Sao chổi và cao băng Sao chổi: - Sao chổi Phần lớn các sao chổi chuyển động quanh Mặt Trời theo quỹ đạo hình ê-líp dẹt. Sao chổi gồm hai bộ phận: đầu và đuôi sao chổi. Chúng có khối lượng nhỏ nhưng thể tích rất lớn. Đầu sao chổi là một lõi rắn (nhân sao chổi) do các khối thiên thạch gắn kết với nhau bởi hỗn hợp tuyết và bụi. Nhân có dạng thon dài, bên ngoài được bao bọc bởi một lớp vỏ khí dày nhưng rất loãng. Khi sao chổi di chuyển đến gần Mặt Trời dưới tác động của nhiệt độ cao, nhân sao chổi phát ra các luồng khí và bụi, tạo nên một cái đuôi hình cái chổi, kéo dài về phía đối diện với Mặt Trời. Chiều dài của đuôi sao chổi có khi kéo dài tới vài trăm triệu km. Sao chổi Halley là một sao chổi nổi tiếng với chu kì cứ cách 76 năm nó lại bay tới cạnh Mặt Trời một lần. Nó có đường kính vùng sợi chổi dài tới 570.000km. Sao chổi này do nhà thiên văn học người Anh, Halley, sống ở thế kỉ XVII đã dựa vào định luật vạn vật hấp dẫn tìm ra quỹ đạo bay và chu kì của nó vào năm 1682. - - Sao băng: Sao băng là một loại vật chất Vũ Trụ bay vào tầng khí quyển của Trái Đất bị cọ sát và phát sáng. Những vật chất này di chuyển trong Vũ Trụ với tốc độ và quỹ đạo riêng. Bản thân chúng không bị phát sáng. Đôi khi chúng bay về phía Trái Đất với tốc độ rất nhanh từ 10km tới 70 – 80km/s. Nhưng khi bay vào tầng khí quyển của Trái Đất chúng cọ sát với các phần tử của khí quyển khiến không khí bị đốt nóng tới mấy nghìn độ thậm chí là mấy vạn độ, bản thân những vật chất Vũ Trụ cũng bị đốt cháy và phát sáng. Nhưng chúng không cháy hết ngay mà cháy dần theo quá trình chuyển động của chúng, tạo thành các vệt sáng hình vòng cung. Có trường hợp những vật chất Vũ Trụ quá lớn không kịp chảy hết và rơi xuống Trái Đất, người ta gọi chúng là các thiên thạch. (Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cương, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)
Mô hình Vũ Trụ địa tâm và mô hình Vũ Trụ nhật tâm. - Mô hình Vũ Trụ địa tâm: Mô hình này do nhà toán học, thiên văn học người Hy Lạp, P-tô-lê-mê (100 – 170 sau CN) đưa ra để giải thích chuyển động của các thiên thể. P-tô-lê-mê cho rằng Trái Đất là trung tâm của Vũ Trụ. Vũ Trụ bị giới hạn bởi một mặt cầu chứa các ngôi sao cố định, mặt cầu quay xung quanh một trục qua tâm Trái Đất. Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh khác quay xung quanh Trái Đất. Mô hình địa tâm không thể hiện đúng bản chất của Vũ Trụ nhưng lại phù hợp với hiện tượng quay nhìn thấy của bầu trời (nhật động – sự chuyển động không có thật của Mặt Trời trong một ngày từ đông sang tây, mà thật ra là do Trái Đất tự quay quanh trục từ tây sang đông) và phù hợp với giáo lý nhà thờ, nên thuyết này đã chi phối nền thiên văn học châu Âu suốt 14 thế kỉ, mãi tới thời kì Phục hưng mới bị đánh đổ bởi thuyết nhật tâm của Cô-péc-níc. - Mô hình Vũ Trụ nhật tâm: Vào cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, uy tín của nhà thờ ở châu Âu giảm sút. Sự phát triển của khoa học đòi hỏi con người phải biết vị trí của mình trong Vũ Trụ. Mô hình Vũ Trụ nhật tâm của Côpécníc (1473 – 1543) đã ra đời vào năm 1543, trong đó ông khẳng định: Mặt Trời nằm yên ở trung tâm Vũ Trụ; các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời theo quỹ đạo tròn; Trái Đất quay quanh trục trong khi quay quanh Mặt Trời. Mô hình của Cô-péc-níc đã mô tả đúng về hệ Mặt Trời và dựa vào đó người ta có thể dễ dàng giải thích các đặc điểm chuyển động nhìn thấy của các thiên thể, như hiện tượng nhật động... Mô hình Vũ Trụ nhật tâm đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức của con người về Vũ Trụ và nó được coi là cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ nhất của loài người. (Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cương, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)
Căn cứ vào bảng số liệu sau (trang 26 SGK – nâng cao), nhận xét những đặc điểm của hai nhóm hành tinh: nhóm hành tinh kiểu Mộc tinh và nhóm hành tinh kiểu Trái Đất Trả lời * Nhóm hành tinh kiểu Trái Đất: - Bao gồm bốn hành tinh: Thủy tinh, Kim tinh, Trái Đất, Hỏa tinh. Khoảng cách trung bình đến Mặt Trời từ 59,2 – 214 triệu km. - Có bán kính Xích đạo và khối lượng nhỏ so với Trái Đất. - Thời gian tự quay quanh trục dài (từ 23h56 – 58 ngày), nhưng thời gian chuyển động một vòng quanh Mặt Trời ngắn (từ 88 ngày – 686,98 ngày). - Số vệ tinh ít: chỉ có ba vệ tinh, trong đó Trái Đất có một và Hỏa tinh có hai, còn Thủy tỉnh và Kim tinh không có vệ tinh nào. * Nhóm hành tinh kiểu Mộc tinh: - Bao gồm bốn hành tinh: Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên Vương tinh, Hải Vương tinh. Khoảng cách trung bình đến Mặt Trời từ 776 triệu km – 4.484 triệu km. - Có bán kính Xích đạo và khối lượng rất lớn, gấp nhiều lần so với Trái Đất. - Thời gian tự quay quanh trục ngắn (chỉ từ 8h50' – 17h15), nhưng thời gian chuyển động một vòng quanh Mặt Trời rất dài (từ 4.332,59 ngày – 60.188 ngày). - Số vệ tinh nhiều: có tất cả 56 vệ tinh, trong đó Thổ tinh có nhiều vệ tinh nhất (19 vệ tinh).
Hãy tóm tắt học thuyết Big Bang về sự hình thành Vũ Trụ. - Theo học thuyết Bic Bang, Vũ Trụ được hình thành cách đây 15 tỷ năm sau một “vụ nổ lớn” của một “nguyên tử nguyên thủy”. Đó là nguyên tử mà vật chất bị nén ép trong một không gian nhỏ bé với mật độ rất đậm đặc và nhiệt độ cực kì cao. – Từ trạng thái không ổn định đó, vụ nổ xảy ra và làm tung ra các đám bụi khí khổng lồ trong không gian. – Rất lâu sau, dưới tác động của lực hấp dẫn, các đám bụi khí tụ tập lại và dần dần hình thành các ngôi sao, thiên hà của Vũ Trụ.
Các tập bản đồ (Atlat) đầu tiên trên thế giới Cuốn sách đầu tiên mang tên “Atlat” được phát hành năm 1595. Trước khi phát minh ra máy in, tất cả những tấm bản đồ đều được làm bằng tay, vì vậy rất đắt. Năm 1477, một bản in bằng tiếng Latinh của cuốn Geographic của P-tô-lê-mê đã được phát hành tại Bologne, sau đó rất nhiều cuốn khác cũng được in. Năm 1570, một người Flamand tên là Abraham Ortelius đã cho ra mắt cuốn “Theatre du monde” (cảnh quan thế giới), đó mới chính là cuốn Atlat thực sự đầu tiên. Tập sách của ông được phát hành theo một trình tự logic: bản đồ thế giới, bản đồ châu lục, sau đó là bản đồ các nước. Cũng thời kì này, một nhà lập bản đồ khác người Flamand tên là Gerard Mercato cũng đã soạn một tập sách tương tự và việc phát hành nó trải qua giai đoạn. Tác phẩm trọn vẹn cuối cùng đã ra mắt độc giả-vào năm 1595, một năm sau khi tác giả mất. Cuốn sách này có nhan đề là Atlat (tức là suy ngẫm Vũ Trụ nhiều học trên phương diện thế giới và hình dáng cấu trúc của nó. Trên tập bản đồ này có in hình vị thần At-lát vác quả Địa Cầu trên vai (trong thần thoại Hy Lạp, Atlat là con vị thần Titang Đapê và là anh em ruột với thần Prômêtê, người đã đem ngọn lửa cho loài người. Do thần Atlát chống lại Dớt, vị thần chúa tể của thế giới, nên đã bị trừng phạt phải giơ vai gánh đỡ cả bầu trời). Tất cả các tập bản đồ in sau này, tuy bìa không vẽ tượng thần Atlát nữa, nhưng theo thói quen, người ta vẫn gọi chung là Atlát (kể cả tập tranh ảnh của một số môn khoa học khác, như Sinh học...). (Tổng hợp từ Trái Đất này là của chúng mình – Lê Huy Hòa, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 và Sổ tay thuật ngữ địa lí – Nguyễn Dược, Nguyễn Trung Hải, NXB Giáo dục, 2006)
Thành quả của hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã được ứng dụng trong sản xuất và đời sống như thế nào? Thành quả của GIS được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống con người: - Các nhà khoa học về môi trường dùng GIS để theo dõi và quản lý trạng thái môi trường. - Các nhà quy hoạch dùng GIS để đưa ra phương án quy hoạch hợp lý, điều chỉnh phương án quy hoạch nhanh chóng. - Các nhà kinh doanh dùng GIS để quản lí hệ thống sản xuấ, quản lí khách hàng, dịch vụ của mình. - Trong giáo dục GIS được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu và học tập, nhất là trong lĩnh vực địa lý.
