Tóm tắt: Thiền uyển tập anh lầ nguồn tư liệu quý trong hoạt động nghiên cứu văn hóa, triết học, lịch sử, nó cũng là cuốn sách xếp vào loại cổ nhất của văn học dân tộc. Qua việc khảo sát ngôn từ trong các truyện viết về các Thiền sư trong tác phẩm Thiền uyển tập anh, ta thấy được nghệ thuật sử dụng ngôn từ của đội ngũ tác gia Thiền sư, từ đó phác họa ra những nét có bản về cảm hứng chủ đạo, hệ thống chủ đề, hình tượng,… Từ khóa: ngôn từ nghệ thuật, Thiền uyển tập anh, Thiền sư, văn học dân gian và văn chương bác học, văn ngôn và bạch thoại. Mở đầu Thiền uyển tập anh là tập sách nói về các vị Thiền sư Việt Nam từ cuối thế kỉ thứ VI đến đầu thế kỉ thứ XIII. Ngoài việc là tài liệu cổ nhất về đạo Phật mà chúng ta hiện có Thiền uyển tập anh còn là “một tập chân dung các nhà Thiền học, với những phác họa đôi khi rất có cá tính, đã vượt khỏi mọi tiểu sử nhạt nhẽo mà đạt đến những chân dung văn học có giá trị…” (Nguyễn Huệ Chi). Văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ, cho nên từ ngữ là yếu tố đầu tiên, không thể thiếu, nó là chất liệu, là phương tiện để tác gia sáng tạo và xây dựng hình tượng thơ. Việc sử dụng từ vựng, từ loại trong các bài thơ Thiền của tác gia Thiền sư cũng có ít nhiều khác biệt so với lựa chọn của các loại hình tác gia khác. Nội dung Ngôn từ sử dụng hình ảnh thiên nhiên Trước hết về mặt từ ngữ, mặc dù đề tài, chủ đề những bài thơ Thiền hướng tới là Thiền lý và các vấn đề tu đạo nhưng bên cạnh lớp Thiền ngữ, Phật tích, điển tích, thì các tác gia Thiền sư vẫn sử dụng kết hợp số lượn g khá nhiều những loại từ ngữ bình dân của đời thường. Đa số là những từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên: mây, gió, mặt trăng, mặt trời, tuyết, sương, sấm chớp… Ngoài ra còn có rất nhiều những danh từ chỉ cây, con, vật dụng… quen thuộc trong đời sống thường nhật xuất hiện trong thơ Thiền như: cây trúc, hoa mẫu đơn, hoa cúc, hoa mai… con rùa, con dê, chim oanh, bướm, khỉ, vượn… những vật dụng như: gậy, chõng, giường… Về mặt từ loại, cả động từ, danh từ, tính từ đều được sử dụng trong thơ Thiền, nhưng có thể nhận thấy được dùng nhiều nhất là danh từ sau đó đến tính từ và động từ. Danh từ thì phần nhiều là những khái niệm của Thiền, Phật bên cạnh đó cũng có những danh từ chỉ những hiện tượng, sự vật của cuộc sống đời thường. Khi kết hợp danh từ với động từ và tính từ để tạo thành một danh ngữ thì các tác gia Thiền sư thường sử dụng danh từ đơn từ đơn kết hợp với một tính từ đơn hoặc động từ đơn. Ví dụ như: rùa mù, núi xanh, cúc vàng, trúc xanh, trúc tốt, thông xanh… hay như: hoa nở, hoa rụng, oanh hót, gió lùa, bướm bay… Ngôn từ sử dụng Thiền ngữ Thơ Thiền được làm ra trước hết để bàn về những vấn đề Thiền lý cho nên trừ những trường hợp hãn hữu ra thì chúng không thể không dùng đến các Thiền ngữ (các phạm trù, khái niệm, danh từ Phật học). Thơ Thiền trong Thiền uyển tập anh hầu hết đều xuất hiện những danh từ của Phật học. Khảo sát trên 40 vị Thiền sư để lại thơ Thiền thì gần như không có vị nào không sử dụng các từ Phật học, dù ít hay nhiều, những từ được dùng phổ biến nhất như: Pháp, Tâm, Vô ngại, Bản lai, Chân tông, Không không, Sắc tướng, Giác liễu, Giới giới, Bát nhã, Phật, Pháp tính, Diệu tính, Diệu thể, Sắc thân, Chính giác, Ma ni, Bất muội, Tự giác, Giác tha, Thực tướng, Huyễn thân, Diện bích, Ngộ đạo, Ngũ uẩn, Niết bàn, Sinh tử, Phật tử, Bồ Tát, Tham dục, Tự tâm, Truyền tâm, Liễu ngộ, Bất tư nghì, Như Lai Tạng, Đại thiên sa giới, Nhị huyễn, Huyễn Pháp, Huyễn tu, Tam Bảo, Bất tri hà xứ, Tam muội, Chân thân, Như Lai, Lục thức, Vô minh, Giác ngộ, Mê, Hoặc, Thiền, Thích Ca, Di Lặc,... Đây là những từ ngữ mang tính thuật ngữ của Phật giáo Thiền tông. Tất cả đều nói về bản thể của sự vật, của vũ trụ, đồng thời liên quan đến con đường tu chứng của bản thân các vị Thiền sư. Bên cạnh những danh từ Phật học kể trên, thơ Thiền còn thường xuyên xuất hiện và lặp lại các cặp phạm trù: sinh - tử, hữu - vô, thực - ảo… Đọc tiếp: Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm Thiền uyển tập anh phần 2
