác phẩm mang tầm khái quát lớn nên nhan đề này có giá trị hơn tình cảm. C. Kết thúc vấn đề Từ khi ra đời cho tới nay tác phẩm Chí Phèo đã có nhiều tên gọi xong nhan đề Chí Phèo gắn liền với Nam Cao nhất và đây là nhan đề có ý nghĩa nhất Đọc tiếp: Phân tích mối quan hệ của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao với thế giới nhân vật trong truyện?
Câu 2: Phân tích mối quan hệ của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao với thế giới nhân vật trong truyện? A.Đặt vấn đề Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất 1930 đến 1945 các tác phẩm của ông tái hiện chân thực và sâu sắc những số phận cá nhân. Những nạn nhân của xã hội nhiều rối ren mà chủ yếu là tầng lớp trí thức và nhân dân nghèo. Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu của ông cũng có thể coi đây là một kiệt tác trong văn hóa hiện thực phê phán Việt Nam. Truyện ngắn Chí Phèo xoay quanh cuộc đời bi kịch của một đứa trẻ bị bỏ rơi trong một làng quê nghèo trước cách mạng khắc họa cuộc đời đầy đau khổ của Chí Phèo với mọi người xung quanh trong mối quan hệ đầy phức tạp ấy khiến người đọc càng hiểu rõ hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm B.Giải quyết vấn đề Khái quát chung Chí Phèo là nhân vật trọng tâm (Chí Phèo là nhân vật chính của tác phẩm) là linh hồn của tác phẩm đã góp phần chính trong việc thể hiện chủ ý của tác phẩm này Để Thể hiện rõ về tính chất nhân vật nhà văn đã khắc họa nhân vật Chí Phèo trong mối quan hệ giữa thế giới các nhân vật trong truyện. Chí Phèo được đặt trong mối quan hệ với nhiều nhân vật. Nhà văn đã khắc họa mối quan hệ này của nhân vật để chỉ rõ có những nhân vật ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời Chí Phèo. Trong mối quan hệ nào Chí Phèo cũng bị chừa ra thành một cá thể cô độc tâm hồn anh ta là một thế giới cô đơn đầy bi kịch Phân tích Chí Phèo mối quan hệ với người đã sinh ra mình: Chí Phèo là một sản phẩm ngoài mong muốn là một sinh linh bị bỏ rơi có rất nhiều ngôn ngữ để người ta từ chối giọt máu mà mình sinh ra. Nhưng có một điều chắc chắn là đứa trẻ ấy sẽ phải lớn lên trong sự cô độc không tình thương không bàn tay chăm sóc của những người ruột thịt Chí Phèo trong mối quan hệ với những người đã nuôi Chí. Chí đã được anh thả ống lươn nhặt về trao tay cho bà góa mù Bà góa mù lại bán Chí cho vợ chồng bác phó cối không con. Điều này chứng tỏ người ta nhặt được chí và tùy cơ xử lý Chí. Có lẽ quãng đời hạnh phúc nhất là khi Chí ở nhà Vợ chồng bác phó. Khi vợ chồng bác phó cối chết Chí bơ vơ rồi đi làm thuê làm mướn cho tất cả mọi người trong làng để kiếm sống đến khi 20 tuổi Chí đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến Bác Kiến và gia đình hắn đã bóc lột sức lao động tuổi xuân và chà đạp lên lòng tự trọng khát vọng sống lương thiện của con người mới 20 tuổi ấy. Cũng chính vì lý do này Chí đã mất đi tự do mất đi cuộc đời lương thiện mà Chí phải vào tù Chí Phèo với người dân làng Vũ Đại: Chí Phèo là một con người hiền lành đáng thương nhưng sau khi đi ở tù về Chí Phèo trở thành kẻ tha hóa lưu manh hóa -> con quỷ dữ của Làng Vũ Đại. Những người dân hiền lành coi Chí là một nỗi sợ hãi bởi chính Chí đã nhận ra hắn đã đạp đổ bao cảnh nhà yên vui, phá tan bao nhiêu hạnh phúc làm chảy máu và nước mắt của con người. Vì vậy tất cả dân làng đều sợ hãi và tránh mặt hắn. Chí cô đơn ngay trên chính quê hương mình vì bị dân làng sợ hãi tránh mặt nên trí rất thèm giao tiếp và không ai chịu giao tiếp thì hắn chửi, cứ rượu xong là hắn chửi… chửi tất cả Chí Phèo với Bá Kiến: Đây là mối quan hệ để Nam Cao liên tiếp thể hiện bi kịch bị tha hóa và gián tiếp thể hiện bi kịch từ chối quyền làm người của Chí Phèo trong tác phẩm của Nam Cao. Miêu tả 3 lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến và lần nào hắn cũng mang theo hung khí. Lần một là cái vỏ chai thủy tinh, lần 2 là con dao nhỏ nhưng sắc, lần 3 hắn xách một con dao. Lần nào cũng vậy Chí Phèo đều gặp và đối thoại với chính chủ nhà đều bằng lời nói ngọt nhạt khôn khéo. Bá Kiến ung dung khiến Chí Phèo phải ra về => Qua đó ta nhận thấy sự hiện diện của Bá Kiến chính là nguyên nhân sâu xa liên tiếp dẫn Chí Phèo đến với bi kịch đau thương nhất của cuộc đời mình là bị cự tuyệt quyền làm người. Xét về mặt logic hiện thực Bá Kiến là một yếu tố không thể thiếu để tô đậm tính cách điển hình của Chí Phèo Chí Phèo trong mối quan hệ của Thị Nở: Đây là mối quan hệ liên tiếp thể hiện phần nhân tính bị chìm khuất cũng như bi kịch từ chối quyền làm người. Sự xuất hiện của Thị Nở có vai trò khá quan trọng trong việc thể hiện số phận tính chất của Chí Phèo một tính cách không đơn giản không thuần nhất và cũng giúp Nam Cao khắc họa nổi bật những khám phá bất ngờ của ông trong nội dung nhân vật về tính cách về số phận Một mặt dưới con mắt của người dân làng Vũ Đại. Thị Nở nghèo xấu dở hơi dòng dõi nhà có mả hủi Mặt khác với Chí Phèo Thị Nở lại là người khơi gợi thức dậy khát vọng hạnh phúc trong Chí. Chỉ khi gặp Thị Nở Chí Phèo mới hay rằng bát cháo hành ăn rất ngon hoặc “đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm cho người ta say” Đó là hương vị quyến rũ của hạnh phúc của tình yêu. Có thể nói Thị Nở đã giúp Chí Phèo tìm lại được chính mình và thức tỉnh được nhân tính trong Chí Đối thoại Chí Phèo - Thị Nở: Trong truyện ta thấy hội thoại giữa Chí Phèo và Thị Nở là hội thoại đơn vì Thị Nở không trả lời và chỉ biểu hiện bằng nét mặt. Chỉ có lời của Chí Phèo điều đó báo hiệu một mối quan hệ sẽ không được bền lâu như một cái gì tốt đẹp nằm ngoài sức với Chí ngay trong tính cách Chí cũng là cô đơn. Thị Nở là là niềm đau của Chí Phèo. Vốn nghèo xấu dở hơi nhưng Chí Phèo vẫn không được xứng đôi với Thị Nở và Chí chỉ cần lấy được Thị Nở là có thể trở về làm người lương thiện nhưng trí không làm được điều đó. Điều này có tác dụng tô đậm thêm cái bi đát hẩm hiu trong số phận của nhân vật Chí Phèo Chí Phèo với vợ Bá Kiến Kiến (Bà Ba): Bà vợ chỉ lợi dụng sức trai trẻ của Chí Phèo. Chí Phèo với chính bản thân mình: Chí giật mình khi tỉnh rượu Chí nhận ra mình đã từng có một quá khứ đẹp. Chí đã ý thức được sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, quá khứ đẹp với ước mơ bình dị nhỏ bé là có một gia đình hạnh phúc. Nhưng hiện tại thì đen tối cô độc và đầy tội ác. Đặc biệt đỉnh cao của bi kịch trong Chí là muốn làm người lương thiện mà không thể được, cuối cùng Chí Phèo phải giết chết Bá Kiến rồi tự tử đẩy bi kịch ấy lên tới đỉnh cao nhất cần giải quyết nhưng hướng giải quyết manh động tiêu cực Đánh giá Nhà Văn đặt nhân vật Chí Phèo trong mối quan hệ với thế giới các nhân vật trong truyện và trong từng mối quan hệ ấy số phận tính cách của Chí Phèo được bộc lộ rõ nét. Truyện ngắn Chí Phèo với một tác phẩm với nhiều chủ đề sâu sắc nỗi cô đơn bất hạnh của nhân vật Chí Phèo chính là một trong những chủ đề chính để làm nên giá trị của tác phẩm C. Kết thúc vấn đề Khi tìm hiểu mối quan hệ của nhân vật Chí Phèo với thế giới nhân vật trong truyện khiến ta càng hiểu rõ hơn Nam Cao là nhà văn có tấm lòng nhân đạo sâu sắc và cũng rất tài năng trong việc miêu tả nhân vật miêu tả tâm lý con người Đọc tiếp: Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao có một điểm đáng lưu ý: cái hệ thống không gian xuất hiện trong đời Chí Phèo: Lò Gạch cũ ,nhà của những người nghèo khổ, nhà của bác kiến, nhà tù, Làng Vũ Đại, vườn chuối ven sông, nhà Bá Kiến rồi lại lò gạch cũ. Anh chị hãy phân tích ý nghĩa của sơ đồ trên
Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao có một điểm đáng lưu ý: cái hệ thống không gian xuất hiện trong đời Chí Phèo: Lò Gạch cũ ,nhà của những người nghèo khổ, nhà của bác kiến, nhà tù, Làng Vũ Đại, vườn chuối ven sông, nhà Bá Kiến rồi lại lò gạch cũ. Anh chị hãy phân tích ý nghĩa của sơ đồ trên A Đặt vấn đề B Giải quyết vấn đề 1 Khái quát Không gian là nơi nhân vật hoạt động và tồn tại nhưng không gian trong truyện ngắn Chí Phèo là một loại ngôn ngữ nghệ thuật nhiều tầng ý nghĩa nó góp phần bộc lộ sâu sắc và ấn tượng hơn về chủ đề của tác phẩm là nẻo đường đi tìm nhân cách của một con người khốn cùng 2 Phân tích Vòng không gian trong tác phẩm Chí Phèo: Từ cái lò gạch cũ… vườn chuối ven sông… Đó đều là không gian xuất hiện tuần tự gắn liền với cuộc đời của Chí Phèo và từng điểm không gian ấy có ý nghĩa quan trọng khác nhau đối với số phận của nhân vật Kiểu kết cấu vòng tròn: Có Tác dụng như một tín hiệu nghệ thuật phản ánh cuộc đời quẩn quanh bế tắc của nhân vật trong xã hội. Kết cấu vòng tròn này thường thể hiện ở việc lập lại các tín hiệu đầu tác phẩm và cuối tác phẩm. Thì trong tác phẩm Chí Phèo đó là chi tiết của hình ảnh cái lò gạch cũ, ở đầu tác phẩm cái lò gạch là nơi người ta đã thấy Chí Phèo trần truồng xám ngắt trong chiếc váy đụt. Cuối tác phẩm đó là hình ảnh cái lò gạch thoáng qua trong đầu Thị Nở khi nhìn nhanh xuống bụng của mình -> Ý nghĩa: cái lò gạch bỏ không là nơi ẩn giấu những sinh linh vô thừa nhận điều đó thể hiện cái vòng luẩn quẩn của xã hội. Xã hội ấy sẽ vẫn còn có những Chí Phèo con nối tiếp nhau đời sống, cuộc sống bi kịch cho chính mình và gieo rắc cho những người xung quanh Trong chuỗi của cuộc đời Chí còn có nhiều điểm quan trọng khác: Nhà của những người nghèo khổ: là nơi nương tựa trong cuộc sống nghèo khổ của nhân vật Chí Phèo. Bà góa mù, Vợ chồng bác phó cối không con, họ đều là những người lao động nhọc nhằn nhưng chính họ lại là người cưu mang và nuôi Chí lớn lên bởi họ có tình thương một điều bình thường mà Nam Cao vẫn thường chú trọng Rời khỏi không gian ấy Chí rơi vào nhà Bá Kiến nơi mà Chí bóc lột cả sức trẻ tuổi xuân và lòng tự trọng. Nơi Chí bị tước đoạt bị coi thường với mọi quyền sống mà ai cũng có. Bà Ba vợ Bá Kến đã tước đi quyền tự trọng trong Chí, Bá Kiến đã tước đi quyền tự do của Trí Từ không gian nhà Bá Kiến Chí bị đẩy vào một vòng luẩn quẩn khác đó là nhà tù. Nhà tù đã biến một anh Chí hiền lành trở thành một thằng xa đà ăn mặc, cư xử chẳng giống ai đặc biệt hắn có món nghề “ăn vạ” với bất cứ ai Từ nhà tù Chí Phèo trở về làng Vũ Đại với một bộ dạng mới và không ai trong dân làng nhận ra anh Chí ngày xưa nữa. Dần dần từ tha hóa Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của Làng Vũ Đại. Làng Vũ Đại chính là nơi Chí tìm về sau khi ra tù bởi giống như với mọi người nông dân Chí Phèo đều gắn bó với làng quê của mình nhưng ở đó lại có Bá Kiến kẻ lợi dụng. Người biến Chí Phèo thành quỷ dữ Ở đó cũng có những người dân hiền lành và trong vô thức Chí thèm được trò chuyện được chung sống nhưng tất cả mọi người đều xa lánh tránh mặt Chí bởi họ không coi Chí là một con người Trí tìm đến vườn chuối ven sông gặp Thị Nở cuộc gặp gỡ đêm đó đã khiến Chí nhận ra mình đã già, mình đã có cuộc sống yên bình hiền lành và Chí được biết đến một sự chăm sóc của bàn tay đàn bà như thế vườn chuối đã trở thành không gian của tác giả. Dường như nó đã kéo Chí tỉnh dậy khỏi những cơn say triền miên bất tận trong cuộc đời Nhưng Chí không có quyền trở lại làm người lương thiện và Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến nơi Chí giết chết thủ phạm đã gây ra bi kịch và tự kết liễu bi kịch cuộc đời bằng cái chết. Vậy nhà Bá Kiến đã trở thành không gian tập trung nhất của xung đột đó là xung đột giữa Chí Phèo (một người nông dân bị bần cùng hóa) và Bá Kiến (một tên địa chủ gian xảo) xung đột bắt đầu từ khi Chí bị đi ở tù, xung đột trên khi Chí trở về làng ăn vạ lần nào Bá Kiến cũng thắng nhưng trong xung đột cuối cùng thì Bá Kiến không thể nào lường hết được và đã bị Chí Phèo đâm chết. Có thể coi đây là một vòng luẩn quẩn có tính chất cơ đọng nhất của bi kịch bởi cho dù Chí đã tìm đúng kẻ thù của mình nhưng vẫn rơi vào bế tắc và chỉ còn có cách duy nhất là tìm đến cái chết 3 Đánh giá Chuỗi điểm vòng trong tác phẩm là mô hình ngắn gọn cho mô hình chủ đề Chí Phèo diễn biến theo vòng và mức độ của bi kịch thông qua chuỗi điểm vòng này người đọc thấy được số phận và bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng Tám nói chung và bi kịch của Chí Phèo nói riêng C Kết thúc vấn đề Khi tìm hiểu vào chuỗi điểm vòng trong chủ đề Chí Phèo người đọc thấy rõ sự thành công của tác giả trong việc khắc họa về số phận về bi kịch chủ đề nhân vật. Đồng thời càng nhận thức sâu sắc hơn về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Đọc tiếp: Cho đoạn văn mở đầu “Hắn vừa đi… không ai biết” anh chị hãy phân tích ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao qua đoạn văn và chỉ ra ý nghĩa tác dụng của nó?
Cho đoạn văn mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi… cả làng Vũ Đại cũng không ai biết” anh chị hãy phân tích ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao qua đoạn văn mở đầu và chỉ ra ý nghĩa tác dụng của nó? A Đặt vấn đề B Giải quyết vấn đề I Khái quát 1 Giới thiệu về ngôn ngữ kể chuyện Là một yếu tố hết sức quan trọng trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ kể chuyện chính là ngôn ngữ của người kể chuyện một loại nhân vật do tác giả sáng tạo trong lúc kể chuyện 2 Đặc sắc của ngôn ngữ kể chuyện Truyền thống và ngôn ngữ trong tác phẩm hiện đại trong văn của Nam Cao: Trong tác phẩm tự sự truyền thống nhân vật kể chuyện thường đứng ở ngôi thứ ba số ít như một người vô hình nhưng lại biết hết thấy trước mọi việc (gọi là người kể chuyện vạn năng) hay người kể chuyện đầy quyền uy. Trong tác phẩm tự sự hiện đại nhân vật kể chuyện thường xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít và thường xưng tôi. Giữ vai trò là người chứng kiến có thể là người tham gia trực tiếp vào các sự kiện của truyện. Tuy nhiên dù xuất hiện ở hình thức nào thì nhân vật người kể chuyện cũng phải dùng lời kể, lời tả để thuật lại các sự việc biến cố miêu tả về nhân vật về cuộc sống Tác phẩm của Nam Cao: Trước Nam Cao Tác phẩm tự sự thường theo một mô hình lý tưởng mỗi tác phẩm tự sự thường là một truyện ngắn thể hiện một chủ thể để tất cả mọi câu chữ mọi tình tiết trong tác phẩm đều nhằm tập trung làm nổi bật chủ đề ấy. Trong mô hình nghệ thuật lý tưởng này thì cốt truyện là điểm tựa của tự sự, thì nhân vật là điểm tựa chính của cốt truyện và tính cách nhân vật là nội dung cơ bản nhất của nhân vật. Trước Nam Cao để phù hợp với mô hình lý tưởng ấy tác phẩm tự sự tôn trọng nguyên tắc khách quan trong phản ánh về đời sống: tất cả các sự kiện biến cố con người khi ở trong tác phẩm tự sự đều được kể, miêu tả từ bên ngoài vì vậy mà ngôn ngữ kể chuyện thường là lời gián tiếp và lời nhân vật là lời trực tiếp thể hiện về ý thức. Giọng điệu của người kể chuyện thì vô hình nhưng đầy quyền uy. Đến với Nam Cao khác với nhiều nhà văn trước và cùng thời. Nam Cao thường nhập thân hóa thân vào nhân vật để kể chuyện. Điều này có lẽ thể hiện rõ nhất trong tác phẩm của Nam cao như Lão Hạc, Đôi Mắt… bên cạnh đó Nam Cao thường sử dụng rộng rãi lời bán trực tiếp lời của người kể chuyện Nhưng thể hiện qua giọng điệu ý thức của các nhân vật => Người ta có thể lắng nghe được nhiều giọng nói đại diện cho những ngôn ngữ khác nhau trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao điều này thể hiện rõ nhất trong đoạn mở đầu của Chí Phèo II Phân tích 1 Lời văn bản trực tiếp Ở đoạn văn mở đầu của tác phẩm Chí Phèo người đọc thấy khá rõ nét lời văn bán trực tiếp chiếm một tỷ lệ khá lớn không chỉ có ngôn ngữ kể chuyện ngôn ngữ nhân vật mà ta còn thấy hai loại ngôn ngữ ấy hòa trộn vào nhau rất khó tách biệt a Lời của người kể chuyện Lời thông báo: “hắn vừa đi vừa chửi… bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửi => đây không phải là lời thông báo thuần túy khách quan nó còn bao hàm cả sự đánh giá bình luận hơn thế ngôn ngữ người kể chuyện đã khẳng định cho ta thấy rõ đây là một kiểu người say rượu hay gây gổ và nhất là đang chứa một nỗi uất ức. Muốn trút bỏ muốn phá bỏ đối với con người này chửi như một thói quen chửi sau khi đã uống rượu và