Khả năng phản ánh của kí hiệu bản đồ Kí hiệu bản đồ gồm có: kí hiệu điểm (biểu hiện các đối tượng phân bố theo điểm; loại kí hiệu này thường có dạng hình học, dạng chữ hoặc dạng tượng hình), kí hiệu tuyến (thể hiện các đối tượng dạng tuyến như: địa giới, giao thông, sông ngòi, đường dây tải điện...) và kí hiệu diện tích (thể hiện các đối tượng phân bố theo diện như: đất trồng, rừng, đồng cỏ chăn nuôi...). Trong đó các dạng kí hiệu được sử dụng rất đa dạng với nhiều đặc tính khác nhau nhằm phản ánh những đặc tính chất lượng và số lượng của hiện tượng. Các đặc tính đó là: dạng kí hiệu, kích thước kí hiệu, cấu trúc kí hiệu, độ sáng, màu sắc kí hiệu… Thông qua một ký hiệu, ta nhận biết được vị trí của hiện tượng, loại hiện tượng, quy mô của nó: kích thước của kí hiệu cho ta biết đặc tính số lượng của hiện tượng. Có thể biết được cấp phân vị của hiện tượng qua cấu trúc bên trong của kí hiệu, theo độ sáng hay màu sắc. Có thể vẽ thêm một nét phụ theo dạng chung (một nét, nét đứt quãng, hai nét kề nhau hay thay đổi độ đậm của nét vẽ) ta có thể biểu hiện cả tính thời gian của hiện tượng (xảy ra trên 100 năm, 50 năm trở lại hoặc đang tồn tại, đang hủy diệt hoặc đã mất hẳn...).
Phép chiếu bản đồ, lưới bản đồ và sai số trên bản đồ. - Muốn vẽ bản đồ địa lí trước hết phải có lưới địa lí (kinh tuyến, vĩ tuyến) trên bản vẽ, sau đó dựa vào dạng lưới để chuyển các nội dung cần thiết. Phương pháp chiếu hình kinh tuyến và vĩ tuyến lên mặt phẳng gọi là phép chiếu bản đồ. Nhiệm vụ của phép chiếu bản đồ là tìm ra mối quan hệ giữa mặt chiếu quả Địa Cầu với mặt biểu hiện là mặt phẳng, tức là giữa tọa độ địa lí của quả Địa Cầu và tọa độ vuông góc của mặt phẳng. Biểu hiện của lưới kinh tuyến và vĩ tuyến đó trên bản đồ theo một phép chiếu nào đó được gọi là lưới chiếu bản đồ hay lưới bản đồ. Lưới bản đồ là những đường tọa độ cho phép xác định vị trí của một điểm bất kì trên bản đồ. - Trái Đất có dạng hình cầu, không thể bổ dọc (hay bổ ngang) mặt cầu rồi trải thành mặt phẳng mà không có chỗ hở. Nếu bổ dọc theo kinh tuyến thành từng múi một rồi lấy đường Xích đạo làm trục ngang ghép các múi lại với nhau theo trình tự trên mặt phẳng thì từ Xích đạo về hai cực ta thấy độ hở cứ lớn dần. Còn nếu bổ theo đại vĩ tuyến, rồi dọc theo một kinh tuyến nào đó làm trục đứng, ta ghép các đại đó lên mặt phẳng cũng theo trình tự kề nhau, ta thấy rằng từ kinh tuyến về hai phía độ hở cũng lớn dần dọc theo các vĩ tuyến. Việc biểu hiện các đối tượng và hiện tượng địa lí, kể cả các kinh, vĩ tuyến trên bản đồ đòi hỏi phải liên tục, không có chỗ hở, không có chỗ chồng lên nhau. Muốn đạt điều đó rõ ràng là phải kéo căng các múi hoặc đai và ghép liền nhau lại. Chính vì vậy ở những chỗ kéo căng ra đều có sai số trong biểu hiện. (Nguồn: Bản đồ học – Ngô Đạt Tam, NXB Giáo dục, 1986)
Mặc dù khổ cực, khó khăn bởi bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ “làng bị giặc đốt, cháy tàn cháy lụi” nhưng người bà vẫn vững lòng, kiên cường và dặn dò cháu, lời dặn của bà giản dị, mộc mạc thể hiện tấm lòng cao cả, đầy sự hi sinh: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” - Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con yên tâm công tác hơn thế bà là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến và góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến cho cả dân tộc. Tình cảm của bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. - Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở đoạn trên, tác giả đã chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa luôn ủ sẵn và không bao giờ tắt: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenn Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… - Bếp lửa trong thơ Bằng Việt không chỉ được nhóm bằng củi, bằng rơm mà còn được nhóm bằng lòng yêu thương “ấp ủ” sức sống mãnh liệt và niềm tin dai dẳng, bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm mà thời thơ ấu của cháu quấn quýt bên bà, ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương mà bà dành cho cháu. - Cùng với hình ảnh “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “sớm - chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống kiên định của bà. Tác giả sử dụng điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động và tự hào. =>Từ hình ảnh bếp lửa đến ngọn lửa với ý nghĩa khái quát, bà không chỉ là người nhó m lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa- ngọn lửa của sự sống, niềm hy vọng cho thế hệ mai sau. * Suy nghĩ của người cháu về người bà và bếpp lửa - Tần tảo, chịu thương, chịu khó, bà hi sinh cả một đời cho cháu cho con: Lận đậnn đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm. - Từ bếp lửa quen thuộc, bình dị người cháu nhận ra bao điều kì diệu và thiêng liêng từ ngọn lửa từ bàn tay bà với bao yêu thương trìu mến “ấp iu nồng đượm” đã nuôi lớn cháu đến ngày hôm nay. - Các từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” và từ láy tượng hình “lận đận” cùng hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã cho thấy sự gian nan, vất vả, đức hi sinh và sự chịu thương chịu khó của bà. Tình thương yêu mà tác giả dành cho bà giản dị, chân thành đến từng câu chữ được thật sâu sắc và trìu mến biết bao! - Suốt đời bà luôn chăm sóc, lo lắng cho con cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần để cháu lớn lên. - Điệp từ nhóm được nhắc đi nhắc lại đã gợi nhiều liên tưởng, bà nhóm lên tình yêu thương, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm và nhóm lên những hi vọng, sự ấm áp cho cuộc đời thơ bé của tác giả. Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuii Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi, kì lạ v à thiêng liêng – bếp lửa! Bà đã làm công việc khởi đầu của một ngày: nhóm bếp lửa mỗi sớm mai và bà nhóm lửa cho hôm qua, hôm nay và cả ngày mai; cho con cho cháu và cho tất cả mọi người. Bếp lửa vì thế mà trở nên thiêng liêng, lạ kì! * Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi và da diết - Đứa cháu năm xưa được dưỡng nuôi từ ngọn lửa tảo tần, từ tình thương khoai sắn ngọt bùi của bà nay đã lớn khôn, trưởng thành, chắp cánh bay xa tới những khung trời rộng lớn; Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chư a? Dù ở đâu, làm gì, bây giờ và mãi mãi mai sau cháu không thể quên bà và hình ảnh bếp lửa. Ngọn lửa và bà đã sưởi cháu trong cái buốt giá của nước Nga khi cháu xa nhà. “Khói trăm tàu, lửa trăm nhà” sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về quê hương, tổ quốc và quá khứ dù đó là những ngày vất vả, gian lao. Kết bài: Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh người bà bên bếp lửa hồng với dáng bà lặng lẽ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Hình ảnh bếp lửa- ngọn lửa trong bà là biểu tượng cho gia đình, quê hương và đất nước, hình ảnh luôn động viên, tiếp sức cho con cháu trên mọi chặng đường cho dù đó là con đường gian khó nhất. Qua đây, Bằng Việt không chỉ khơi dậy kỉ niệm tuổi thơ cho bất cứ ai được sống trong vòng tay của bà mà còn gửi gắm thông điệp về truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ mai sau. Đọc tiếp: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa phần 1
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ, từ đó nên cảm nhận của em về tình bà cháu và tình quê hương, đất nước Mở bài. Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm Bếp lửa. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Bếp lửa là tác phẩm nổi tiếng của đời thơ Bằng Việt, một trong những bài thơ đi cùng năm tháng với nhiều thế hệ người Việt đặc biệt những ai có thời thơ ấu bên bà như tác giả. Bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm về người bà, về tuổi thơ và tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Thân bài. Cần đạt được các nội dung sau: * Mạch cảm xúc và hình ảnh bếp lửa Bài thơ được sáng tác năm 1963 khi Bằng Việt đang du học ở Liên Xô. Bài thơ là lời của tác giả nhớ về bà với những năm tháng thơ ấu đầy kỉ niệm bên bà. Với mạch cảm xúc rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Hình ảnh bà bên bếp lửa với bao gian khó, vất vả nhưng bà đã dành cho cháu tất cả tình yêu thương trìu mến. Nay cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý, lớn lao của bà. Cuối cùng cháu muốn gửi về bà, về quê hương, đất nước lòng trân trọng, kính yêu và biết ơn sâu sắc. *Hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh bà Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. - Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần đã trở thành điệp khúc mở đầu cho bài thơ. Với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” là dấu ấn không bao giờ phai trong tâm trí tác giả. Hình ảnh bếp lửa ấm áp giữa cái lành