Khái niệm Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn dân đã được nghệ thuật hóa; được chọn lọc, gọt giũa, trau chuốt và mang dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong tác phẩm văn học, ngôn từ là phương tiện để cụ thể hóa, vật chất hóa, hiện thực hóa nội dung, tư tưởng và thẩm mỹ của tác phẩm. Mặt khác, việc sử dụng, phối kết, sáng tạo ngôn từ cũng tạo nên những nội dung thẩm mỹ mới. Do vậy, ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học mang tính hình tượng, xúc cảm và thẩm mỹ; có khả năng tác động đến tình cảm, nhận thức và thẩm mỹ của người đọc. Đối với ngôn từ trong bài văn bia do một tiến sĩ Nho học soạn để ca ngợi cảnh đẹp của chùa và tấm lòng của Thái hoàng Thái hậu và Phụ chính Ứng vương Mạc Đôn Nhượng thì từ ngữ được gọt giũa trau chuốt chọn lọc. Đặc biệt, lời văn liên quan đến bậc hoàng thân quốc thích triều Mạc, văn phong, từ ngữ càng phải lựa chọn đắt giá để nói lên được công lao to lớn của bậc Mẫu nghi thiên hạ và Phụ chính Ứng vương. Mở đầu văn bia đã khẳng định công sức của Phụ chính Ứng vương về việc xây dựng chùa: “Khám Viên Quang Hậu Bổng, huyện Gia Phúc phủ Hạ Hồng, là danh lam lớn của nước Nam. Đấy là do công sức phục dựng của ai? Đó là đại công đức vui làm điều thiện của quan Phụ chính Ứng vương”. Trước khi Phụ chính Ứng vương cho trùng tu xây dựng khám Viên Quang thì chùa đã có tên là Quang Minh tự, vì mến mộ cảnh chùa mà ông đã xây dựng phủ ngay cạnh chùa để làm nơi dừng nghỉ mỗi lần lên kinh. Văn bia cho biết: “Quan Phụ chính Ứng vương thường từ phủ Vĩnh lên [Kinh] chầu vua qua đây; bởi mến mộ cảnh này bèn lập phủ ở cạnh chùa để làm nơi ở mỗi khi qua lại. Vương liền bỏ vàng vua ruộng, để mở rộng chùa, rồi chuyển gỗ họp thợ, xây Phật điện nghiêm chín h điện, cùng tiền đường, hậu vũ, bốn mặt hồi lang bao quanh cùng tam quan lầu gác. Chỗ cũ nát liền làm mới cái hư hỏng thì tu bổ lại, công việc xây dựng chẳng mấy mà xong, thực là lâu đài cõi đông, Thiền lâm Thiên Trúc, mọi thứ nhất thảy đều mới”. Cũng trong bia được tác giả miêu tả cảnh chùa tươi đẹp, tấp nập ngựa xe “Chùa vốn là cổ tích: thủy triều tiến phía trước, phía sau bát ngát ruộng bằng; bên trái giáp làng trù phú, bên phải liền với chợ đông Một bầu trời thiền phong cảnh lạ thường. Mỗi độ xuân về muôn hoa đua nở, người dân nơi đây dự hội đôn g vui, dấu ngựa xe tấp nập, võng lọng qua lại không ngớt. Thật là một kỳ quan lớn nhất vùng”. Đỗ Uông vâng soạn văn bia trên thì ca ngợi cảnh chùa và tấm lòng công đức của Thái hoàng Thái hậu và Ứng vương đã có công trùng tu tôn tạo chùa, ngoài ra còn mở mang thêm. Bên cạnh đó bài văn bia đã khéo léo, tế nhị khi thác lời người nho sinh đưa ra lời can gián để hướng Vương noi theo triều Lý làm tốt nền chính trị của mình (đó là ngoài việc xây chùa phụng Phật để cầu phúc và mở mang dân trí cho dân, nâng cao đức trị) học điều hay của triều trước để cho đất nước được trường tồn. Bà Vũ Thị Ngọc Toàn, là người làng Trà Phương, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng, là người hâm mộ đạo Phật, mặc dù chính sử không ghi chép về bà, tuy vậy nhiều văn bia còn ghi chép công lao của bà đối với việc xây dựng chùa chiền ở khu Dương kinh và vùng phụ cận. Bia Tu cấu Viên Quang khám ca ngợi bà vui làm việc thiện mà gieo phúc điền, vì nhân dân, con thánh cháu hiền đời đời mà xây dựng nhiều chùa. Văn bia cho biết: “Thái hoàng Thái hậu là là bậc Mẫu nghi thiên hạ, là mầm Thánh nơi cửa Phật, xây dựng các chùa để làm ruộng phúc, vì con thánh cháu hiền, nghi quân nghi vương đời đời mà tạo phúc vậy”. Với những đóng góp to lớn của bà đối với dân nên bà được nhân dân tôn xưng là “Mẫu nghi thiên hạ” như trong văn bia đã chép. Qua những việc làm của bà đối với việc xây dựng và mở mang chùa nhiều nơi đủ để thấy tấm lòng từ bi nhân hậu của bà, một lòng hướng theo gót Phật. Vì con cháu của vương triều và nhân dân mà tạo phúc lành. Từ đó bà mong muốn hướng mọi người cùng làm việc thiện, gieo quả phúc để được phúc ấm, làm cho dân cư an lạc, đất nước được thái bình. Tấm bia và bài văn bia là hiện vật quan trọng của chùa Quang Minh hiện đến nay vẫn còn lưu giữ được, không chỉ có hoa văn trang trí độc đáo đặc