hắn mượn rượu để chửi Tiếp sau lời thông báo là lời miêu tả của người kể chuyện. Bắt đầu hắn chửi trời rồi hắn chửi đời thế cũng chẳng sao…” Nhưng cả làng vũ đại ai cũng nhủ (người kể chuyện). Trong những câu văn này người kể chuyện miêu tả về cách chửi của nhân vật. Qua ngôn ngữ này ta thấy cách chửi của Chí Phèo rất độc đáo: chửi những gì rất to tát, trừu tượng, vu vơ…(trời, đời) đến những cái gì rất gần gũi, hữu hình đó là chửi Làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân Hắn để Hắn khốn khổ như vậy. Trong tâm thức của người viết “Trời” rất linh thiêng, đời là tất cả của sự sống, làng là cánh đồng nơi con người ta lớn lên gắn bó. 3 đối tượng ấy trong nhận thức của con người là cao quý nhất thiêng liêng nhất. Vậy Chí Phèo chửi toàn đối tượng kiêng kỵ chửi như thể Chí Phèo phải tức tối bực bội đến mức nào b Lời nhân vật Bên cạnh cái giọng nói của người kể chuyện qua lời bán trực tiếp ta còn nghe thấy giọng nói của một đám đông vô hình. Đám đông ấy chính là người dân sinh sống trong Làng Vũ Đại những con người vốn không muốn dây dưa với chí phèo nên tất cả ai cũng tưởng chắc chắc nó chừa mình ra. Những lời trần thuật nửa trực tiếp ấy cho ta thấy rõ kết quả trong Hành động chửi và hoàn cảnh của Chí Phèo để ta thấy được phản ứng của những người nghe chửi là tất cả đều im lặng không ai chửi lại Chí Phèo. Tức là không ai muốn giao tiếp với Chí Phèo dù là cách sơ đẳng nhất nghĩa là không ai coi Chí Phèo là một con người Đọc tiếp: Cho đoạn văn mở đầu “Hắn vừa đi… không ai biết” anh chị hãy phân tích ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao qua đoạn văn và chỉ ra ý nghĩa tác dụng của nó? (tiếp)
c Giọng nói của Chí Phèo Giọng của thằng khùng một thằng say “tức thật, ờ thế này thì tức thật tức chết đi được mất”...” sự xuất hiện lời của đối tượng được kể đã làm cho câu chuyện biến hóa mà chân thực giúp cho người kể hóa thân xâm nhập sâu vào thế giới của nhân vật. Nhưng những lời trần thuật nửa trực tiếp này cũng hàm chứa sự thông cảm của nhà văn với một kẻ bị cự tuyệt, chối bỏ cô đơn đến cùng cực. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự vật vã để tìm ra căn nguyên nỗi khổ của mình d Tác dụng Bằng cách sử dụng lời bán trực tiếp Nam Cao đã làm nổi bật tâm lí nhân vật một cách chân thực và sinh động nhất. Đọc văn Nam Cao người đọc nhận thấy con người như đang đi lại suy nghĩ chứ không phải nhà văn đang kể tả về họ Việc đưa vào những lời trần thuật khác nhau nhằm làm mở rộng nội dung tạo nên tính đa nghĩa cho ngôn ngữ kể chuyện. Đoạn văn trước hết đã miêu tả tài tình một trạng thái tâm lý đầy mâu thuẫn đó là trạng thái nửa tỉnh nửa say và phải là thằng say thằng kùng hoặc là một kẻ mất trí thì mới chửi bới lung tung như vậy. Nhưng khi say Chí Phèo vẫn biết tức, hắn vẫn nhận ra cái thân hắn khổ hình như không phải vì say mà Chí Phèo chửi vì muốn chửi nên Chí Phèo đã say. Vì vậy Người đọc thấy trong tâm hồn u mê ấy luôn âm ỉ một nỗi phẫn uất Đặc biệt đoạn văn này giúp ta hiểu được một thói quen không giống ai Chí Phèo và một tình thế rất riêng mà Chí Phèo đã rơi vào: trong con người Chí Phèo là một nỗi cô đơn khổng lồ Đoạn văn mở đầu này không chỉ giới thiệu về nhân vật mà còn thể hiện khá rõ về nhân vật khiến ta dự đoán được thiên chuyện sẽ đi theo hướng nào. Thiên chuyện ấy sẽ đi theo hướng đặt ra và giải đáp các câu hỏi hắn là ai? Vì sao Hắn chửi? tức là sẽ cho ta hắn là ai. Vì sao Hắn chửi, lai lịch của Chí Phèo, quá trình lưu manh hóa. Tiếng chửi ở phần mở đầu đã dẫn đến tiếng thét đòi quyền sống của Chí ở cuối tác phẩm Ngôn ngữ của đoạn văn mở đầu còn hé mở nguyên tắc tự sự đầy sự cách tân của nhà văn Nam Cao các nhà văn hiện thực dồn sức để giải đáp cho các câu? Diện mạo thực trạng của con người, xã hội trong hiện tại như thế nào? Đó là chủ nghĩa hiện thực hơi bầy còn trong tác phẩm của Nam Cao lại là lời giải đáp cho câu hỏi vì sao con người và đời sống lại ra nông nỗi ấy như thế chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa phân tích, giải thích lý giải vậy Nam Cao đã vượt qua lối văn kể tả thông thường để đi sâu vào lối văn phân tích. Chính vì vậy không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để cho Chí Phèo chửi đời. Đoạn văn mở đầu này đã chuẩn bị cho tác phẩm rẽ sang mạch khác đó là cách phân tích, giải thích kẻ nào sẽ phải chịu trách nhiệm trước bi kịch của Chí Phèo. 2 Hình thức của câu văn và từ ngữ Câu văn: người đọc ấn tượng một loạt câu văn ngắn, rất ngắn trong đoạn mở đầu. Bắt đầu Hắn chửi trời Hắn chửi đời, những câu văn ấy tạo nên nhịp điệu kể chuyện nhanh dồn dập tạo kịch tính cho chuyện. Ngoài ra còn những câu văn ngắn đặc biệt “có hề gì, tức thật, thế này thì tức thật… có trời mà biết” Người đọc tưởng chừng như đoạn văn bị cắt ngắn sé vụn để mình được chứng kiến tận mắt sự vật vã của Chí Phèo trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người Tác giả đã sử dụng một loạt từ ngữ cảm thán được sử dụng với mật độ dày đặc trong đoạn văn này “Tức thật…ờ… Tức thật, tức chết đi được mất! a ha!...” tác dụng một mặt làm sinh động cho đoạn văn mặt khác nó bộc lộ được sắc thái tính chất của nhân vật người kể chuyện Tác giả sử dụng rất nhiều hình thức của câu phủ định: “trời có của riêng nhà ai, không, chưa chẳng…” có thể trực tiếp phủ định, dùng hình thức hỏi để phủ định tất cả nhằm một mục đích đó là phủ định Chí Phèo trên đời này. Đồng thời khẳng định cái hư vô, cái cô đơn của Chí Phèo dù có cố gắng đến mấy thì thì cuộc đời Chí vẫn là một con số 0 tròn trĩnh. Chí Phèo chỉ có một thứ duy nhất đó là một khối cô đơn uất ức dồn tụ Cách xưng hô của tác giả: hắn, thằng. Nếu chỉ xét ở bề ngoài thì cách xưng hô ấy thể hiện sự tàn nhẫn khinh bỉ nhưng sâu bên trong là tình cảm sâu nặng của nhà văn đó chính là sự thông cảm đau xót khi thấy Chí Phèo say, chửi để được giao tiếp nhưng cuối cùng chỉ nhận về mình sự im lặng đến đáng sợ III Đánh giá Sử dụng nhiều thứ ngôn ngữ là sáng tạo của Nam Cao sáng tạo ấy đã biến đoạn văn thành tiếng nức nở thoát ra từ tâm hồn đau khổ của Chí Phèo. Đúng như trong đời thừa Nam Cao đã khẳng định: “một tác phẩm có giá trị phải thoát ra… lầm than”. Ngôn ngữ ấy đã diễn tả tinh tế thế giới nội tâm của con người đó là uất ức, cô đơn khao khát được giao cảm với đồng loại và đó cũng chính là bi kịch của Chí Phèo nói riêng, bi kịch của những người nhân dân Nói chung trước cách mạng tháng 8 C Kết thúc vấn đề Những dòng ngôn ngữ ở đoạn văn đầu tiên cũng như toàn bộ tác phẩm đã chảy ra từ trong tim, tình cảm và yêu thương con người của Nam Cao. Qua những đặc sắc về ngôn ngữ trong tác phẩm đặc biệt ở đoạn văn mở đầu này đã giúp chúng ta càng khẳng định rõ ràng hơn Nam Cao xứng đáng là một nhà văn lớn với tư tưởng nhân văn sâu sắc đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc Đọc tiếp: Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo từ đó nêu lên tư tưởng nhân đạo mới mẻ sâu sắc trong tác phẩm