lạnh của sương sớm, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm” của bà kính yêu. Hơi ấm của ngọn lửa “chờn vờn” quyện hòa với hơi ấm của tình bà khiến đứa cháu xa nhà không thể nguôi ngoai nỗi niềm nhớ bà và xúc động mỗi khi hình ảnh bếp lửa hiện về trong tâm tưởng: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Sự nhớ thương về bà được người cháu bộc lộ trực tiếp và giản dị, đằng sau sự giản dị ấy là tất cả tấm lòng một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn lam lũ của bà. - Từ hình ảnh bếp lửa và người bà tảo tần, lam lũ bỗng làm sống lại cả một thời thơ ấu trong lòng Bằng Việt: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn cay. - Cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến hơn hai triệu người dân Việt Nam phải chết vì chính sách cai trị man rợ, tàn độc của bọn giặc Nhật, Pháp. (đói mòn đói mỏi) Tuổi thơ của tác giả đã nhuốm bóng đen ghê rợn của nạn đói mà có lẽ cả cuộc đời tác giả không bao giờ quên được. Cảnh nghèo đói đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đầy đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” - Hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khốn khổ, thiếu thốn của gia đình tác giả trong bối cảnh 1945. -Ấn tượng nhất đối với cháu trong những ngày tháng đói khổ là mùi khói bếp của bà - mùi khói hun nhèm mắt cháu, mà “nghĩ lại sống mũi vẫn còn cay”. Cái cay vì khói bếp khi cháu bốn tuổi là cái cay bởi xúc động khi cháu nhớ về người bà kính yêu. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ cho thấy, mùi khói bếp của bà đã làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu. - Nhớ về kỉ niệm là nhớ về bếp lửa “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc, nuôi dưỡng trong vòng tay ấm áp của bà, tám năm ấy khó khăn, vất vả nhưng cháu luôn nhận được sự chở che của bà. Nhớ nhất là hình ảnh bà bên bếp lửa mỗi sớm mỗi chiều: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Một mình bà ở nhà bao gian khó lo toan, bà vừa đảm nhiệm làm cha, vừa làm mẹ vừa làm bà nhưng bà vẫn vững lòng và làm trọn những vai đó cho người cháu bé nhỏ của mình: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Bên bếp lửa bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, truyền thống hiếu học và những đau thương mất mát của toàn dân tộc. - Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là nơi sưởi ấm trái tim người cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú khi gọi hè: Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xaa? Tiếng chim tu hú trong những câu thơ của Bằng Việt là tiếng chim quen thuộc gợi nhớ về người bà, những năm tháng mà tác giả được sống trong sự yêu thương của bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người cháu trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong về tuổi thơ. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? Câu hỏi không có câu trả lời đã tạo nên sự xót xa, vắng vẻ, côi cút khi cháu nghĩ về người bà kính yêu của mình. => Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu thương nhớ về những hoài niệm ấm áp mà bà đã dành cho tác giả. Đọc tiếp: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa phần 2
Ở khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã tô điểm thêm bức tranh thiên nhiên cùng với hình ảnh chân thật nhưng đầy bất ngờ, độc đáo: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” với sự phối hợp màu sắc hài hòa, uyển chuyển như “đen hồng, vàng chóe” đã tạo nên một bức tranh giàu có của biển khơi. Mỗi loại cá có kiểu dáng, màu sắc khác nhau làm nên sự đa dạng và giàu đẹp của biển cả quê hương. Cái đuôi em quẫy dưới ánh trăng đã làm cảnh biển thêm sống động và rực rỡ lên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống mà không mất đi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, tác giả gọi cá bằng em, một cách gọi trìu mến, cá không còn là đối tượng đánh bắt mà trở nên thân gũi với ngư dân. Nhìn bầy cá bơi lội với những sắc màu phong phú, đa dạng nhà thơ đã lắng nghe tiếng sóng rì rầm với ánh mắt nhìn về xa. Câu thơ tiếp theo huyền ảo, lung linh: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” như đưa người đọc vào thế giới thần tiên trong truyện cổ tích. Bằng nghệ thuật ẩn dụ và nhân hóa tác giả đã biến biển cả bao la như một thực thể sống, tiếng sóng vỗ rì rầm được ví như nhịp thở trong đêm của biển. “Đêm thở, sao lùa” là hình ảnh độc đáo, sáng tạo và mới lạ trong nghệ thuật của Huy Cận. Có thể thể nói, tác giả phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết lên những vần thơ tuyệt bút và thơ mộng đến như vậy. Với bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng sáng tạo, Huy Cận đã tạo nên những hình ảnh đẹp về vũ trụ bao la khiến công việc lao động nặng nhọc của người dân chài trở thành bài ca đầy niềm vui và sự tự hào. Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Hành động “gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá nhưng cái hay ở đây là trăng được tác giả nhân hóa như con người tham gia lao động và hòa cùng sóng biển. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Hơn thế tác giả đã so sánh ngang bằng biển như lòng mẹ dể nói lên sự bao dung, độ lượng và sự cần thiết, quan trọng của biển cả đối với người dân chài, đồng thời thể hiện lòng tự hào, lời cảm ơn đối với quê hương nơi đã nuôi ta lớn. Một đêm trôi qua với tinh thần lao động hào hứng, hăng say thì trên bầu trời sao đã thưa và mờ dần chỉ còn lại cảnh kéo lưới là vẫn đông vui, tấp nập. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” Đây là chi tiết cụ thể về hình ảnh con người lao động hiện lên trong sớm mai thật đẹp, đó là hình ảnh khỏe mạnh, tươi tắn mà người dân làm trong lúc gặt hái được thành quả. “Kéo xoăn tay” là hành động mạnh, dồn hết sức lực để kéo cá từ biển lên với những chùm cá trĩu nặng. Thành quả mà ngư dân thu được là “vẩy bạc, đuôi vàng” trong sớm mai là hình ảnh vừa thực vừa mang nghĩa ẩn dụ, những con cá được ẩn dụ quí giá như vàng, như bạc mà biển cả bao la dành tặng cho người dân. Và rồi những khoang thuyền đầy ắp cá cũng là lúc bình minh vừa chớm nắng hồng, ánh nắng làm cho cảnh biển thêm đẹp và nhiều khởi sắc cho một ngày tươi mới, tràn đầy sức sống. Trình tự theo thời gian đã được Huy Cận miêu tả rất tài tình và nhiều đặc sắc, ở khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về với khí thế vui mừng và hoành tráng: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Ở khổ đầu là câu hát căng buồm cùng gió khơi để đưa thuyền ra biển lớn, còn khổ 5 là tiếng hát gọi cá vào thì ở khổ này vẫn là tiếng hát nhưng đây là tiếng hát trở về với sự bội thu, thắng lợi và sức mạnh bởi họ đã thu được những khoang cá đầy ắp thuyền mà biển cả đã dành tặng. Đoàn thuyền trở về đất liền với tư thế nhanh, gấp gáp “chạy đua cùng mặt trời” tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa và nói quá để diễn tả cuộc đua giữa con người và thiên nhiên, cuộc đua không cân sức nhưng con người đã chiến thắng và đáp chân xuống đất liền khi mặt trời vừa nhô khỏi biển. Một màu của bình minh, màu của sức sống đã tạo nên một bức tranh biển kì vĩ, bao la nhưng chứa đựng nhiều nét thơ mộng. Ở câu thơ cuối “Mắt cá huy hoàng” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cuộc sống tươi mới, nhưng ngày tốt đẹp đang đón chờ ngư dân và con người trong thời kì đất nước chuyển mình. Đó là một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình yên mà tác giả muốn gửi gắm trong câu thơ của mình. Kết bài: Qua thơ Huy Cận chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên biển Quảng Ninh cùng ngư dân làng chài. Cảnh đánh cá được miêu tả với cảm hứng lãng mạn cùng sự hăng say và niềm tự hào đã cho chúng ta những bài học về sự hi sinh, đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân. Thật vậy, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay đã để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng độc giả về con người và vũ trụ bao la rộng lớn. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận phần 1
Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận Mở bài: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào của ông và mang những nét đẹp riêng. Sau cách mạng thơ của Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống và mang hơi thở của sự phát triển xã hội chủ nghĩa. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông sáng tác ở Quảng Ninh năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ là một bức tranh đẹp đẽ là bản hùng ca ca ngợi người dân lao động khi đất nước chuyển mình. Thân bài: Mở đầu bài thơ là khung cảnh vô cùng huy hoàng, tráng lệ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống; Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hai câu đầu tác giả khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp và tráng lệ của thiên nhiên. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt mà nó như hòn lửa rực đỏ khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả, vũ trụ bao la như nồng ấm lên và như một ngôi nhà khổng lồ của người dân đánh cá. Biển lúc này được ví như con người biết tắt lửa, cài then, sập cửa. Tác giả đã sử dụng đồng thời ba biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để tô lên vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ và đầy sức sống của biển cả mênh mông chứ không đìu hiu, ảm đạm như lối thơ cổ. Màn đêm như tấm cửa khổng lồ đóng lại để chuẩn bị nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nhưng ở đây thì không, đối với người dân chài lại là lúc họ ra khơi đánh cá, cất tiếng hát và căng buồm cùng gió, thiên nhiên vũ trụ là phông nền cho con người xuất hiện. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đoàn thuyền lại ra khơi theo tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc và hoạt động hàng ngày, thường xuyên của những ngư dân vùng biển. Mỗi chuyến đi là niềm vui sự hào hứng và tràn đầy hy vọng. Họ vui vì ra khơi mang theo câu hát, tiếng hát khỏe khoắn, bay cao, bay xa hòa cùng gió trời, gió biển, thổi căng cánh buồm. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng của biện pháp ẩn dụ diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế của người dân vùng biển khi ra khơi, chinh phục biển cả. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng hát phấn khởi làm nổi bật tâm hồn của con người dân chài, tiếng hát cất lên cầu mong cho những điều may mắn, thuận lợi: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng, Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Như bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, mỗi khi đi đánh cá là người dân lại mong ước trời yên, biển lặng để có một ngày bội thu thì trong tác phẩm này, tác giả cũng nói lên niềm mong ước ấy để thể hiện tấm lòng hồn hậu của ngư dân chất phác, thật thà nơi vùng biển. Giọng thơ ngọt ngào, trong trẻo ngân dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về người dân lao động của Huy Cận. Khác với hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng là vũ trụ bao la, rợn ngợp trong “nỗi sầu trăm ngả” thì nay lại hết sức gần gũi, thơ mộng. Tác giả đã nhìn đoàn thuyền như một bộ phận của vũ trụ bao la nơi biển cả: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng” Con thuyền vốn nhỏ bé nhưng qua lăng kính của nhà thơ thì thuyền trở nên lớn lao và kì vĩ. Hình ảnh con thuyền được đặt song song và hài hòa với thiên nhiên như gió, trăng, trời, biển. Hơn thế, con thuyền lại lái gió với buồm trăng đang lướt đi trên biển và như bay trên tầng không gian, trên thì có mây cao dưới thì có “biển bằng” mênh mông sông nước. Con thuyền đó đang lướt sóng giữa không gian bao la vô tận của vũ trụ để chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Thật ra, đây là cách nói đảo ngược của tác giả, thực tế là gió lái thuyền và làm cho cánh buồm căng gió còn ánh trăng chiếu vào cánh buồm nhìn xa xa như là “buồm trăng”. Những hình đó mà nhà thơ tạo nên qua góc nhìn của mình đã cho người đọc thấy một hình ảnh về con thuyền đẹp đẽ - vẻ đẹp khỏe khoắn, đầy sức sống là hiện thân cho con người lao động vùng biển Quảng Ninh. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Giữa bát ngát trăng sao, trời biển con người không hề nhỏ bé, ngược lại họ hiện lên là những con người ngang tầm với thiên nhiên với tư thế của người chiến thắng, họ ra dặm xa dò bụng biển để bủa lưới vây giăng. Họ làm việc bằng sự hăng say và lòng dũng cảm cùng một tâm hồn phơi phới trước sóng nước mênh mông. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái thư giãn, nghỉ ngơi “mặt trời xuống biển”, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa” thì ở đây, người lao động đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Những hình ảnh đó tạo nên một bức tranh giữa con người và thiên nhiên tươi tuyệt đẹp và đầy sức sống. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận phần 2
Khác với khung cảnh những đoàn bộ binh vượt Trường Sơn bằng "đôi hài vạn dặm" tạo nên vẻ đẹp: “Trường Sơn mây núi lô nhô Quân đi sóng lợ nhấp nhô bụii hồng” (Tố Hữu) Phạm Tiến Duật đã ghi lại những khoảnh khắc thật cảm động, đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe không kính trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn: “Những chiếc xe từ trong bom rơii Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.” Những chiến sĩ lái xe gắn bó máu thịt với từng tuyến đường thì hành trình ra trận của họ luôn phải vượt qua bao đèo dốc với những mưa bom, bão đạn và sự khốc liệt trong chiến tranh. Sau những gian khổ, mất mát hi sinh họ cùng nhau “họp thành tiểu đội” xe không kính, tiểu đội ấm áp thân tình. Những giây phút nghỉ ngơi ở chiến trường thật sự là những khoảnh khắc hiếm hoi, yên bình nhất. Trong khổ thơ đẹp nhất và ấn tượng nhất là hình ảnh tả thực nhưng rất lãng mạn: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay rất vội thay cho lời chào gặp mặt, đã tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt qua mọi hiểm nguy, gian khổ. Cái bắt tay ấy thắm tình đồng đội, đồng chí, không chỉ truyền cho nhau sức mạnh mà còn truyền cho nhau niềm tin, nghị lực, lòng quyết tâm để các anh vững tay lái trên những ngả đường gập ghềnh, hiểm trở. Nơi chiến trường ác liệt ấy họ đã làm thành một gia đình, tạm nghỉ bên nhau và quây quần trong những bữa cơm hội ngộ để rồi: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờii Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.” Qua những lời thơ giản dị trên, tác giả đã phần nào tái hiện được cuộc sống sinh hoạt của những người lính lái xe giữa chiến trường ác liệt, đồng thời còn gợi ra một định nghĩa đặc biệt về “gia đình”. Những người lính gặp nhau chỉ một lần trong đời, ăn chung với nhau một bữa cơm đã coi nhau như những người trong một gia đình. Tình cảm của họ sâu nặng, thiêng liêng được xích lại từ nhiều cái chung: chung “bát đũa”, chung “bếp lửa”, chung “con đường” chung cả ý chí chiến đấu. Câu thơ đẹp về cách nghĩ, cách nhìn không khác gì tình đồng chí của những người lính trong thời kì chống Pháp qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đêm rét chung chăn thành đôii tri kỉ”. Và một lần nữa Phạm Tiến Duật lại nói đến khó khăn: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. Mặc cho gian khổ, chông chênh là thế nhưng họ vẫn: “lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” khẳng định niềm lạc quan, lòng quyết tâm, niềm hi vọng, luôn hướng về phía trước vì miền Nam ruột thịt, vì sự hòa bình của những người lính lái xe. Chính tình đồng chí, đồng đội đã nâng bước chân các anh đi tiếp những chặng đường gian nan, thử thách để có những ngày thắng lợi, bình yên. Vẻ đẹp của người chiến sĩ được tác giả khép lại bằng khổ thơ cuối cùng với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước. “Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trướ c Chỉ cần trong xe có một trái tim” Ở khổ này, điệp từ không lại được nhắc đến kết hợp phép liệt kê “không kính”, “không đèn”, “không mui”, “có xước” ... để khẳng định bom đạn của Mĩ đã làm biến dạng, làm méo mó làm trơ trụi những chiếc xe ra trận. Mặc dù vậy, chiến tranh có ác liệt đến mấy thì “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Vì chỉ cần trong xe “có một trái ti m”. Hình ảnh “một trái tim” khép lại bài thơ là nhãn tự, là biểu tượng về người lính lái xe qua phép hoánn dụ, đồng thời cũng là ẩn dụ chỉ ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt, lòng yêu nước nồng nàn. Đó chính là dũng khí mà Tố Hữu đã viết: “Thiếu tất cả ta rất giàu dũng khíi Sống chẳng cúi đầu chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ ta lại hoá anh hùn g Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo” Sức nhân nghĩa sẽ giúp ta chiến thắng mọi cường bạo của giặc Pháp trước kia và quân Mĩ ngày nay. “Trái tim” là ngọn đèn chỉ dẫn cho ta hướng tới nhân nghĩa, hướng tới tương lai hoà bình, độc lập và tự do. Kết bài: Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc và đầy ắp hiện thực đã làm nổi bật chân dung người lính lái xe Trường Sơn với tinh thần lạc quan thắm tình đồng chí, đồng đội và ý chí quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Những người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những phi công dũng cảm trên mặt đất mang trong mình tình yêu con người, tình yêu quê hương, tổ quốc. Hình ảnh đẹp đẽ ấy làm cho chúng ta thêm tin yêu kính phục thế hệ cha anh đã sống và chiến đấu, đã đổ máu và hi sinh cho độc lập, tự do, hạnh phúc ngày hôm nay.