sắc mang motip cung đình, mà còn là minh chứng xác thực ghi chép lại công lao to lớn của triều Mạc thông qua quan Phụ chính Ứng vương và Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn cùng nhiều tín thí khác trong việc trùng tu xây dựng chùa. Kết luận Cái đặc sắc của tác phẩm này chính là một bài văn ca ngợi nhưng lại mang lời lẽ can gián gián tiếp của tác giả Đỗ Uông đối với triều Mạc. Cái hay là ở chỗ dùng ngôn từ ca ngợi tiền triều để hướng đối tượng ở đây là Phụ chính Ứng vương đại diện cho triều Mạc. Lời can gián triều Mạc nên tập chung xây dựng đất nước để sánh với các triều Lý, Trần, sánh cả với thời thịnh trị Đường, Ngu....không xa hoa lãng phí vào việc xây dựng... Bài văn bia cũng cho biết bà Thái hoàng Thái hậu vì con cháu, vì đất nước và hạnh phúc của nhân dân mà gieo phúc điền xây dựng nhiều chùa chiền. Việc làm của quan Phụ chính Ứng vương và Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn trong việc phát tâm vui làm việc thiện, xây dựng chùa chiền cũng là một việc làm của vương chính như lời văn bia chùa Hưng Linh đã nhắc đến. Đó cũng là nguyên do khiến cho Phật giáo thời nhà Mạc được trung hưng, góp phần không nhỏ trong lịch sử truyền thống Phật giáo Việt Nam. Nội dung văn bia giống như một lời can gián, thường xuất hiện trong các bản tấu chương là chuyện thường gặp, nhưng nội dung văn bia được Vương với vai trò Phụ chính chấp nhận và cho khắc vào văn bia được đặt trước chùa để quảng đại nhân dân xa gần đều biết.
Một điểm đặc sắc nữa khi nhắc đến Suối nguồn là sự đối thoại giữa chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa tập thể. Ayn Rand tin rằng để tạo ra một xã hội phát triển thì phải tôn trọng con người cá nhân, và sự can thiệp, hủy hoại con người cá nhân chính là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Sở dĩ con người cá nhân là yếu tố quan trọng để nhân loại phát triển là bởi con người cá nhân chính là con người sáng tạo. “Nhữn g nhà phát minh vĩ đại, những nghệ sĩ, những nhà tư tưởng… đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ. Động cơ máy đầu tiên bị coi là ngu xuẩn. Chiếc máy bay đầu tiên bị coi là không tưởng. Chiếc máy dệt đầu tiên bị coi là con ác quỷ. Việc gây mê bị coii là tội lỗi… Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau khổ và họ phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng.” Chủ nghĩa cá nhân cũng không phải là thứ tư tưởng đặt bản thân mình lên trên hết, con người đi theo chủ nghĩa cá nhân tôn trọng chính mình và tôn trọng người khác, không hi sinh chính mình vì lợi ích của người khác, cũng không xâm phạm tới người khác vì lợi ích của mình. Trong suốt thiên truyện, ta thấy Roark chưa từng can thiệp vào cuộc đời của ai, không giảng đạo lí, không thao túng, không ép buộc người khác phải hành động theo một tư tưởng nào; dù đã có những lúc anh bộc lộ niềm nuối tiếc khi chứng kiến những người xung quanh đang hủy hoại chính mình. 3. Kết luận: Khảo sát quan niệm nghệ thuật về con người trong Suối nguồn giúp ta không đọc và phân tích tác phẩm dưới góc nhìn giản đơn, tránh sự hiểu lầm rằng tác phẩm viết về ngành kiến trúc hay mô phỏng con người có thực. Nhân vật trong Suối nguồn đều là nhân vật mang tính quan niệm, là công cụ thể hiện tư tưởng của nhà văn. Suối nguồn cũng giống như những tác phẩm lãng mạn khác, không viết về “thế giới như nó đang là” mà hướng về “thế giới như nó có thể là và phải là”. Cụ thể ở đây, “thế giới như nó phải là” là thế giới nơi những con người cá nhân được tôn trọng và tự do phát triển. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Suối nguồn của Ayn Rand phần 1