a. Từ con quỷ dữ Chí Phèo khao khát trở lại làm con người lương thiện Chí đã thức tỉnh lương tâm nhưng cuối cùng lại chết thê thảm. Có thể nói trước khi gặp Thị Nở Chí Phèo chưa ý thức được mình là một con người cả ở phương diện khổ đau và hạnh phúc. Do vậy Chí Phèo không khao khát hạnh phúc, mà ngay cả niềm đau của mình anh cũng không cảm nhận thấy. Do vậy mà lúc đầu Chí Phèo đến với Thị Nở là do bản năng của một gã say rượu nhưng ngay sau đó bằng sự chăm sóc vụng về, nhưng những chân thành đầy tình người của Thị Nở đã giúp Chí thức tỉnh lương tâm. Người ta thường hay nhắc đến bát cháo hành của Thị Nở và gọi đó là bát cháo hành nhân đạo nó như một liều “Tiên Dược” không những có tác dụng giải cảm mà còn làm sống dậy tâm tính Chí Phèo. Mối tình của Thị Nở đối với Chí Phèo đã đưa Chí từ cõi quên trở về cõi nhớ làm sống dậy bản chất lương thiện trong Chí. Thị Nở đã đem lại ánh sáng nhận thức cho một đầu óc u mê trong những cơn say triền miên. Thị Nở đã thắp lên tình yêu tưởng chừng như băng giá không bao giờ biết yêu. Tác giả dùng cả đoạn văn giàu chất thơ để diễn tả tâm lí Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở: “vào một buổi sáng bình minh yên ả, Chí Phèo đã biết rung cảm… Chí Phèo cảm nhận cuộc đời này thật đẹp đáng yêu biết bao trong căn lều ẩm thấp không biết đến thời gian. Tâm hồn Chí đã rộng mở để lắng nghe cuộc sống bên ngoài để cảm nhận được âm thanh ánh sáng tất cả những điều đó đã mở ra trao trả cuộc đời cho Chí Từ đó để Chí Phèo nhận thức được tình trạng bi đát của bản thân mình. Chí này sinh suy nghĩ muốn làm hòa với mọi người và mong muốn với mọi người nhận anh quay trở lại làm người. Từ nhận thức Chí đã có những biến đổi về tình cảm. Chí lại có những khao khát hạnh phúc đơn sơ, cao đẹp với những ước mơ trước đây anh từng mơ ước: “chồng cày thuê…” ước mơ có một mái nhà tranh nghèo với hạnh phúc đời thường nhưng phải lương thiện => Vậy Có thể khẳng định từ khi gặp Thị Nở Chí Phèo đã có những khao khát được trở lại làm cuộc đời lương thiện. Định kiến của bà cô Thị Nở đại diện cho định kiến của xã hội thông qua lời Thị Nở đã từ chối khát vọng chính đáng của Chí. Lời bà cô nói: “ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề rạch mặt và ăn vạ” đã phản ánh khá đầy đủ định kiến của xã hội đối với những con người như Chí Phèo. Những con người từng bị tha hóa từng gây tội ác. Bởi xã hội ấy chỉ nhìn thấy bộ mặt gớm ghiếc mà không nhận ra rằng linh hồn của Chí đã trở về. Trước sự xúc phạm của Thị Nở lúc đầu Chí Phèo chỉ cười sau đó ngẩn người hiểu rõ Chí đã tìm đến rượu nhưng khốn thay cho Chí Phèo uống rượu mà hơi rượu không sặc sụa, lại chỉ thoảng thấy hơi cháo hành khiến Chí phải ôm mặt khóc rưng rức. Với những dòng văn miêu tả tâm lý sâu sắc, nhà văn cho người đọc thấy rõ bi kịch của Chí Phèo đang dần đi đến đỉnh điểm. Chí Phèo hiểu ra rằng mình vĩnh viễn bị tước đoạt tư cách làm người. Tong cơn say phẫn uất Chí Phèo đã mang dao đến nhà bá kiến giết Bá Kiến và tự giết mình => Nam Cao thật sâu sắc khi để bước chân của Chí Phèo bước chân tới nhà Bá Kiến. Anh đã đến đúng nhà của kẻ đã tước đi quyền làm người của mình để đòi lương thiện. Linh hồn của Chí trở về đã giúp anh nhận ra kẻ thù, kẻ cướp đoạt quyền làm người của anh là Bá Kiến để anh đòi lương thiện. Chí Phèo chết vì khi lương tâm đã trở về anh không thể chấp nhận cuộc sống của loài quỷ dữ như trước đây nữa nhưng cánh cửa mở vào cuộc sống lương thiện vẫn khóa chặt phía trước. Vì vậy Chí Phèo đã phẫn uất và tuyệt vọng anh đã chết trong ngưỡng cửa trở về cuộc sống con người. Điều đó cho thấy bi kịch của Chí Phèo là đau khổ vô cùng 1 Tư tưởng nhân đạo mới mẻ sâu sắc a Tư tưởng cảm thông sâu sắc của nhà văn Vốn là người sâu sắc trầm lặng nên Nam Cao ít bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình. Giọng văn của ông cứ khách quan đến lạnh lùng đến mức có người tưởng như là phũ phàng. Thế nhưng ẩn sâu trong những từ ngữ lạnh lùng ấy là nỗi đau của một trái tim đang nhỏ máu khi phải chứng kiến bi kịch quá lớn của một con người: Bá Kiến của một kẻ lương thiện bị băm vằm cả nhân hình, nhân tính và khi linh hồn được hồi sinh lại bị cự tuyệt đến phũ phàng b Đồng thời với niềm cảm thương là lời tố cáo lên án xã hội vô nhân đạo lúc bấy giờ. Xã hội ấy đã tiêu diệt đến tận cùng quyền sống và lẽ sống của con người. Nhà văn đã đi vào vạch trần bản chất sự tàn nhẫn nham hiểm của giai cấp thống trị: Kẻ trực tiếp đẩy Chí Phèo vào bi kịch chính là Bá Kiến, Bá Kiến không giống những tên địa chủ cường hào khác ở tính chất trọc phú mà hắn có tiếng cười khanh khách giòn giã và hắn tự phụ hơn đời vì tiếng cười tào tháo ấy. Hắn không từ thủ đoạn nào để bóc lột vơ vét của nhân dân, hắn có thể cướp đất, nhà đẩy con người vào vòng lao lý tù tội nhưng Bá Kiến vẫn tự che đậy bộ mặt giả nhân giả đức Tố cáo giai cấp thống trị đáng sợ hơn nữa là đám cường hào, ác bá chúng chia bè kéo cánh ngoài mặt thì tử tế nhưng trong bụng thì lại mong muốn cho nhau lại bại. Chúng lại luôn liên kết với nhau bóc lột nhân dân đẩy nhân dân vào con đường cùng quẫn rồi cuối cùng phải làm tay chân gây tội ác cho chúng. Nam Cao nhìn thấy xã hội bấy giờ, đã tạo ra môi trường thuận lợi cho những Bá Kiến xuất hiện c Nam Cao đã phát hiện và khẳng định bản chất của con người ngay cả khi họ mang diện mạo của một loài quỷ dữ Trong một xã hội tăm tối ở một tâm hồn đã bị nhuộm đen như Chí Phèo Nam Cao vẫn nhận ra ánh sáng của lương tâm và lương chi và khi ánh sáng ấy bùng lên thì không một sự tàn bạo nào có thể dập tắt được. Chí Phèo thà chịu chết chứ không chịu một lần nữa lại bán linh hồn của mình thành quỷ dữ. Đây là nét riêng của tư tưởng nhân đạo của Nam cao so với Ngô Tất Tố. Kết thúc tác phẩm Chí Phèo, Chí Phèo phải chết, chị Dậu Ngô Tất Tố kết thúc, chị Dậu chạy ra ngoài bóng tối d Trong tác phẩm Nam Cao còn đặt ra một giải pháp xã hội mang tư tưởng nhân đạo phải ngăn chặn tình trạng xã hội làm tha hóa con người và đẩy con người vào chỗ phi nhân tính. Đặt ra vấn đề muốn cứu lấy con người nhân tính phải thủ tiêu xã hội vô nhân đạo và phải làm cho xã hội ấy nhân đạo C Kết thúc vấn đề Có thể nói trong Chí Phèo Nam Cao đã miêu tả một cách xúc động cái bi kịch bị cự tuyệt vì làm người của Chí Phèo. Qua tác phẩm cũng giúp người đọc chúng ta hiểu rõ hơn Nam Cao là một nhà văn có tư tưởng sâu sắc lớn lao một nhà văn biệt tài miêu tả tâm lí con người. Qua đây ta cũng có thể khẳng định nền văn học hiện đại Việt Nam cũng như nền văn học dân tộc nói chung nếu thiếu Nam Cao thì sẽ có một khoảng trống không gì lấp được Đọc tiếp: Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao A Đặt vấn đề B Giải quyết vấn đề Khái quát Xuất xứ hoàn cảnh sáng tác Giải quyết vai trò của nhân vật trong tác phẩm tự sự Đề 1 như Chữ Người Tử Tù nhân vật quản ngục Cảm nhận chung về nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Khác với cách xây dựng Chí Phèo, Bá Kiến và Thị Nở được xây dựng ở hai khía cạnh chính: Số Phận - phẩm chất, tâm hồn và cũng rất khác tác phẩm khác khi xây dựng hình tượng nhân vật người nữ Phân tích Số Phận: Người đọc không thể không xót xa cho số phận của Thị Nở bởi Thị Nở là người phụ nữ bất hạnh nhất trong số phận của những người phụ nữ. Cuộc sống nghèo khó một ngoại hình ma chê quỷ hờn mặt thì bề ngang dài hơn chiều dài, môi thì cong dày, to, nứt nẻ như ruộng mạ, mũi to bành ra và đỏ sần sùi như vỏ cam sành, răng chìa ra ngoài. Theo tác giả Nam Cao có lẽ như người phụ nữ khác thì Thị Nở sẽ phải đập vỡ cái gương đê tiện khi mua ở chợ về vì cái dung nhan của mình nhưng Trời phú cho chị một tính cách rất sợ hơi ngẩn ngơ ăn ngủ yếm áo lúc nào cũng vô tâm đến chị có đặc tính hồn nhiên bậc nhất của thiên nhiên Xuất thân trong dòng dõi có mả hủi -> Có thể nói rằng nhân vật Thị Nở có số phận thể hiện cao nhất sự trớ trêu của tạo hóa nhưng đó lại là dụng ý của Nam Cao. Nam Cao dùng lối miêu tả phi thường để làm đòn bẩy nổi bật phẩm chất bên trong của Thị Nở. Khi tác động tới bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo như một tỷ lệ thuận. Thị Nở càng xấu thì sự khốn khổ tủi nhục của Chí Phèo càng cao, Thị Nở xuất hiện đã làm những mong ước mơ hồ chưa từng có trong Chí Phèo thức dậy và làm thức dậy cả cả quá khứ của Chí Phèo. Thật tủi nhục cho Chí Phèo biết bao bởi Chí chỉ ước mơ rằng lấy được một người đàn bà tầm thường như Thị Nở mà cũng không thể được. Đây là một người đàn bà mà người ta tránh như tránh hủi, tránh như một vật gì rất tởm… Chí Phèo chỉ mơ ước như vậy mà cũng không đạt được. Thị Nở từ chối đã để lại trong Chí Phèo nỗi đau tình phụ nhưng thực chất nỗi đau ấy chính là nỗi đau bị cự tuyệt quyền làm người Phẩm chất Đối lập với vẻ bề ngoài thì bên trong Thị Nở là một con người giàu tình yêu thương người nhất trong số những người dân làng Vũ Đại Thị Nở đến với Chí Phèo một cách rất hồn nhiên nhưng với suy nghĩ rất sâu sắc “mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc” -> Thị