Theo mạch cảm xúc của bài thơ, hình ảnh người lính lái xe còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn đáng mến, trẻ trung, lãng mạn, biến những khó khăn gian khổ thành sự thú vị trong cuộc sống. Không còn kính, nghĩa là không còn giới hạn với nguy hiểm nhưng cũng chẳng còn khoảng cách với thiên nhiên, để mà: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái” Với phép điệp ngữ quen thuộc qua động từ “nhìn thấy” như tạo một nút nhấn, nhấn mạnh tư thế chủ động mở ra những tầm nhìn bao quát của người lính lái xe. Trên những chiếc xe không kính ấy, người chiến sĩ lái xe phải tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài như đất trời, cỏ cây, chim thú. Xe bon bon với tốc độ nhanh, gió xoa dịu không khí nóng bỏng của chiến trường, gió mang bụi đến, rồi chúng dường như cùng thức, cùng hành quân ra trận với các anh. Và trên con đường ra trận, người lính lái xe được tự do quan sát, thoải mái chiêm ngưỡng vẻ đẹp không gian chiến trường. Họ không chỉ “thấy gió vào xoa mắt đắng” mà còn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Đó vừa là hình ảnh thực gợi tốc độ lao nhanh của đoàn xe trên đường đèo dốc đá núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho con đường của lí tưởng, con đường của lòng yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn. Con đường đó là con đường Cách mạng, con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế hệ trẻ đã bỏ lại thanh xuân để gìn giữ, bảo vệ. Chính lời thơ ấy còn giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, trẻ trung của người lính lái xe qua hình ảnh so sánh độc đáo: “cánh chim”, “sao trời”, “như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh thơ gợi tả thiên nhiên như đồng hành cùng người chiến sĩ lái xe trên mọi nẻo đường ra trận. Có lẽ khoang lái trong xe không kính vốn là nơi nguy hiểm nhất nhưng đã trở thành một vũ trụ tí hon của các anh. Tác giả viết như vậy để gợi được phong thái ung dung, tư thế hiên ngang, sự bình thản của người lính trên con đường đầy khó khăn, hiểm nguy mà các chiến sĩ đang băng qua mỗi ngày. Tất cả điều ấy được tạo bởi ý chí và lý tưởng cao đẹp của họ. Nhờ thế mà tình cảm của những người lính trở nên trong sáng, gắn bó và lãng mạn hơn. Trên con đường ra trận, người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy song họ càng sáng ngời với tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi gian khổ khó khăn để vượt lên tất cả. Điều ấy được thể hiện rõ ở hai câu đầu của khổ 3 và khổ 4: “Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như ngườii già Không có kính ừ, thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” Ở lời thơ trên lặp cấu trúc “không có...ừ thì…” được tác giả sử dụng khá sáng tạo đã phản ánh chân thực những khó khăn, gian khổ mà người lính lái xe phải vượt qua. Vì không có kính nên trong những ngày nắng lửa, bụi Trường Sơn đã vào “xoa mắt đắng”, giờ đây lại “phun tóc trắng như người già”. Rồi mùa mưa đến, mưa Trường Sơn xối xả, không có kính chắn nên mưa “tuôn”, mưa “xối” thẳng vào buồng lái khiến cho các chiến sĩ ướt “như ngoài trời”. Câu thơ với những hình ảnh so sánh “như người già”, “như ngoài trời”, kết hợp các động từ mạnh “phun”, “tuôn”, “xối” cùng lặp cấu trúc câu đã khẳng định rằng những người lính lái xe trên đường ra trận không hề có phương tiện thuận lợi mà chỉ có khó khăn, gian khổ. Đó là chưa kể đến những trận mưa bom bão đạn mà đế quốc Mĩ điên cuồng ném xuống chặn đường xe chạy, những người lính có thể hi sinh bất cứ lúc nào. Như vậy, với hai lời thơ đầu chia đều ở hai khổ 3 và 4 đã phần nào giúp người đọc hiểu được những khó khăn, gian khổ sự hiểm nguy mà người lính lái xe phải trải qua. Hơn thế, chính tác giả Phạm Tiến Duật đã có hơn tám năm gắn bó với tuyến đường Trường Sơn, từng rất nhiều lần ngồi trong khoang lái của chiếc xe không kính. Vì vậy những cảm giác ấn tượng và sự gian khó của người lính lái xe đã được nhà thơ diễn tả một cách ngắn gọn và chân thực nhất. Trước những gian khổ đó nhưng người lính vẫn lạc quan, yêu đời, sôi nổi và trẻ trung: “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi.” Tác giả đưa vào lời thơ ngôn từ tự nhiên, mộc mạc đậm chất khẩu ngữ, tạo nên giọng thơ vừa dí dỏm, vừa ngang tàng đã diễn tả thái độ đón nhận mọi thử thách của người lính lái xe như một lẽ thường tình. Điệp khúc "chưa cần rửa, chưa cần thay" đã thể hiện sự lạc quan và bất chấp khó khăn từ thiên nhiên mà người lính đang trải qua. Điệp khúc ấy diễn tả vẻ đẹp ngang tàng, ý chí hiên ngang, kiên cường, thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy của những chiến sĩ lái xe. Giữa không gian nồng nặc thuốc súng, đạn bom, lửa khói là tiếng “cười ha ha”. Tiếng cười hồn nhiên trong trẻo biết bao. Tiếng cười vút lên như thách thức kẻ thù. Tiếng cười lạc quan, sảng khoái của người lính làm tan biến những âu lo, mệt mỏi trên tuyến đường vốn nhiều lửa đạn. Tiếng cười ấy còn đọng lại trong ta một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ. Như người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu từng nếm trải những cơn sốt "biết từng cơn ớn lạnh" trong kháng chiến chống Pháp nhưng họ vẫn vui tươi, yêu đời và một lòng vì dân tộc Việt Nam. Với hai khổ thơ ba và bốn tác giả đều dùng câu thơ đậm chất văn xuôi với giọng điệu ngang tàng mà thanh thoát đã thể hiện được người lính với tinh thần lạc quan, yêu đời bất chấp hiểm nguy. Chính cách viết giản dị, chân thật này đã tạo ra một phong cách Phạm Tiến Duật nổi bật trong làng thơ kháng chiến chống chống Mĩ. Đọc tiếp: Vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” phần 3
Cảm nhận của em về vẻ đẹp hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật Mở bài: Có những tác phẩm người đọc quên ngay khi gấp trang sách lại nhưng có những tác phẩm theo dòng thời gian cứ lưu giữ mãi trong tâm hồn độc giả, để lại nhiều giá trị sâu sắc cho thế hệ mai sau. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một bài như vậy. Đến với tác phẩm, người đọc thực sự ấn tượng về vẻ đẹp hình ảnh của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn, tiêu biểu cho thế hệ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Thân bài: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được tác giả sáng tác năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Hàng ngàn sinh viên trên cả nước gác bút nghiên lên đường đánh giặc và điểm nóng lúc bấy giờ là con đường Trường Sơn huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. Vượt qua mưa bom bão đạn của kể thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ, khó khăn để ra trận vì mục tiêu giải phóng đất nước. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh, khoảnh khắc tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn, có thể nói hiện thực đã đi thẳng vào các trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn không gò bó về vần đã trở thành bài ca quyết thắng cho tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Ngay từ những dòng thơ mở đầu những chiếc xe không kính đã được tác giả giới thiệu rất đặc biệt. “Không có kính không phải vì xe không có kín h Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.” Với ngôn ngữ thơ giản dị cùng lời nói dí dỏm, tự nhiên và chắc khỏe như tác phong người lính đã để lại nhiều ấn tượng ngay khi đọc. Từ ngữ phủ định “không” được lặp lại ba lần, chuyển sang ý khẳng định: những chiếc xe không kính vốn không phải là một chủng loại riêng, không phải là thiết kế của nhà sản xuất. Mà nó là một sự bất thường, bất thường này được giải thích một cách rất thản nhiên: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Câu thơ là lời lí giải nguyên nhân làm cho những chiếc xe không có kính. Điệp từ “bom”, kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” cho thấy sự ác liệt của chiến trường những năm chống Mĩ. Sự tàn bạo, dã man của đế quốc Mĩ ngày đêm không ngừng trút bom xuống tuyết đường huyết mạch Trường Sơn nhằm cắt đứt tuyến lưu thông duy nhất nối liền Bắc- Nam. Hình ảnh những chiếc xe không kính xuyên suốt bài thơ và còn được hiện lên cụ thể hơn, trần trụi cùng sự hỏng hóc không thể nào tả xiết: “Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước” Vẫn là phép điệp ngữ quen thuộc lặp từ “không có”, kết hợp với phép liệt kê tăng cấp: “không có kính”, “không có mui”, “không có đèn”, “có xước” cho thấy sự hỏng hóc càng tăng theo cấp số nhân, đó là quy luật tất yếu của sự huỷ diệt mà đế quốc Mĩ đã trút xuống Việt Nam. Tuy nhiên dường như càng ác liệt thì những chiếc xe càng dũng cảm, hiên ngang ra trận. Giọng điệu bình thản, lời thơ đậm chất văn xuôi, cái chất thực bề bộn, ngổn ngang của chiến trường đã tự nó là ánh hào quang. Vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng làm cho những chiếc xe không kính trở nên độc đáo trong từng lời thơ Phạm Tiến Duật. Có thể thấy với cái nhìn tinh tế, tâm hồn thơ nhạy cảm, và vốn sống phong phú Phạm Tiến Duật đã chọn lọc được nhiều hình ảnh chân thực nhất để sáng tạo nên hình tượng thơ độc đáo- những chiếc xe