Con người đẹp nhất khi gần với bản chất nguyên sơ: Có thể nói, Suối nguồn là bản diễn tấu tôn vinh con người một cách tuyệt đối. Ayn Rand đã đưa ra một quan niệm rất rõ ràng: con người là đại diện cho cái đẹp. Điều này được thể hiện rõ nét trong “vụ đền Stoddard", khi Roark đã tạo ra một ngôi đền không thờ thần mà thờ con người, một kiến trúc không có những rường cột chạm trổ cao vời vợi khiến con người kính sợ mà là một thứ rất gần với trần thế. Bức tượng của đền Stoddard là bức tượng khắc họa Dominique, người con gái với vẻ đẹp hoàn mỹ tựa như tuyệt tác tinh xảo nhất của tạo hóa. Vẻ đẹp hình thể của Dominique được nhắc tới nhiều lần, nhưng những gì tạo nên sự ấn tượng cho nhân vật này không phải là ngoại hình. Sau Roark, Dominique là người gần với con người cá nhân, con người tự do nhất. Cô sống như dạo chơi giữa cuộc đời, coi thường quyền lực và danh tiếng, coi thường những thứ tầm thường, vô nghĩa đang được đám đông tán dương. Dominique có đôi mắt sắc sảo đáng kinh ngạc và một tình cảm thuần khiết đến tuyệt đối. Vì Dominique rất gần với chính mình nên cô rất đẹp, không phải là cái đẹp giản đơn của đường nét mà các đôi mắt trần tục nhìn vào, đó là cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp bề sâu. Nhưng chính Dominique cũng đã nói, người nên là nguyên mẫu để khắc tượng thờ phải là Howard Roark, vì anh chính là con người lý tưởng nhất. Howard Roark là người duy nhất không có sự xung đột giữa bên trong và bên ngoài, vì thuần túy nhất nên cũng là đẹp nhất. Vẻ đẹp của Roark là thứ không phải ai cũng nhận ra, chỉ những con người là bề tôi của nghệ thuật như Dominique hay Gail Wynand mới thấy và cuồng si từ lần đầu tiên gặp anh hoặc nhìn những tòa nhà do anh thiết kế. Con người tồn tại dưới tư cách cá nhân và nên sống như một cá nhân tuyệt đối: Suối nguồn chính là bản tuyên ngôn cho chủ nghĩa cá nhân, ngợi ca con người cá nhân là mạch nguồn xuyên suốt tác phẩm. Ayn Rand đã dựng lên Howard Roark như hình mẫu lý tưởng về một con người cá nhân tuyệt đối, và hệ thống nhân vật xung quanh là sự đối lập để làm bật lên những phẩm chất của mẫu hình hoàn mỹ này. Đầu tiên, ngoại hình của Howard Roark được miêu tả một cách rất đặc biệt: “Đấy là một cơ thể gồm toàn đường thẳng và góc nhọn, mỗi một đường uốn đều bị bẻ vỡ thành những mặt phẳng”. Ngoại hình của Roark cũng rất giống như những thiết kế của anh, giản đơn, khác lạ, đầy tính công kích. Tác giả miêu tả hình thể của Howard Roark như một loại nghệ thuật, không phải ai cũng hiểu nên không phải ai cũng thấy đẹp. Nếu như Dominique sửng sốt đến choáng ngợp trước vẻ đẹp ấy trong lần đầu gặp Roark thì những người xung quanh chỉ cảm thấy “anh ta rất nam tính, nhưng không thể gọi là đẹp trai được”. Điều tương tự diễn ra với những ngôi nhà được thiết kế theo phong cách hiện đại của Roark, người thích thì vô cùng cuồng si, nhưng người bình thường sẽ chỉ thấy nó thật lố bịch. Ở thế đối lập với Howard Roark, Peter Keating mang thẩm mỹ phù hợp đại chúng hơn với những đường nét mềm mại và hài hòa. Sự miêu tả ngoại hình cũng là ngầm ẩn cho mô tả tính cách và xu hướng hành động. Tiếp đến, con người cá nhân sẽ phải là con người cô độc. Howard Roark là nhân vật duy nhất không được miêu tả các mối quan hệ cá nhân. Ta không biết cha mẹ hay bất kì thân nhân nào của Roark, không rõ anh đến từ đâu, có những mối quan hệ nào. Dường như Roark luôn được khắc họa trong trạng thái cô độc, anh luôn tự mình làm mọi thứ, và nếu có giao tiếp với người xung quanh thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ công việc. Roark có một thế giới riêng mà không ai có thể bước vào, cái nhìn của Roark luôn mang lại cho người khác cảm giác anh đang không nhìn họ, hay chính xác hơn là không quan tâm tới họ. Mẫu hình con người cô độc, tách biệt khỏi xã hội đã có mặt từ trước đó trong văn học phi lí; nhưng Suối nguồn đã đem lại một quan niệm mới: con người cô độc nhưng không cô đơn, con người nên cô độc và cần phải cô độc để được là chính mình. Roark chưa từng buồn phiền, băn khoăn hay bất lực về các mối quan hệ xung quanh, anh luôn ở một mình và tận hưởng cảm giác được ở một mình. Ngược lại, các nhân vật khác như Keating hay Toohey luôn được thể hiện trong mối quan hệ với người khác. Sự ảnh hưởng từ người mẹ, từ cộng đồng là yếu tố chính khiến cho Keating trở thành “kẻ sống thứ sinh”. Văn học lãng mạn cũng đã khắc họa cái tôi cá nhân nhưng mới chỉ dừng lại ở việc mô tả cảm cảm giác cá nhân và con người như một nạn nhân của hoàn cảnh. Suối nguồn đã đi xa hơn khi tạo ra một con người cá nhân có khả năng vượt lên trên hoàn cảnh và thay đổi hoàn cảnh. Tất