là con người rất nghĩa tình khi thấy Chí Phèo bị cảm Thị đã dìu Chí về lều tìm tất cả màn chiếu đắp ấm cho Chí đi kiếm gạo hành nấu cháo cho Chí giải cảm. Bát cháo ấy đong đầy tâm tình nhân nghĩa khiến cho tâm hồn Chí rung động thực sự. Bưng bát cháo mà Chí Phèo đã khóc, những từng nếp ký ức bấy lâu bị quên lãng lại trở về sống động trong Chí Chi tiết bát cháo hành là một chi tiết trang nghiêm khi nó xuất hiện đã làm mọi người quên hết cái đáng cười của ngoại hình tâm tính của Thị. Vì nó đã thể hiện tấm lòng tốt thực sự của Thị Nở đối với Chí Phèo, bát cháo hành là hiện thân cho tấm lòng giàu yêu thương của Thị Nở đối với Chí Phèo Khi gần gũi với Chí Phèo, Thị Nở đã phát hiện ra những điều tốt đẹp trong Chí mà người đời không bao giờ thấy được: “có những lần Thị Nở vào nhà Chí sĩ rượu bóp chân thì hắn bảo rượu ở chân giường lấy bao nhiêu thì lấy” -> cái thảo của Chí Phèo đã được Thị Nở cảm nhận, khi ở với Chí Phèo trong vòng 5 hôm thì phát hiện ra cái ngu ngơ, hiền lành của Chí. Khi Chí Phèo đã chết Thị vẫn còn nhận xét “sao có lúc hắn hiền như đất” Ngoài ra Thị Nở là người rất khao khát hạnh phúc gia đình trong những ngày yêu nhau Thị Nở biết làm duyên, e thẹn, lườm, âu yếm tuy rằng không biểu hiện như người thường. Khi Thị nghe tiếng vợ chồng thì thấy ngường ngượng mà mà thinh thích mà tác giả gọi đó là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn đó chăng. Và khi xa Thị Nở cũng thấy nhớ Chí Phèo ->dấu hiệu của tình yêu. Nhưng Thị vẫn biết tức giận khổ đau lo sợ, ở Thị Nở cũng có tất cả những cung bậc trạng thái của một tình yêu của một con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình => qua xây dựng nhân vật Thị Nở Nam Cao đã đề xuất quyền được yêu quyền được hưởng hạnh phúc cho những con người khi bị vứt ra ngoài xã hội. Với những phần người trong họ dù chưa hoàn thiện Đánh giá chung Nghệ thuật bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa hình thức bên ngoài và phản cách bên trong của con người C Kết thúc vấn đề
Nam Cao là một trong những nhà văn có ý thức sâu sắc về nghệ thuật hãy trình bày hiểu biết của em về quan điểm nghệ thuật của Nam Cao? A Đặt vấn đề BGiải quyết vấn đề I Khái quát II Phân tích quan điểm nghệ thuật của Nam Cao Nam cao với quan điểm nghệ thuật trước cách mạng tháng Tám: Nam Cao là một trong số không nhiều nhà văn trước Cách mạng mang tính tự giác về quan điểm nghệ thuật và có quan điểm nghệ thuật rất tiến bộ mặc dù không có những tác phẩm chuyên bàn về quan điểm nghệ thuật nhưng rải rác trong các sáng tác của ông ta. Thấy những quan điểm nghệ thuật thể hiện khá hệ thống nhất quán và có nhiều điểm tiến bộ so với phần đông các nhà văn cùng thời. Không ít khía cạnh trong quan điểm nghệ thuật đó chứng tỏ sự phát triển ở trình độ cao của tư duy hiện thực Có thể nói Nam Cao là nhà văn phê phán tính chất thoát ly của văn học lãng mạn đương thời một cách toàn diện sâu sắc nhất. Theo ông đó chỉ là thứ nghệ thuật lừa dối âm hưởng, chủ đạo của những tác phẩm này là giọng sướt mướt của kẻ thất tình lên án Văn học thoát ly, cũng có nghĩa lên án thứ nghệ thuật, vị nghệ thuật -> Tác giả đi vào khẳng định giá trị của văn học hiện thực, khẳng định vị nhân sinh Nam Cao yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động trong đời thừa Nam Cao nói: “ nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” và nhà văn phải đứng trong lao khổ mở hồn đón lấy tình cảm với vang động ở đời. Song song với việc phê phán không khoan nhượng văn học lãng mạn thoát ly, Nam Cao còn chị rõ vấn đề của những tác phẩm văn học hiện thực phê phán một cách mờ nhạt ý nghĩa xã hội non kém. Đối với Nam Cao văn học phản ánh hiện thực không chỉ mô tả cuộc sống mà còn phải đi vào phân tích lý giải cuộc sống theo nghệ thuật theo quy luật bởi hoàn cảnh xã hội quyết định nhiều tới tâm lý tính cách con người. Điều này được thể hiện khá rõ ở tác phẩm. Theo nam cao một tác phẩm hiện thực phải có giá trị vượt lên trên tình cảm với mọi giới hạn đặc biệt phải thấm nhuần nội dung tư tưởng nhân đạo đó là phải chứa đựng một cái gì đó công bằng bình đẳng. Trong tác phẩm của mình Nam Cao luôn đòi? là nhà văn phải có có tinh thần nhân đạo cao cả điều này thể hiện khá rõ nét trong đời thừa, Nhân vật Hộ có nhiều hoài bão ước mơ về nghệ thuật nhưng anh ta vẫn vẫn có thể hy sinh Nghệ thuật cho cuộc sống. Từ nhân vật này để cho mọi người đọc rút ra bài học trước khi viết những tác phẩm với nghệ thuật thì con người ta phải sống nhân đạo. Nam Cao không chỉ đặt ra vấn đề đôi mắt trong thiện truyện cùng tên mà ông đã nêu vấn đề này từ trước qua nhiều tác phẩm của mình đặc biệt lời đề từ cho truyện ngắn “nước mắt” có thể xem là tuyên ngôn của ông khi viết về hiện thực chủ nghĩa: “người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt giáo hoảnh của phường ích kỉ” nước mắt là miếng kính biến hình của vũ trụ câu nói ấy có nghĩa là nhà văn phải nhìn đời bằng đôi mắt tình thương mới thấu hiểu được hết bản chất tốt đẹp của con người dù cho bề ngoài có cộc cằn xấu xí Thái độ của Nam Cao đối với các nhà văn: Nam Cao rất coi trọng vai trò của chủ thể sáng tác luôn đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi sáng tạo trong đời thừa. Nam Cao khẳng định văn chương không cần đến những người thợ khéo tay mà văn chương biết làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương cần những người biết đào sâu biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có. Điều đó chứng tỏ ông yêu cầu người cầm bút phải luôn sáng tạo về nội dung hình thức của tác phẩm. Đặc biệt với mọi nhà văn phải có lương tâm Nghề nghiệp không được cẩu thả trong đời thừa. Nam Cao khẳng định sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì đều là bất lương nhưng sự cẩu thả trong văn chương không chỉ bất lương mà còn đê tiện Đặc điểm nghệ thuật của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám: Sau cách mạng tháng Tám đặc biệt trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Nam Cao sống rồi hãy viết có nghĩa là: “muốn viết tốt nhà văn phải xâm nhập vào cuộc sống để có vốn sống vốn hiểu biết thì mới có thể… Văn Chương” bản thân Nam Cao rất tận tụy trong mọi công việc III Đánh giá Thông qua việc tìm hiểu về nghệ thuật Nam Cao để người đọc thấy rõ được Nam Cao đã phản ánh khá chân thực về cuộc sống của người dân lao động. Nhà Văn tiếp tục khẳng định sứ mệnh của tầng lớp mình là viết để phục vụ chiến đấu phục vụ cuộc sống. Đây là một bước tiến vượt bậc trong quyết định nghệ thuật của Nam Cao nó cho thấy sự gặp gỡ tất yếu giữa văn học hiện thực chân chính với văn học cách mạng C Kết thúc vấn đề Từ những tìm hiểu người đọc đi đến khẳng định đây là những quan điểm mang nguyên tắc của xu hướng hiện thực tiến bộ văn học chân chính nói chung. Quan điểm nghệ thuật đó của Nam Cao cho thấy ông thực sự là một nhà văn lớn với nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn học dân tộc