không kính băng mình ra mặt trận trên chiến trường đánh Mĩ. Đó là những hình ảnh vốn không hiếm, không lạ, nhưng cái hay cái mới mẻ ở đây là “xe không kính”, có ý nghĩa thực chứ không mang ý nghĩa biểu trưng. Vì thế, đọc thơ Phạm Tiến Duật ta có cảm giác như đang đi thẳng vào giữa cuộc chiến, đến nơi trọng điểm ác liệt nhất, gặp những con người quả cảm nhất. Bài thơ không chỉ hấp dẫn độc giả bằng hình tượng thơ độc đáo mà thông qua hình tượng ấy nhà thơ đã làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa. Trước hết người đọc nể phục tư thế ung dung, bình thản, hiên ngang, điềm tĩnh đến lạ kì của người lính lái xe qua hai câu thơ cuối của khổ một. “Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳngg” Với giọng thơ nhẹ nhàng, kết hợp từ láy tượng hình “ung dung” được đảo lên đầu câu có tác dụng nhấn mạnh, gợi tư thế đàng hoàng, bình thản, chủ động của người lính lái xe trước hoàn cảnh. Ngồi trên ca bin những chiếc xe không kính sẽ là mục tiêu nguy hiểm nhất, sẵn sàng dính bom đạn kẻ thù, vậy mà họ vẫn “ung dung”, nghĩa là không run, không lo, không sợ. Điệp từ “nhìn”, kết hợp phép liệt kê đã miêu tả sự quan sát thật cẩn thận, bình tĩnh của một tay lái làm chủ tuyến đường, làm chủ hoàn cảnh. Người lính lái xe “nhìn đất” để quan sát đường đi đầy hiểm trở gập ghềnh, “nhìn trời” để quan sát máy bay địch, “nhìn thẳng” về phía trước gợi tư thế chủ động thẳng tiến ra chiến trường đầy gian khổ, khó khăn và hi sinh nhưng không hề run sợ mà vững vàng, tự tin. Đọc tiếp: Vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” phần 2
Hãy tóm tắt văn bản (hồi thứ mười bốn) khoảng 14 dòng Được tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung và thân chinh cầm quân dẹp giặc. Vua Quang Trung tự tuyển binh và duyệt binh rồi chia thành hai đạo quân thủy - bộ, ngày 25 tháng chạp tiến quân thần tốc từ Phú Xuân (Huế) ta Thăng Long. Ngày 29 tháng Chạp ra tới Nghệ An, ngày 30 tháng Chạp đến núi Tam Điệp, mở tiệc khao quân hẹn mồng 7 tháng Giêng mở tiệc ăn mừng tại Thăng Long. Ngay đêm đó nghĩa quân tiếp tục hành quân. Rạng sáng mồng 3 Tết bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, giặc thua, Sầm Nghi Dống thắt cổ tự tử. Quân ta tiến vào thành Thăng Long đúng mồng 5 Tết. Quân Thanh hoảng sợ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tôn Si Nghị sợ mất mật tháo chạy lên biên giới. Vua Lên Chiêu Thống cũng tìm đường tháo quân chạy về phương Bắc.
Hãy phân tích chân dung Thúy Kiều và Thúy Vân qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du Chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và dẫn dắt vào bài Thân bài: Phân tích a Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều Trước hết Nguyễn Du giới thiệu chung về lai lịch, thứ tự trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị em qua nghệ thuật ước lệ, cổ điển, trang trọng “Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” - Lai lịch: Họ là hai người con gái trong gia đình họ Vương - Tố nga: Chỉ người con gái đẹp - Thứ tự trong gia đình: Chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân Ở hai câu thơ tiếp theo, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp hai chị em Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười - Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, trong trắng của người thiếu nữ. + “Mai cốt cách” chỉ cốt cách thanh cao như hoa mai + “Tuyết tinh thần” Phong thái, tâm hồn trong trắng như tuyết, tinh khiết như hoa tuyết Cách ngắt nhịp 4/4 và 3/3 ở câu thơ thứ 2 và thứ 3 nhịp nhàng đối xứng làm nổi bật vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tinh thần, cả dung nhan và đức hạnh - Tác giả dùng lời bình để khép lại bốn câu thơ mở đầu + “Mỗi người một vẻ” cho thấy nét đẹp riêng có từ nhan sắc, tân hồn của mỗi người + “Mười phân vẹn mười” một vẻ đẹp không tì vết đến độ toàn diện, hoàn hảo của cả hai chị em. => Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã giới thiệu cho người đọc những nét ấn tượng về hai nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân. Đồng thời bộc lộ được cảm hứng nghệ thuật của tác giả qua bút pháp tài hoa, điêu luyện. b Bốn câu thơ tiếp theo: Gợi tả vè đẹp của Thúy Vân Chỉ vỏn vẹn với bốn câu thơ, Nguyễn Du đã tả một cách đầy đủ, trọn vẹn những đặc điểm và nét nét đẹp của Thúy Vân. “Vân xem trang trọng khác vời” giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân, một vẻ đẹp cao sang, quý phái. Gợi vẻ đẹp ấn tượng của người phụ nữ trong lễ giáo, khuôn khổ của xã hội phong kiến. Tiếp theo với ba câu tiếp bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng, phép ẩn dụ và nhân hóa tác giả đã miêu tả chi tiết trọn vẹn vẻ đẹp của Thúy Vân “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nangg Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” - Hình ảnh ẩn dụ: “Khuôn trăng đầy đặn” đã khắc họa vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp sáng ngời như Mặt trăng “Nét ngài nở nang” gợi tả đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt xinh đẹp, trẻ trung của Vân - Hình ảnh nhân hóa: “Hoa cười ngọc thốt” gợi tả nụ cười tươi tắn như hoa và tiếng nói trong trẻo và hàm răng ngọc ngà. “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” gợi tả mái tóc óng ả, nhẹ như mây còn làn da mịn màng và trắng đẹp hơn tuyết - Tác giả so sánh vẻ đẹp Thúy Vân với những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mấy, tuyết. =>Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên, một vẻ đẹp khiến thiên nhiên cũng phải thua và nhường. Dự báo một cuộc đời bình yên, suôn sẻ đang đón chờ Vân. c Mười hai câu tiếp theo: Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều Với Thúy Vân tác giả chỉ dùng bốn câu thơ thì với Thúy Kiều tác giả ưu ái hơn với mười hai câu thơ để khắc họa vẻ đẹp cả sắc và tài của nàng. Nguyễn Du không tả Kiều trước mà tả Vân trước, đây là nghệ thuật “đòn bẩy” để làm nổi bật Thúy Kiều, với Vân đã là tuyệt thế giai nhân thì Kiều còn hơn hẳn. “Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơ n” Từ “càng” đứng trước hai từ láy “sắc sảo, mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp sắc sảo của trí tuệ và mặn mà về tâm hồn - Bút pháp ước lệ, tượng trưng, phép ẩn dụ ở câu thơ tiếp theo đã tạo nên một nét đẹp “tuyệt thế giai nhân” cho nàng Kiều “Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hòn kém xanh. Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một tài đành họa hai” “Làn thu thủy” là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, huyền ảo và sâu thẳm như làn nước mùa thu. “Làn thu thủy” nói đến đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều hội tụ ở đôi mắt - cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Vẻ đẹp của Kiều khiến “hoa ghen, liễu hờn” thể hiện thái độ của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng hơn thế vẻ đẹp ấy còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Một vẻ đẹp xuất sắc, hoàn mĩ của Kiều cũng báo hiệu số phận bất hạnh của nàng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt qua mọi khuôn khổ chuẩn mực của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho tất cả vẻ đệp khác phải ganh ghét, đố kị và oán hận. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm cho một số phận đầy oan trái, sóng gió. Kiều không chỉ đẹp về nhan sắc mà tác giả còn cho ta thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và rất đa tài “Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương” - Nàng là người con gái đa tài, xuất chúng hội tụ đầy đủ cầm, kì, thi, họa và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Tài đàn là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đó vượt lên trên mọi người và đạt độ xuất chúng qua câu “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm” - Nàng đã soạn lên cho mình một khúc nhạc, khi cất lên nghe mà não lòng và xúc động => Chân dung Thúy Kiều được tác giả khắc họa rất tài ba với vẻ đẹp đủ sắc và tài, tất cả đều đạt đến mức lí tưởng, xuất chúng, vẻ đẹp đó cũng báo hiệu một cuộc đời “bất hạnh” mà Kiều sắp phải gánh chịu. d Bốn câu thơ cuối: Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em “Phong lưu rất mực hồng quần, Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai” - Hai chị em Thúy Kiều không chỉ là tuyệt thế giai nhân mà họ còn là người đức hạnh và sống chuẩn mực, khuôn phép. + Gia cảnh: Họ sống trong gia đình khuôn phép và nề nếp + Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo thể hiện ở câu “Êm đềm trướng rủ màn che” + “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” dù đến tuổi “cài trâm, búi tóc” nhưng cả hai chị em vẫn kín đáo, khuôn phép và gia phong sau bức tường của lễ giáo phong kiến. Kết bài: Qua đoạn trích, chúng ta đã thấy tác giả ngợi ca vẻ đẹp “tuyệt mĩ” của chị em Thúy Kiều một cách linh hoạt và uyển chuyển. Mặc dù tác phẩm đã ra đời cách đây hàng trăm năm nhưng vẫn để lại nhiều ấn tượng sâu sắc đối với người đọc trong và ngoài nước. Đoạn trích trên là một minh chứng rõ nét về sự tài ba này.
Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên và cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều trong Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du). Mở bài: Giới thiệu tác giả và đoạn trích hoặc dẫn dắt theo các cách khác nhau để vào bài - Ví dụ: Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh tươi đẹp tưng xứng với tâm trạng của hai nhân vật, trong đó nổi bật là Thúy Kiều. Vậy bức tranh đó được tác giả khắc họa như thế nào chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Thân bài: Mỗi học sinh có cách cảm nhận khác nhau nhưng cần đạt những nội dung sau - Cảnh thiên nhiên ngày xuân được tác giả chấm phá, ước lệ theo trình tự không gian và thời gian, đồng thời tạo nên một bức tranh vô cùng tươi sáng và đẹp đẽ. Bốn câu thơ đầu là gợi tả khung cảnh ngày thiên nhiên với những nét đặc trưng của mùa Xuân. Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi, Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. - Hai câu đầu tác giả vừa gợi không gian và thời gian ngày xuân thấm thoắt trôi qua mau, tiết trời đã sang tháng ba (Đã ngoài sáu mươi). Những con én rộn ràng như đưa thoi trên bầu trời khoáng đạt, cao rộng phần nào đã cho chúng ta thấy ngày xuân trôi đi nhanh quá. Còn dưới mặt đất không khí vẫn đang sôi động, nhộn nhịp cùng bức tranh mùa xuân tươi đẹp đầy sắc màu. - Hai câu thơ sau là bức tranh mùa xuân tuyệt mĩ, mùa xuân đẹp trên nền cỏ xanh bát ngát tận chân trời và được điểm xuyết một vài bông lê trắng. Màu xanh và màu trắng đan xem nhau, bổ sung cho nhau tạo nên sự hài hòa, tươi đẹp cho mùa xuân. Nguyễn Du rất tài tình trong việc vận dụng ý trong hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm họa” (Cỏ thơm liền với trời xanh/ Hoa lê đã nở trên cành vài bông). Nếu câu thơ cổ nói màu xanh của trời, hương thơm của cỏ, hoa lê nở điểm trên cành thì Nguyễn Du tả cỏ xanh mênh mông, bát ngát tận chân trời. Chữ trắng được đảo lên trước chữ điểm tạo nên sự bất ngờ, mới mẻ khiến cảnh thiên nhiên có hồn và sống động, tươi tắn hơn bao giờ hết. => Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân của Nguyễn Du thật là tuyệt mĩ, tác giả đã rất thành công trong bút pháp nghệ thuât kết hợp giữa tả và gợi. Qua bức tranh thơ, người đọc cảm nhận được tâm hồn con người vui tươi, phấn chấn và tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi sáng, ấm áp của mùa xuân. - Tám câu thơ tiếp theo, tác giả tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và cảnh du xuân của nhân vật Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuâ n, Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng rắc vó tro tiền giấy bay Hai câu thơ đầu tác giả đã rất tài tình khi tách từ “Lễ hội” làm đôi, lễ và hội để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Lễ là hồi ước, tưởng niệm quá khứ, những cái đã qua và hội là khát khao, hoài vọng nhìn về phía trước, điều sắp tới trong tương lai. Dù được tách nhưng vẫn có mối liên kết chặt chẽ với nhau làm cho khung cảnh mang đầy đủ hoạt động của ngày xuân truyền thống. + Lễ là tảo mộ: thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ của người thân, đốt vàng vó, rắc tiền giấy để tưởng nhớ người đã khuất “Thoi vàng rắc vó tro tiền giấy bay”. Thể hiện truyền thống tri ân “Uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam. + Hội là đạp thanh: vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ ngát xanh. Đây là cuộc sống hiện tại và những nam thanh nữ tú có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau… - Trong đoạn này, tác giả sử dụng nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) để làm rõ hơn tâm trạng du xuân của nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân - Ngoài ra Nguyễn Du sử dụng nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi sự đông vui, tấp nập và háo hức của con người trước cảnh ngày xuân. Và những động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng, vui tươi của ngày hội Những so sánh rất giản dị “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông đúc, náo nhiệt cùng tâm trạng phấn khởi của người trảy hội. Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm lên tất cả con người và cảnh vật trong đó có ba chị em nhà họ Vương. Thông qua hoạt động du xuân, Tác giả đã khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội đầy ý nghĩa và sống động. Qua những câu thơ trên chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng những giá trị truyền thống văn hóa xưa của dân tộc trong tết thanh minh. - Sáu câu cuối, cảnh chị em du xuân trở về Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanhh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Khác với đoạn thơ trên, đoạn này không còn không khí vui tươi, nhộn nhịp, nô nức nữa bởi hội đã tan, cảnh sắc xuân đã nhuốm màu trầm lắng. Tà tà bóng ngả về tây nói đến bầu trời nắng đã nhạt, khe nước nhỏ với nhịp cầu bắc ngang, chị em Thúy Kiều thơ thẩn dan tay ra về với những tâm trạng nuối tiếc, nao nao mà khó tả. Cảnh như nhạt dần, lặng dần mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không gian bắt đầu thu hẹp lại và phảng phất buồn. Trong văn học trung đại, chiều tà thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc buồn bã thê lương. Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt… Tâm hồn con người dường như cũng “chuyển điệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc thanh minh để mang chút thơ thẩn bâng khuâng trên dặm đường về… - Tác giả đã sử dụng nhiều từ láy như: “nao nao, tà tà, thanh thanh” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng của con người với những nỗi buồn sâu lắng. Trong sắc thái lặng buồn của thiên nhiên cùng tâm trạng bâng khuâng của nhân vật trữ tình có cả linh cảm về điều sắp tới. Có gì đó buồn vui lẫn lộn và dúng như thế, buồn vì gặp mộ Đạm Tiên ngay sau đó “Sè sè nấm đất bên đàng/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”, rồi gặp chàng thư sinh Kim Trọng “Phong tư tài mạo tót vời”. Giai nhân kì ngộ, gặp gỡ, yêu đương mãnh liệt rồi tan vỡ. Kết bài: Với bút pháp cổ điển nhưng đầy sáng tạo cùng những từ láy miêu tả cảnh vật thì dường như bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình về bút pháp nghệ thuật của tác giả, đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du mà thi sĩ khác cùng thời không sánh được.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ những nỗi nhớ ấy đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng thật đau đớn, xót xa! Nhưng gạt bỏ cảnh ngộ của bản thân, nàng hướng yêu thương về người thân yêu nhất. Trái tim nàng thật giàu tình cảm và đức hi sinh, nàng thật sự là người tình thủy chung, là người con hiếu thảo một người có nhân cách đáng trân trọng. Nỗi nhớ chưa nguôi ngoại, Kiều lại quay trở về cảnh ngộ thực tại phũ phàng, đau xót của mình. Nỗi đau đớn ấy được thể hiện rõ ở tám câu thơ tiếp theo. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công “nỗi lòng cô quạnh, tê tái” của Kiều trong những ngày bị giam lỏng. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc họa rõ nét tâm trạng của Kiều qua đoạn trích. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích như gói trọn nỗi lòng của Thúy Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích, cách sử dụng điệp ngữ của Nguyễn Du đã khắc họa những nỗi buồn khác nhau của Kiều. Nỗi buồn ấy mỗi ngày một tăng lên và tác động vào cảnh vật làm cảnh vật mỗi lúc lại buồn hơn. Điệp ngữ “buồn trông” chứa đựng cái thoảng thốt, lo âu và sự xa lạ hút tầm nhìn cùng với dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu bước giữa cuộc đời ngang trái. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Không gian xa rộng, hút tầm nhìn nơi cửa bể vào buổi chiều càng làm rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Thúy Kiều. Cảnh “chiều hôm” cộng hưởng với “cánh buồm” xa xa đơn độc, lẻ loi giữa sông nước mênh mông với ánh sáng le lói cuối cùng cũng như thân phận Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại, càng nhìn về tương lại càng thấy mịt mờ và vô vọng. Càng hướng ra xa thì con thuyền đó cứ dần mất hút theo chiều tà để lại cuộc đời lênh đênh của nàng giữa bốn bề tăm tối nơi đất khách quê người. Không tìm thấy sự hi vọng từ cửa biển, nàng đã hướng về “ngọn nước” gần mình hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Cánh hoa trôi trên dòng nước như gợi nhắc thân phận của Thúy Kiều, nàng càng buồn hơn khi chính mình đã nhìn thấy cuộc đời nhỏ nhoi đang lênh đênh, vô định “ba chìm bảy nổi” giữa sóng nước, cuộc đời sẽ trôi dạt và sẽ đi về đâu? Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất: Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Nhưng càng trông thì càng thấy buồn (rầu rầu), màu “xanh xanh” không còn là màu xanh của sức sống của tháng ngày êm đẹp trong những ngày Tết thanh minh nữa. Màu xanh ở đây chính là sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Màu xanh của không gian gợi cho Kiều sự chán ngán, vô vọng và cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của nhân vật trữ tình trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một âm thanh của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh. Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Cơn “gió cuốn” tạo nên tiếng sóng “ầm ầm” kêu quanh ghế ngồi như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Âm thanh đó chính âm thanh dữ dội của cuộc đời bão táp đang ập xuống thân phận bé nhỏ của kiếp người trong xã hội phong kiến lạc hậu, đầy rẫy bất công. Tiếng sóng làm cho nỗi lo sợ, kinh hãi, đau đớn của nàng dâng đến tột đỉnh, nàng rơi vào thế tuyệt vọng và bất lực trước số phận nghiệt ngã của mình. Cảnh trong tám câu thơ cũng có thể là cảnh thực, cũng có thể là cảnh tượng trưng ước lệ song đây chỉ là phương tiện để gửi gắm tâm cảnh. Tác giả Nguyễn Du đã miêu tả cảnh vật từ xa đến gần, từ đậm đến nhạt, từ tĩnh đến động để khắc họa rõ nét nỗi buồn sâu thẳm đến kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm cực điểm trong lòng Thúy Kiều. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều theo quy luật “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kết bài: Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh phong phú, sinh động tả ngoại cảnh và tâm cảnh. Cái giá trị cốt lõi nhất mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta không chỉ là cảnh vật mà là cái tâm hồn, tâm trạng, tác giả mượn cảnh vật để nói lên cảm xúc khổ đau, xót xa, bi thương của nhân vật trữ tình Thúy Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự thấu hiểu, sẻ chia nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh đồng thời ngợi ca tấm lòng cao đẹp của Thúy Kiều để giúp ta hiểu hơn về những số phận “hồng nhan bac mệnh”. Đọc tiếp: Nghệ thuật miêu tả nội tâm và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du (phần 1)
Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để làm rõ nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. Mở bài: Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Bởi vậy mà qua nhiều thế kỉ nhưng Truyện Kiều vẫn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Hơn thế, Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh ngụ tình mà còn đạt đỉnh cao trong nghệ thuật tả tâm trạng, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một minh chứng. Thân bài: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã được Nguyễn Du miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc cảm xúc trong tâm trạng nàng Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng son sắt Kiều dành cho Kim Trọng và sự hiếu thảo mà nàng dành cho cha mẹ của mình. Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có bố cục rất rõ ràng và hợp lí. Phần đầu là giới thiệu cảnh bị giam lỏng ở Ngưng Bích, phần thứ hai là nỗi cô đơn buồn tủi và nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ, phần thứ ba là tâm trạng đau buồn của Kiều mỗi lúc một lớn và những dự cảm về những giông tố mà Kiều không thể tránh khỏi. Ở sáu câu thơ đầu là khung cảnh hoang vắng, mênh mông đến rợn người bởi ngồi trên lầu cao nhìn về phía trước là những núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng còn nhìn xuống là cát vàng dài vô tận, lác đác là bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, hiu quạnh, tội nghiệp của Thúy Kiều; Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm ki a Với một không gian rộng lớn nhưng không một người thân, không một bóng người càng làm cho Kiều càng xót xa, đau đớn. Hoàn cảnh của Kiều lúc này rất mông lung, bi đát. Tú Bà cho Kiều ra ở Ngưng Bích nhưng thực chất là giam lỏng Kiều để thực hiện kế hoạch đê tiện và tàn bạo hơn, từ “khóa xuân” đã lột tả được những gì mà Kiều đang và sẽ phải đối mặt khi âm mưu bì ổi của Tú Bà đang dần thực hiện. Càng đau đớn, buồn tủi bao nhiêu thì nàng lại thấy xấu hổ, bẽ bàng bấy nhiêu. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Một chữ bẽ bàng đã lột tả được toàn bộ tâm trạng của Kiều khi bị giam ở lầu Ngưng Bích, nàng xấu hổ trước mây sớm đèn khuya. Sớm sớm nhìn mây, đêm đêm đối diện với ánh đèn, cảnh và người cùng thao thức và sẻ chia. Giờ đây nàng như mất tất cả: người yêu, gia đình và cả thanh xuân tươi đẹp sự trơ trọi, cô độc ấy nơi đất khách quê người chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Trong tâm trạng ấy, nàng tìm về những người thân của mình, nàng nhớ về mối tình đầu chàng Kim Trọng và nhớ bậc sinh thành. Nỗi nhớ ấy được tác giả Nguyễn Du miêu tả rất đắt trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật Thúy Kiều. Nỗi nhớ thương được chia đều trong tám câu thơ, bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng Thúy Kiều lại nhớ Kim Trọng trước bởi đây là mối tình đầu thắm thiết, là nỗi nhớ nồng nàn sâu thẳm, nàng nhớ về đêm thề nguyền hẹn ước dưới ánh trăng hôm nào. Quá khứ thiêng liêng, đẹp đẽ như vẫn còn đây mà giờ đã thành hoài vọng Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm thân gột rửa bao giờ cho phaii. Lời thơ chứa đựng bao suy tư, thổn thức của Kiều dành cho Kim Trọng, nỗi suy tư đó dường như đang rỉ máu trong trái tim son sắt, thủy chung của nàng. Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang mong ngóng nàng và không biết tin nàng phải bán mình, bị đẩy vào cõi góc bể chân trời bơ vơ. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám cho lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà giờ đây mỗi người mỗi ngả. Nàng thấy mình có lỗi và tự dằn vặt bản thân, lời thề ước đó nàng không thực hiện được, nàng bỗng dưng trở thành kẻ phụ bạc, lỡ hẹn với chàng. Nàng thấy xót xa, tủi hổ khi tất cả những gì đẹp đẽ mà muốn dành cho chàng thì nay lại bị hoen ố, chà đạp và biết bao giờ mới rửa được vết nhơ? “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” Nỗi dằn vặt, vò xé đó biết bao giờ mới nguôi ngoai, phai mờ? Nhớ người yêu, nàng càng xót xa nghĩ đến cha mẹ, mặc dù đã bán mình để cứu cha mẹ và em khỏi vòng tù tội nhưng nghĩ về người sinh thành thì bao trùm trong nàng là nỗi xót xa, lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông ngóng tin của nàng Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ, Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Nàng lo lắng nhiều hơn không biết ở nhà có ai chăm sóc, phung dưỡng cha mẹ mỗi khi thời tiết chuyển mùa? Nàng tưởng tượng nơi quê nhà đã đồi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ đã già yếu. Nguyễn Du đã rất thành Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi sự tàn phá của thời gian.công khi sử dụng thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những trăn trở, băn khoăn của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứn g tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo. Đọc tiếp: Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để làm rõ nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du (tiếp)