nhiên điều này không hề dễ dàng, sự khó khăn ấy được chứng tỏ qua Gail Wynand. Gail Wynand đã từng là một con người chính trực, và vẫn luôn là một người nhạy bén với cái đẹp, theo đuổi cái đẹp, nhưng hiện thực đã đánh gục và khiến ông trở thành kẻ chuyên viết những điều dối trá. Sự khác biệt để Roark vẫn luôn là chính mình dù bao biến cố xảy đến, dù bị đẩy đến nghịch cảnh nằm ở sự kiên trì và một niềm tin bất biến. Hay cao hơn, thứ có trong Roark là một đức tin, đức tin vào chính mình. Roark chưa bao ngờ nghi ngờ con đường mà mình lựa chọn kể cả khi bị xã hội lăng mạ và tước đoạt đi tất cả. Và trong Suối nguồn, sự kiên trì này đã chiến thắng, Roark có được thành tựu xứng đáng cho tài năng của mình. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Suối nguồn của Ayn Rand phần 4
Quan niệm nghệ thuật về con người trong Suối nguồn Bi kịch lớn nhất của con người là không được sống đúng với chính mình: Suối nguồn có một hình thức kì lạ, khối lượng đồ sộ của 1200 trang được xếp đặt vào 4 phần, mỗi phần lần lượt được kể theo góc nhìn của một nhân vật (Peter Keating, Ellsworth M. Toohey, Gail Wynand, Howard Roark). Dù hình tượng trung tâm được xây dựng là Howard Roark, tác giả vẫn dành phần lớn thời gian trần thuật cho các nhân vật còn lại. Nếu như Roark là đại diện cho con người cá nhân lí tưởng thì hệ thống nhân vật khác lại được đặt ở thế tương phản, là những người hoặc bị cuốn theo cộng đồng, hoặc lợi dụng đám đông để có được tiền bạc, danh tiếng, hoặc bị hiện thực xô đẩy và sa ngã. Ayn Rand đã thành công xuất sắc trong việc xây dựng nhân vật điển hình, Peter Keating, Ellsworth M. Toohey, Gail Wynand hay bất cứ ai khác trong Suối nguồn đều dễ dàng làm ta liên tưởng tới ai đó, một nhóm người nào đó ngoài xã hội. Họ được thể hiện những nét tính cách, hành động và tâm lí một cách phong phú và phức tạp, tạo thành những kiểu mẫu đáng nhớ và không dễ nhầm lẫn; nhưng những nhân vật này đều có một điểm chung – đi theo dấu chân của kẻ khác, không thể hiện những thứ thuộc về chính mình. Ayn Rand dùng cụm từ “những kẻ sống thứ sinh” (second - handers) để gọi chung cho tất cả. Peter Keating là hình mẫu đầu tiên được mô tả: ngôi sao của học viện Stanton, tốt nghiệp với bằng xuất sắc và dần gây dựng được danh tiếng của mình như một kiến trúc sư danh giá. Keating thuộc kiểu người mà nếu chỉ nhìn những thứ bên ngoài thì sẽ lầm tưởng đây là một con người hoàn hảo từ ngoại hình cho đến tài năng và cách ứng xử, là người dễ dàng tạo thiện cảm cho người khác nhờ sự giao tiếp khéo léo, là cũng là người đáng ngưỡng vọng khi có được tất cả những thứ mà mọi người đều khao khá – tiền bạc, danh tiếng, quyền lực, một người vợ xuất sắc. Nhưng trái ngược lại với sự hào nhoáng bên ngoài ấy, khi cốt truyện được kể dưới điểm nhìn của Peter Keating, ta thấy luôn hiện lên với dáng vẻ thấp hèn và bí bách. Cuộc đời của Peter bị chi phối bởi người mẹ luôn đặt kì vọng lớn và chối bỏ tài năng cũng như nguyện vọng trở thành họa sĩ của con mình. Peter Keating có tất cả, nhưng không thứ nào thực sự thuộc về anh ta. Anh ta tạo nên danh tiếng từ những bản thiết kế mà người làm ra nó lại là Roark – kẻ bị xã hội chối bỏ, có một người vợ xinh đẹp và cao quý nhưng không yêu anh ta, và cũng không phải người anh ta yêu. Keating đã luôn sống theo ánh nhìn của người khác, dễ dàng thỏa hiệp, tất cả những gì anh ta làm là trở nên giống với quy chuẩn mà xã hội yêu cầu. Đổi lại, cái giá phải trả cũng vô cùng đau đớn: ước mơ, tình yêu và phẩm cách. Đến cuối tác phẩm, dù Peter vẫn cứ là một kiến trúc sư có tiếng nhưng khung cảnh anh ta cố thử tìm lại chính mình một cách muộn màng đã tạo nên điểm kết cho khối bi kịch. Đã quá trễ để quay trở lại, Peter Keating đã bị mài mòn hoàn toàn, không thể theo đuổi giấc mơ, không thể đến với người mình yêu, anh ta chỉ có thể tiếp tục sống cuộc đời của kẻ khác, sống trong đau khổ và trống rỗng. Con người có khả năng ý thức về chính mình: Văn học hiện đại và hậu hiện đại nói chung đều tạo ra những nhân vật với nội tâm sâu sắc và phức tạp thông qua những sự đối thoại với chính mình, nhưng ở Suối nguồn, yếu