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA <Trích Số Đỏ_Vũ Trọng Phụng> Trình bày hiểu biết của mình về cuộc đời, sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia. A Đặt vấn đề Với một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Vũ Trọng Phụng đã kịp để lại dấu ấn sâu sắc trên Văn Đàn Việt Nam bằng khả năng sáng tạo dồi dào bằng sự xông xáo khám phá và có lẽ đặc biệt bằng chính sự hiểu biết sâu sắc về xã hội đương thời. Nên Vũ Trọng Phụng đã trở thành đại diện xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực 30 - 45 B Giải quyết vấn đề Cuộc đời sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng Cuộc đời: sinh năm 1912 - 1939 sinh tại Hà Nội trong một gia đình nghèo quê gốc ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Sống mồ côi cha được trưởng thành và lớn lên nhờ sự dạy dỗ của người mẹ nhưng ông cũng chỉ học hết bậc tiểu học học. Ông đã từng trải qua các công việc như thư ký, bán hàng, đánh máy cho nhà in. Nhưng rồi đều bị đuổi việc từ đó ông chuyển sang viết báo, viết văn chuyên nghiệp. Sống chật vật với nghề. Khoảng 1937 - 1938 Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao phổi nhưng không có điều kiện chạy chữa ông mất khi vừa mới 27 tuổi tại Hà Nội Sự nghiệp: Vũ Trọng Phụng bắt đầu có chuyện đăng báo 1930 khi tác giả mới 18 tuổi ngoài tên thật Ông còn dùng thêm bút danh Thiên Hư. Ông là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào không đầy 10 năm viết văn nhưng ông để lại đại học khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều thể loại: truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết, kịch nói, phê bình văn học, bình luận thời sự, phóng sự, dịch thuật… Nhưng nhưng thành công nổi bật nhất là ở hai thể tiểu thuyết và phóng sự. Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc như: Cạm Bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936). Với tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được đánh giá là cây bút tiểu thuyết trào phúng bậc thầy với nhiều tác phẩm: giông tố, số đỏ, vỡ đê (sáng tác 1936), lấy nhau vì tình (1937), trúng số độc đắc (1938) Nội dung Bao trùm lên toàn bộ các sáng tác của Vũ Trọng Phụng là tiếng thét căm hờn và sức mạnh tố cáo đối với hiện thực xã hội đen tối, thối nát đương thời một kiểu văn hóa mà ông gọi thẳng đích danh là “xã hội chó đểu, xã hội khốn nạn” -> Vũ Trọng Phụng được đánh giá là cây bút văn xuôi tài năng ông để lại nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn 1930-1945 - “Số Đỏ”, “Hạnh phúc của một tang gia” => Tiểu thuyết số đỏ là tiểu thuyết trào phúng đặc sắc gồm 2 huy chương là một tác phẩm xuất sắc của Vũ Trọng Phụng được đăng ở Hà Nội báo 1936. Được in thành sách lần đầu năm 1938. Cuốn tiểu thuyết này xoay quanh chủ đề Xuân Tóc Đỏ Một đứa trẻ mồ côi, vô học kiếm sống bằng nghề chèo me, chèo xấu, nhảy tàu, bán thuốc lậu, nhật banh sân quần vợt… rồi tình cờ kiếm được việc làm tại nhà may Âu hóa. Cũng vô tình Xuân đã trở thành đốc tờ Xuân, thành nhà cải cách xã hội, thành giáo sư quần vợt, anh hùng cứu quốc… cuối cùng được nhận huân chương Bắc Đẩu bội tinh và trở thành ông con rể quý hóa của cụ Cố Hồng. Hạnh phúc của một tang gia do người biên soạn đặt cho đoạn trích trong nguyên bản này có tên đầy đủ là:”Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cùng nói vào - một đám ma gương mẫu”. Đây là chương thứ 15 của tác phẩm nhấn mạnh tới nội dung niềm sung sướng của tất cả mọi người trước cái chết của cụ cố tổ, trước niềm vui sướng. Họ chuẩn bị một đám ma gương mẫu linh đình. -> Chương truyện này được đánh giá là màn hài kịch xuất sắc nhất của Số Đỏ. Giúp cho chúng ta phần nào hiểu được sự lố lăng đồi bại trong xã hội đương thời, tài năng nghệ thuật bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. C Kết thúc vấn đề Qua những tìm hiểu trên giúp chúng ta phần nào hiểu được chủ đề, sự nghiệp tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng đồng thời hiểu được phần nào về bút pháp trào phúng trong truyện tiểu thuyết nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng: Số Đỏ Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 2)
Phân tích ý nghĩa nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia” A Đặt vấn đề (như đề 1) B Giải quyết vấn đề Số Đỏ được xem là kiệt tác của vũ trụ cũng là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 xuất bản dưới dạng đăng nhiều kỳ trên Hà Nội báo bắt đầu từ số 40 năm 1936 được in thành sách lần đầu năm 1938 Hạnh phúc của một tang gia là chương thứ 15 của tiểu thuyết Số Đỏ tên đầy đủ của chương: “Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh cùng nói vào - một đám ma gương mẫu” Đánh giá - phân tích: nhan đề chương truyện Hạnh phúc của một tang gia rất lạ, giật gân. Lạ và giật gân bởi sự kết hợp từ ngữ, bởi ý nghĩa nhấn mạnh mà nhà văn muốn thể hiện trong sự kết hợp ấy. Hạnh phúc chỉ niềm vui sự sung sướng ở mức độ tột đỉnh. Tang ra chỉ gia đình có người chết ở đó có duy nhất một điều là sự mất mát và đau buồn. Sự kết hợp của từ ngữ này đã tạo ra sự mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa vui và buồn giữa cái được và mất Ý nghĩa: một mặt nó thu hút sự tò mò chú ý của người đọc. Mặt khác nó phản ánh rất đúng sự mỉa mai hài hước đó là: lũ con cháu của cái đại gia đình này thực sự sung sướng, hạnh phúc khi cụ cố chết. Nhưng đây cũng chính là tình huống trào phúng chính yếu của cả chương truyện. Tang gia và hạnh phúc hai khái niệm hai trạng thái cảm xúc trái ngược nhau nhưng cùng tồn tại trong một bối cảnh. Có người chết mà lại vui vẻ, sung sướng. Đó chính là một niềm hạnh phúc của một gia đình vô phúc là niềm vui của lũ con cháu bất hiếu, bất nhân bất nghĩa. Thông qua đó Nhà văn phần nào giúp người đọc hình dung được thái độ của con người và bản chất lố lăng phi đạo đức của xã hội đương thời C Kết thúc vấn đề Chính vì vậy mà nhan đề hạnh phúc của một tang gia được coi là màn hài kịch xuất sắc nhất - Số Đỏ có lẽ cũng bởi chính nhan đề của tác phẩm Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 3)
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia A Đặt vấn đề Sổ đỏ là một kiệt tác “vô tiền khoáng hậu” ở Việt Nam một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho nền văn học (Đây là nhận định của Nguyễn Khải). Qua Số Đỏ xã hội tư sản việt nam đương thời đang bước vào cuộc cách tận văn minh dởm hiện lên thật nhố nhăng đồi bại như 1 tấn đại hài kịch. Hơn thế nữa tác phẩm này còn là minh chứng hùng hồn cho tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Xét ở đây chính là nghệ thuật trào phúng sâu sắc điêu luyện điều đó lại được thể hiện khá rõ nét của đoạn trích hạnh phúc của một tang gia. B Giải quyết vấn đề 1 Khái quát 2 Xuất xứ hoàn cảnh nội dung của tác phẩm 3 Vị trí và nội dung của đoạn trích 4 Giới thiệu về nghệ thuật trào phúng Trào Phúng vốn là loại hình nghệ thuật trong văn chương xưa và nay đặc biệt của nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo ra tiếng cười những tiếng cười trong tác phẩm trào phúng không phải là tiếng cười giải trí thông thường mà nó là tiếng cười có ý nghĩa xã hội nhân sinh. Thường được dùng như một vũ khí để đấu tranh xã hội, đấu tranh giai cấp. Bởi vậy nghệ thuật trào phúng thường nảy sinh trong xã hội có nhiều mâu thuẫn. Tài năng của người viết tác phẩm trào phúng phải là người biết phát hiện ra những mâu thuẫn trào phúng ấy, mâu thuẫn ấy có thể là mâu thuẫn giữa bên trong và bên ngoài hay giữa nội dung và hình thức, mâu thuẫn giữa hình tượng và bản chất, giữa phi lý và hợp lý để tạo ra tiếng cười. Nghệ thuật trào phúng cho phép và đòi hỏi nhà văn phải sử dụng những thủ pháp cường điệu phóng đại để đẩy mâu thuẫn trào phúng ấy lên tới đỉnh điểm. 5 Khái quát chung nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia Nếu hiểu về nghệ thuật trào phúng và đặc sắc của nghệ thuật trào phúng như vậy thì ta nhận thấy nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng đã rất thành công ở những phương diện trào phúng cơ bản sau Tài nghệ trào phúng của tác giả được xây dựng qua chân dung biếm họa Nghệ thuật xây dựng hình tượng tập thể Ở nghệ thuật sử dụng cường điệu, phóng đại Thể hiện qua giọng điệu và từ ngữ Phân tích 1 Chất trào phúng được thể hiện ngay trong Nhan đề và tình huống truyện (Câu 2) Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 4)