tố này thậm còn được đẩy cao tuyệt đối đến mức các nhân vật không còn giống với con người trong thực tế. Hầu như tất cả những nhân vật trong Suối nguồn đều có khả năng ý thức về con người bên trong của mình ở tầng sâu thẳm nhất. Yếu tố này có thể được thể hiện ở rất nhiều phương thức khác nhau, có khi nằm trong lời đối thoại giữa các nhân vật, có khi ở những trường đoạn độc thoại nội tâm, có lúc ở hành động,... Catherine Halsey - người yêu của Peter Keating - được xây dựng như một kẻ u mê, bị thao túng bởi Ellsworth Toohey. Phần lớn thời gian Catherine đều thấy Toohey là người đáng kính (như cách mà xã hội này đang ca ngợi) nhưng trong một vài khoảnh khắc, cô đã cảm thấy con người này thật đáng sợ, và những hoa ngôn thốt ra từ con người vĩ đại ấy đều là dối trá. Khoảnh khắc tỉnh thức lóe lên trong chớp nhoáng nhờ trực cảm mạnh mẽ, nhưng lại nhanh chóng bị nhấm chìm bởi định kiến cố hữu. Peter Keating cũng đã từng muốn cưới Catherine và bỏ trốn cùng cô, vì đây là người anh yêu và cũng là người yêu anh nhất, nhưng đến cuối cùng lại quyết định cưới Dominique – người phụ nữ xuất sắc đến không tưởng nhưng vô cùng coi thường anh. Cách xây dựng mối quan hệ của nhân vật diễn ra vô cùng kì lạ vì sự tự ý thức rõ nét đến bất thường này, các nhân vật hiểu thấu chính mình và cũng hiểu thấu lẫn nhau, nhưng lựa chọn chối bỏ nó và hành động theo cách mà xã hội này quy định. Hành trình của nhân vật luôn là sự đấu tranh giữa việc làm theo ước muốn cá nhân hay làm theo quy chuẩn của cộng đồng, là sống đúng với chính mình hay sống nương theo ý chí của kẻ khác. Suối nguồn dù đã tạo dựng hệ thống sự kiện vô cùng phong phú và gay cấn, nhưng thứ ác liệt nhất không phải là xung đột của thế giới bên ngoài mà xung đột của không gian bên trong, là những khoảnh khắc nhân vật đứng trước những ngã rẽ cuộc đời và phải đưa ra sự lựa chọn. Peter Keating biết rõ mình chỉ là kẻ ăn bám, Gail Wynand biết cũng biết rõ mình chỉ là kẻ dối trá. Do xung đột gay gắt giữa hiện thực và ước muốn, các nhân vật cố gắng che giấu đau khổ bằng sự phù hoa của danh tiếng và quyền lực. Cũng vì thế mà khi đối diện với Roark, tất cả đều có một sự sợ hãi vô hình dù con người này bị xã hội nhìn nhận như kẻ gàn rở, thứ đáng bỏ đi. Sự tồn tại của Roark – kẻ theo đuổi ước muốn thuần khiết và tự do tuyệt đối – đã bóc trần sự kiêu ngạo giả dối cùng cái bất lực của kẻ không được sống đúng với mong ước của mình. Người ta kính sợ Roark nhưng lại muốn đạp anh xuống, bắt anh quy phục, muốn nhìn thấy anh đau khổ; bởi lẽ con người này quá khác biệt với họ, cách sống của anh là điều mà họ vĩnh viễn không thể đạt tới. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Suối nguồn của Ayn Rand phần 3
TÓM TẮT: Sự xuất hiện của thi pháp học hiện đại tại Việt Nam đã mở ra những hướng nghiên cứu mới cho phê bình văn học, một trong số những bình diện được chú ý là quan niệm nghệ thuật về con người. Nếu ta đồng tình với câu nói “Văn học là nhân học” của Maxim Gorky thì cũng có nghĩa ta thừa nhận tác phẩm văn học nào cũng sẽ ẩn trong mình một quan niệm nghệ thuật về con người. Với tiểu thuyết Suối nguồn của Ayn Rand, yếu tố này lại càng chính xác. Thông qua hơn 1200 trang văn đầy lôi cuốn, thứ gây chấn động chính là một tuyên ngôn vô cùng mãnh liệt về cách con người ta “nên là” và “sẽ là”. Cụ thể hơn, Suối nguồn ca ngợi con người cá nhân và dựng lên một hình mẫu con người cá nhân lí tưởng - Howard Roark. Đi theo hành trình của tác phẩm, ta thấy quan niệm ấy được thể hiện rõ ràng thông qua sự giao thoa giữa nhân vật trung tâm – con người đi theo chủ nghĩa các nhân tuyệt đối - và hệ thống nhân vật khác – những người bị cuốn theo đám đông và hành động theo ý chí của kẻ khác. Từ khóa: Suối nguồn, quan niệm nghệ thuật về con người, chủ nghĩa cá nhân, văn học lãng mạn, con người lí tưởng,... 