1 Tài nghệ trào phúng của tác giả được xây dựng qua chân dung biếm họa a Chân dung biếm họa cá nhân (các thành viên trong gia đình cụ cố Tổ) Niềm vui chung của cả đại gia đình này: cái chết của cụ cố tổ đã đem lại niềm vui hiếm có cho cái đại gia đình này. Bởi lẽ ông cụ ấy đã có một gia tài và có một cái cái chúc thư và chỉ khi ông cụ chết đi thì lũ con cháu bất hiếu kia sẽ được mở chúc thư đồng thời với việc họ sẽ biết mình được chia bao nhiêu phần trong gia tài ấy. Nhưng bên cạnh niềm vui chung là vì tiền đó với mọi người trong cái gia đình này còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau thật đúng là “muôn hình vạn trạng”. Do vậy càng làm đậm nét hàng loạt các chân dung biếm họa hài hước Người sung sướng đầu tiên là ông Phán mọc sừng: là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong cái đám người nhận được tin vui ngay sau cái chết của ông cụ cố tổ cũng không phải ngẫu nhiên cụ Cố Hồng lại chọn ông con rể quý hóa ấy là người đầu tiên để nhỏ to vào tai rằng sẽ chia cho con gái, con rể thêm một số tiền nữa là vài nghìn đồng. Bởi chính ông ta một đạo diễn tài ba đã đặt câu “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng” vào miệng của một diễn viên xuất sắc là Xuân Tóc Đỏ để dẫn đến cái chết “đáng mừng” kia. Cho nên ông ta xứng đáng là người đầu tiên được hưởng thành quả từ cái chết của cụ cố tổ, niềm vui của ông ta đơn giản và phàm tục nhưng rất đúng với tâm lý của một con buôn khi gặp món “bở” món “hời”. Ông ta rất ngạc nhiên không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu mình lại to như thế. Ông hào hứng mơ tưởng đến một cuộc hợp tác lâu dài với Xuân Tóc Đỏ dâng lên tới đỉnh điểm với niềm phấn khích. Ông muốn gặp ngay Xuân Tóc đỏ để thanh toán nốt 5 đồng vì buôn bán phải giữ chữ tín Cụ Cố Hồng: mới chỉ 60 tuổi nhưng lúc nào cũng muốn người ta gọi là cụ cố. Không có hiểu biết gì mở mồm là nói “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Niềm vui của ông ta vì bố ruột chết háo danh mù quáng đến mức ngu xuẩn và lố bịch “bố chết là dịp may để cho ông ta nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc được mặc đồ xô gai, lụ khụ… khóc mếu” Để diễn trò già nua trước bàn dân thiên hạ. Để mọi người chỉ trỏ khen là “Úi giời con trai lớn đã già thế kia à”. Đây là đứa con đại bất hiếu. Vợ chồng Văn Minh Văn Minh chồng: là người gầy gò ốm yếu nhưng luôn hô hào với mọi người tập luyện thể dục thể thao. Là cháu đích tôn của người chết, đứa cháu này rất hạnh phúc vì cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viện bông nữa hắn chỉ lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội. Mặt khác Ông phải đắn đo suy nghĩ về cách xử trí với Xuân Tóc Đỏ bởi Xuân là chủ của “hai cái tội nhỏ, một cái ơn to”. Cho nên ông ta vò đầu bứt tóc đăm chiêu nhưng thành thực lại rất hợp thời trang hợp với cái mặt con người nhà có tang gia bối rối. Điều này ngược đạo lý khiến nhân vật tự vạch trần được bản chất dả dối của mình Văn Minh vợ: “sốt ruột vì mãi chưa được mặc những đồ xô gai tân thời…” niềm vui của bà ta nhuốm vẻ con buôn, bà hạnh phúc khi được lăng xê quảng cáo không mất tiền cho cửa hàng âu hóa của mình qua đó tác giả nhằm lên án cuộc cải cách âu hóa đã len chân vào cả một đám tang vốn không là nơi để chưng diện Cậu Tú Tân: chưa bao giờ cậu đỗ tú tài do phát tang muộn nên cậu ta cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi không dùng đến. Một điều đặc biệt nữa là lúc hạ huyệt cậu luộm nhuộm với chiếc áo thun trắng bắt bẻ từng người một để cậu chụp ảnh làm kỷ niệm -> đám tang ông nội là đám tang hiếm có để cậu giải trí và thể hiện tài nghệ chụp ảnh của mình Cô Tuyết xuất hiện với khuôn mặt buồn lãng mạn nhưng rất hợp mốt. Buồn vì không tìm thấy bạn trai đâu cả vì vậy trong lòng Tuyết ngổn ngang những câu hỏi:” tại sao Xuân không -> phúng viếng” điều ấy khiến tuyết đau khổ một cách rất chính đáng Thấy thiên hạ đồn rằng mình hư hỏng nhiều nên Tuyết bèn mặc bộ y phục ngây thơ:” cái áo dài voan mỏng trong có cooc-xê trong như hở cả nách và vú” để cho thiên hạ thấy rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Tuyết đưa tang ông nội không phải vì thương vì đạo hiếu với ông mà vì mục đích khác đó là để khoe sắc đẹp để thanh minh cho mình mình đặc biệt là để tìm Xuân -> Tuyết đại diện cho các cô gái hư hỏng giả dối trong xã hội Việt Nam Cách Mạng Tháng 8 Bà cụ Cố Hồng: khi Xuân Tóc đỏ xuất hiện đột ngột trước đám tang cùng bà bà thì cụ bà sung sướng cảm động vô cùng mà kêu lên: “ấy giá như không có món ấy thì thiếu chưa được to, may mà Xuân đã nghĩ hộ” -> Bà ta giống như chồng háo danh và bất hiếu => Tất cả các thành viên trong gia đình này trước cái chết của cụ cố tổ mỗi người đều có một niềm vui khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở sự tàn nhẫn và bất hiếu => Qua chân dung biếm họa về các thành viên trong gia đình này người đọc chua xót nhận ra sự băng hoại đạo đức, những lối sống háo danh, hão huyền, thực dụng đã bào mòn đi những tình cảm gia đình thiêng liêng, tình cảm cao quý trong mỗi con người. b Chân dung biếm họa tập thể (Tang khách) Niềm hạnh phúc do cái chết của cụ cố tổ đem lại không khí tràn ngập trong gia đình cụ mà còn lan ra cả những người tới dự lễ tang Hai cảnh sát: Min-đơ, Min-toa thì vui vì được ghi biên bản phạt, đang lúc thất nghiệp nhưng như nhà buôn sắp vỡ nợ thì được thuê giữ trật tự cho đám tang nên sung sướng cực điểm đã trông nom hết lòng nên thành thực tang gia ai cũng vui vẻ Những ông bạn thân của cụ Cố Hồng: Họ đều đến đám tang là có dịp khoe các loại râu, các loại huân chương cao quý, đặc biệt hơn họ còn cảm thấy vui vì được ngắm bờ ngực thấp thoáng trong bộ y phục ngây thơ của cô Tuyết -> Bản chất háo danh dâm ô của lũ người này Các khách bà: khoe mốt để bình phẩm chê bai nhau nói với nhau về một cái cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Có nghĩa là họ biến đám tang thành cuộc vui họp mặt. Các giai thanh gái lịch Hà Thành đến đám tang để tìm nhau, cười tình nhau, chê bai nhau… bằng những vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma Sư cụ Tăng Phú sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng, trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo Xuân Tóc Đỏ: Nhưng người hạnh phúc nhất có lẽ là Xuân dù anh ta có vẻ như không ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc. Về danh dự, cái chết của cụ tổ đã khiến cho danh dự của Xuân to thêm. Về tiền bạc, ông Phán Mọc Sừng đã thanh toán nốt số tiền giết người ngay trong đám tang, mua chuộc Xuân bằng 5 đồng để hắn ta tố cáo chuyện vợ mình hoang dâm, nhằm được ông cố Hồng chia thêm vài ngàn đồng Đọc tiếp: Hạnh phúc của một tang gia (phần 5)
Nghệ thuật xây dựng hình tượng tập thể cảnh đám tang Theo như sở nguyện của hai vợ chồng cụ cố Hồng thì đám ma cụ tổ phải là một đám ma mẫu mực, to tát chưa từng có và cái đại gia đình ấy đã làm được điều đó. Tuy nhiên, đây là một đám tang mẫu mực cho sự biến tướng quái gở trong lối sống của lớp người giàu có mới nổi chỉ còn biết nghe theo tiếng gọi của những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa lý với bất cứ sự kiện gì cũng có thể tạo thành một cuộc hội hè cho dù là một đám tang đi nữa. Miêu tả cảnh đám tang : Điệp khúc “đám cử đi” đã biểu lộ cho ai cũng có thể thấy đám tang đích thực là một đám rước, càng đi càng đông, đưa đi đến đâu làm huyên náo đến đây. Nhạc điều thì có đủ kèn Ta, kèn Tàu, kèn Tây thay nhau mà rộn lên như thể đua nhau mà tạo tiếng ồn. phúng viếng lại càng đa tạp, trong cả ra đường hàng trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa… Người đưa tiễn kẻ quá cố đông đúc, sang trọng nhưng chen lẫn giữa xe và người. Đã thế lại có đến một nửa là phụ nữ, phần lớn là tân thời. Chính vì thế mà càng ồn ào, huyên náo Nhận xét của tác giả: “ ả thật là đám ma to tát” => Nhận xét chung: về ngoài đám tang được miêu tả rất to và sang trọng bởi nó thừa các nghi lễ vật chất nhưng lại thiếu một điều duy nhất và quan trọng nhất là sự tiếc thương dành cho người đã khuất qua đó đó tác giả Tố cáo sự cố nâng cao độ mất hết tình người của một xã hội đều giả. Điệp Khúc: “đám cử đi” lặp lại hai lần thành một câu và một đoạn với nhiều nghĩa là đám tang đưa người đã khuất về nơi an nghỉ cuối cùng hay là một đám rước, một đám hội của những kẻ đang sống, lửng lơ, chơi vơi, chua chát. Điệp khúc ấy giống như một chi tiết quan trọng tô đậm thêm ý nghĩa sự nhố nhăng, vô lương tâm ấy vẫn cứ đang diễn ra không hề dừng lại và không biết bao giờ mới kết thúc. Đây là cuộc hành trình tới mồ của cả một xã hội tưởng giả thối nát mà Vũ Trọng Phụng gọi là “xã hội khốn nạn chó đểu” Bút pháp nghệ thuật Cường điệu phóng đại đối lập: Cường địa phóng đại để biếm họa về diện mạo của ông Văn Minh (vò đầu bứt tóc đăm đăm chiêu chiêu), trang phục là cô Tuyết (bộ trang phục ngây thơ) Cường điệu biếm họa về hành vi Cậu Tú Tân bắt bẻ mọi người Đặc sản tâm lý kiểu tâm lý tư sản nửa mùa bằng cường điệu cảm xúc suy nghĩ chính là việc đánh đo giữa công và tội của Xuân Tóc Đỏ -> Tất cả những cường điệu đó đã lột tả được những nét “quái dở” của những con người trong xã hội “quái thai” Nghệ thuật đối lập giữa nội tâm và ngoại diện đã lột tẩy bản chất của đối tượng cụ Cố Hồng. Nhà văn đã lột tẩy soi thấu tim đen của cụ Cố Hồng để chỉ ra ra cho bạn đọc biết rằng đằng sau cái dáng điệu nhắm nghiền mắt lại kia mà ai đó tưởng rằng vì ông ta quá thương bố nhưng ngược lại ông ta lại mơ màng tưởng tượng ho khạc, khóc mếu để mọi người khen mình có hiếu. Còn Văn Minh đằng sau vẻ đăm đăm chiêu chiêu là toan tính cá nhân, đằng sau nỗi buồn của Tuyết là thiếu vắng bạn trai, đằng sau những vòng hoa, những ông khách sang trọng những bộ quần áo hợp thời kia là cả một xã hội cặn bã thối nát được phơi bày Giọng điệu và ngôn ngữ Vũ Trọng Phụng đã pha trộn nhiều giọng điệu để tạo ra một giọng điệu mới đó là sự pha trộn giữa giọng điệu hài hước bông hoa trong câu văn nói về hai viên cảnh sát buồn như những nhà buôn sắp vỡ nợ lại được thuê giữ trật tự cho đám ma. Kết hợp với giọng điệu châm biếm công kích thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng mỉm cười Giọng điệu giễu nhại xen lẫn với trang nghiêm thật là đủ dai thanh gái lịch nên họ chim nhau. Ngược lại bằng những vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma hay giọng điệu khách quan: “đám cử đi đi”
TÁC PHẨM - CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ (NGUYỄN TUÂN) I Tìm hiểu chung 1 Xuất xứ Hoàn cảnh sáng tác: ban đầu có tên “dòng chữ cuối cùng” in 1938. Sau đó được đưa vào tập “vang bóng một thời” một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng 8 gồm 11 truyện ngắn với các nhân vật chính “Nho sĩ cuối mùa hạ” là những con người tài hoa nhưng bất đắc trí trước sự thay đổi trong xã hội thực dân nửa phong kiến. 2 Giá trị tác phẩm a Nội dung Tác giả thể hiện những nét đẹp truyền thống: viết chữ, chơi chữ. Nét đẹp về con người tài hoa nghệ sĩ: Huấn Cao - người sáng tạo ra cái đẹp, Quản ngục - người biết tôn thờ cái đẹp. b Nghệ thuật Nguyễn Tuân tạo dựng tình huống Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Nguyễn Tuân xây dựng cảnh, giọng điệu đến ngôn ngữ => Thể hiện rõ phong cách cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Phân tích những nét đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện của truyện ngắn “Chữ Người Tử Tù” - Nguyễn Tuân. A Đặt vấn đề Giới thiệu về tác giả tác phẩm. Dẫn vào yêu cầu đề: Chữ Người Tử Tù được đánh giá là kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Bởi lẽ Tác phẩm này không chỉ kết tinh được giá trị nhân văn đẹp đẽ mà còn hội tụ được đầy đủ những đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám. Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật dựng chuyện khắc họa nhân vật và có lẽ đặc biệt nhất là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện. Có thể khẳng định Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo giàu ý nghĩa ở Chữ Người Tử Tù. B Giải quyết vấn đề I Khái quát 1 Xuất xứ hoàn cảnh sáng tác 2 Giới thiệu về tình huống truyện Tình huống truyện là những tình thế đặc biệt những hoàn cảnh bất thường có ý nghĩa thử thách bản lĩnh con người và tình huống truyện trong tác phẩm tự sự có vai trò đặc biệt quan trọng. Thể hiện tính cách số phận của nhân vật Thể hiện nội dung, tư tưởng, tài năng nghệ thuật của tác giả Gợi ra mối tương quan giữa các nhân vật sự kiện trong truyện Một số nhận xét nổi tiếng của các nhà văn nhà nghiên cứu văn học về tình huống truyện: Nguyễn Minh Châu “tình huống là lát cắt của cuộc sống mà qua đó ta thấy được trăm năm của một đời thảo mộc” Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh “tình huống như một thứ nước rửa hình rửa ảnh có thể làm nổi bật được bản chất của nhân vật và tư tưởng của tác giả” 3 Nhận diện tình huống truyện trong truyện ngắn Chữ Người Tử Tù - Nếu hiểu về tình huống như vậy thì ở truyện ngắn Chữ Người Tử Tù Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo hấp dẫn: Tình huống gặp phải oái ăm giữa hai nhân vật Huấn Cao - Quản ngục. Một người sáng tạo ra cái, đẹp một người yêu thương trân trọng cái đẹp. Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 2)
I Phân tích 1 Mô tả cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và Quản ngục a Tính chất oái oăm của cuộc gặp gỡ này Thời gian: canh 3 lúc nửa đêm Không gian: tại buồng giam của tử tù -> Không gian, thời gian khá đặc biệt cuộc gặp gỡ ấy xảy ra nơi chốn ngục tù. Đây vốn không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ bình thường đặc biệt đấy là thời gian gặp gỡ cuối cùng của cuộc đời con người tài hoa. Tình thế và mối quan hệ giữa Huấn Cao và Quản ngục Quan hệ xã hội: họ là kẻ thù của nhau, họ đối lập. Quan hệ Nghệ thuật: là những người tri ân, tri kỷ Giữa hai con người này còn lại sinh một tình thế quan hệ nữa: quan hệ về mặt quyền lợi Phân tích: Huấn Cao vì là kẻ tử tù cho nên không có quyền lựa chọn hành động cho mình. Còn quản ngục vì là Cai ngục nên có quyền lựa chọn hành động cho bản thân vì thế nhân vật này trong cuộc gặp gỡ với Huấn Cao đã bị đẩy đến sự phải lựa chọn hành động cho mình. Một sự lựa chọn nghiệt ngã nếu quản ngục cố gắng làm chọn chức phận liên quan thì phụ tấm lòng tri kỷ với Huấn Cao. Còn nếu muốn sống trọn đạo tri kỷ buộc phải phản bội chức phận của mình. Sự lựa chọn này chứa đựng hai khía cạnh tính chất khuynh hướng đối với tư tưởng tác phẩm. Nếu Quản ngục lựa chọn làm tròn chức phận của một viên quan thì Quản ngục chỉ là một kẻ rất tầm thường và kéo theo tư tưởng tác phẩm sẽ hướng theo cái tầm thường đang ngự trị xã hội và điều đáng buồn là xã hội này không có chỗ cho cái đẹp tồn tại. Vậy sáng tác của Nguyễn Tuân sẽ theo khuynh hướng lên án xã hội bất công tàn nhẫn, thù địch về cái đẹp. Tiếng nói ấy sẽ bị chìm khuất bởi: “Những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” trong tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Nếu quản ngục lựa chọn sống tri kỷ với Huấn Cao thì nhân vật được khắc họa như một con người cao quý và tư tưởng của tác phẩm sẽ theo hướng ngợi ca tôn vinh sự bất diệt sự chiến thắng của cái đẹp ở đây tình huống truyện đã ngầm chứa tư tưởng của tác phẩm. Tính chất oái ăm gặp gỡ Huấn Cao - Quản ngục là sự dối mặt ngang trái của hai loại tù nhân hai kiểu nhà tù. Huấn Cao bị cầm tù trong nhà tù hữu hình bị cầm tù về nhân thân nhưng tự do về tâm hồn. Quản ngục là Cai ngục nhưng bị tù chung thân trong cái nhà tù vô hình ở chính môi trường sống và làm việc của bản thân. Bị cầm tù về nhân cách Bề ngoài Quản ngục tỏ ra là người rất tận tụy với chức phận có khi người đọc cảm nhận được nhân vật này về hùa về cái xấu với cái đẹp. Nhưng thực chất đó là con người luôn hướng tới cái tốt đẹp, mà Nguyễn Tuân nói “nó là thanh âm trong trẻo…” Nếu như không có cuộc gặp gỡ này thì Quản ngục sẽ bị cầm tù suốt đời. Quản ngục được tự do về nhân thân nhưng không cứu được Huấn Cao thậm chí trước khi Huấn Cao bị đưa ra pháp trường thì chính Huấn Cao lại cứu Quản ngục thoát khỏi nhà ấy. Đồng thời với việc trao cho Quản ngục con chữ Huấn Cao khuyên quản ngục thay chỗ ở, đổi nghề. Quản ngục cung kính nhận lấy con chữ, cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” => Đến đây người ra quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Tuân hiện ra rõ rệt cái đẹp có khả năng cảm hóa con người giúp con người ta hướng đến cái thiện làm điều tốt đây là tư tưởng tiến bộ đầy chất nhân văn Đọc tiếp: Tác phẩm Chữ người tử tù (phần 3)