1. Đặt vấn đề Trong lời giới thiệu cho lễ kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản Suối nguồn, tác giả Ayn Rand đã nói rằng: “Mục đích của tôi – mục đích cơ bản và rốt ráo nhất – là khắc họa chân dung Howard Roark như cái đích tự thân.” Ayn Rand đã luôn nhắc nhiều đến con người và những gì thuộc về con người trên mọi khía cạnh và ở những tầng sâu nhất. Có thể nói, thế giới và hệ thống nhân vật được xây dựng trong Suối nguồn là công cụ để nhà văn bày tỏ quan điểm của mình về bản chất của con người, mối quan giữa con người cá nhân với tập thể xã hội, cách con người nên sống và nên là... Vì lẽ đó, nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người là hướng tiếp cận phù hợp để khai thác tác phẩm dưới góc độ của chủ thể sáng tác và đóng góp của nó trong việc đưa ra một cách nhìn nhận mới về đời sống. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Suối nguồn của Ayn Rand phần 2
“Tha thứ là tôn giáo vĩ đại nhất. Khoan dung là tôn giáo tốt nhất.” Victor Hugo đã từng nói vậy để thức tỉnh mỗi chúng ta về một lẽ sống, một thái độ sống khiến con người ta có thể xóa tan những hận thù, những ganh ghét để tâm hồn ta trở nên bình yên, nhẹ nhõm. Chính sự vị tha, bao dung – những tôn giáo vĩ đại, những liều thuốc cho tâm trí con người sẽ khiến ta nhìn nhận cuộc sống thêm tích cực. Để rồi khi nhìn lại hành trình sống của mình - hành trình hoàn thiện cuốn hồi ký của mỗi năm tháng trong cuộc đời, ta sẽ buông bỏ những hơn thua, tính toán mà tự hào, mãn nguyện với những điều đẹp đẽ ở lại. Đó chính là lòng vị tha và bao dung. Lòng vị tha và bao dung là những phẩm chất đạo đức quan trọng, biểu hiện qua khả năng chấp nhận và tha thứ cho những lỗi lầm, khuyết điểm của người khác mà không giữ lại sự oán giận hay thù hận. Vị tha là sự sẵn lòng tha thứ, bỏ qua những sai lầm của người khác, không để những lỗi lầm đó ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ và cảm xúc của bản thân. Và bên cạnh đó, bao dung là khả năng rộng lượng, chấp nhận những khác biệt về quan điểm, lối sống và cá tính của người khác, đồng thời không phán xét hay kỳ thị. Cả hai phẩm chất này đều có những tác động tích cực với mỗi con người. Với cá nhân, khi tha thứ cho người khác, chúng ta giải phóng mình khỏi những cảm xúc tiêu cực như oán giận, thù hận và cay đắng. Những cảm xúc này nếu tồn tại lâu dài có thể gây ra stress, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe tinh thần và thể chất. Nhiều nghiên cứu tâm lý học đã chỉ ra rằng, những người biết tha thứ thường có sức khỏe tâm lý tốt hơn, ít bị căng thẳng và trầm cảm hơn. Tha thứ còn giúp chúng ta giải tỏa tâm trí, từ đó có thể tập trung vào những điều tích cực và ý nghĩa hơn trong cuộc sống. Điều này không chỉ giúp chúng ta sống thanh thản mà còn tăng cường sự tự tin và lòng tự trọng. Và hơn thế, khi biết bao dung, độ lượng với những lỗi lầm của người khác hay chính bản thân ta cũng học được cách chấp nhận và yêu thương chính mình, từ đó tạo ra một cuộc sống cân bằng và hạnh phúc hơn. Hơn vậy, lòng vị tha cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cá nhân. Khi tha thứ, chúng ta không chỉ giải phóng mình khỏi những cảm xúc tiêu cực mà còn học được cách đồng cảm và hiểu biết sâu sắc hơn về người khác. Điều này giúp chúng ta phát triển những kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội tốt hơn, bởi một người biết tha thứ, biết đồng cảm với những lầm lỗi của người khác sẽ luôn được yêu quý, tôn trọng. Hơn thế, lòng vị tha còn là nền tảng giúp chúng ta rèn luyện, phát triển những phẩm chất đạo đức quan trọng như lòng nhân ái, sự kiên nhẫn và khả năng tự kiểm soát. Những phẩm chất này không chỉ giúp chúng ta sống tốt hơn mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự thành công trong cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp. Rộng hơn phạm vi cá nhân, lòng vị tha còn có tác động to lớn đối với cộng đồng. Một xã hội mà trong đó mọi người biết tha thứ và bỏ qua những lỗi lầm của nhau sẽ trở nên ngày càng hòa bình và phát triển. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh xã hội hiện đại, nơi sự đa dạng về văn hóa, tín ngưỡng và lối sống có thể dẫn đến nhiều xung đột và hiểu lầm. Mọi người biết tha thứ và chấp nhận lẫn nhau sẽ tạo ra môi trường sống hòa bình và hài hòa - nơi mỗi cá nhân đều có thể phát triển và cống hiến hết mình cho xã hội. Đó cũng là cách đất nước Việt Nam ta – đất nước bước ra từ chiến tranh với biết bao những vết thương vẫn còn rỉ máu tới hiện tại đã gác lại quá khứ, tha thứ cho những xung đột trong quá khứ để hướng tới sự kết nối hòa bình. Nước ta trên quan điểm tôn trọng quá khứ,bày tỏ thiện chí hòa nhập để rồi giờ đây từ những phe đối địch với cách nước như Pháp, Mĩ, Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa đôi bên để hợp tác cùng phát triển. Chính sự bao dung, vị tha với những mâu thuẫn trong quá khứ ấy đã không chỉ hàn gắn vết thương chiến tranh mà còn giúp đất nước ngày càng được phát triển. Sự vị tha, bao dung có những tác động tích cực chẳng thể bàn cãi, nhưng tiếc thay vẫn có những người luôn sống trong thù hằn, ganh ghét. Họ luôn bị những suy nghĩ ganh đua, so sánh chi phối mà quên đi rằng cuộc sống còn nhiều điều tích cực, đáng giá hơn để theo đuổi. Lối sống như vậy sẽ khiến họ chẳng thể thoát ra khỏi ao tù của sự tiêu cực mà chẳng thể giữ cho bản thân một tâm hồn bình yên, nhẹ nhõm. Trong đạo Phật, Đức Phật đã răn dạy, tha thứ không chỉ là giải phóng người khác khỏi tội lỗi mà còn là giải phóng chính mình khỏi những khổ đau và ràng buộc. Đúng vậy, những giá trị này không chỉ giúp cá nhân sống đúng với những phẩm chất đạo đức cao đẹp mà còn góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và hạnh phúc. Chúng ta hãy sống biết thứ tha, biết thông cảm để thấu hiểu nhau hơn. Và hãy để sự bao dung, vị tha từ trái tim soi tỏ cho những lầm lỗi, tiêu cực, tăm tối để tâm hồn được thanh thản.
"Tôi là người nghĩa là một kẻ chiến đấu" - Goethe đã nói như vậy gợi nhắc mỗi chúng ta đến bản chất kiên cường, dũng cảm của con người trong cuộc sống - nơi thực sự là một trường tranh đấu, nơi mà mỗi cá nhân phải không ngừng đấu tranh, không chỉ với ngoại cảnh mà còn với chính bản thân mình. Trước hết, ta hiểu đấu tranh tức là quá trình hoặc hành động đối đầu, vượt qua những khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu của bản thân, nó thể hiện ở sự nỗ lực, kiên định của con người trong con đường mình lựa chọn. Chúng ta có thể nhận ra rằng trái đất là một trường chiến đấu vô cùng to lớn và khắc nghiệt, ở mọi nơi, ở mọi loài, sự đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau để sinh tồn là lẽ tự nhiên, cá lớn nuốt cá bé, chúa sơn lâm ăn thịt những loài non yếu, tất cả các sinh vật phải luôn lo âu, cảnh giác, tránh đụng chạm đề có một cuộc sống bình yên, đế không trở thành một con mồi ngon cho những loài khác. Vậy tranh đấu có ý nghĩa gì với cuộc đời mỗi chúng ta? Tranh đấu giúp chúng ta trưởng thành và phát triển bản thân. Mỗi lần vượt qua một thử thách, chúng ta không chỉ đạt được mục tiêu mà còn học hỏi thêm nhiều bài học quý giá. Những lần vấp ngã, thất bại giúp chúng ta rèn luyện sự kiên nhẫn, bền bỉ và quyết tâm. Bởi vậy, tranh đấu là quá trình tự hoàn thiện, giúp con người trở nên mạnh mẽ và vững vàng hơn trước mọi khó khăn của cuộc sống. Tranh đấu cũng là cách để ta khẳng định bản thân và tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Khi đối mặt với những trắc trở, chúng ta không chỉ chiến đấu vì bản thân mà còn vì những người thân yêu, vì cộng đồng. Những cuộc đấu tranh ấy giúp chúng ta nhận ra sức mạnh nội tại, khám phá ra những khả năng tiềm ẩn mà trước đây ta chưa từng biết đến. Hãy nhớ đến Thomas Edison - người phát minh ra bóng đèn đã thất bại hàng ngàn lần trước khi thành công. Ông đã chiến đấu không ngừng nghỉ, và chính nhờ sự kiên trì, ông đã mang lại ánh sáng cho toàn thế giới. Nhưng cũng có những người lại luôn đi ngược lại với điều đó, họ không có ý chí, hèn nhát, thấy khó đã nản, điều ấy thật đáng trách, và chính họ cũng tự lãng phí đi khả năng và cơ hội của mình. Cuộc sống hiện đại với nhiều áp lực và thách thức cũng đòi hỏi mỗi chúng ta phải không ngừng đấu tranh. Đấu tranh để giữ vững những giá trị đạo đức, để không bị cuốn vào vòng xoáy của sự gian dối, đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của bản thân, để không bị xã hội làm lu mờ những giá trị cá nhân. Mỗi người chúng ta đều có những cuộc chiến riêng, và chính những cuộc chiến ấy mới làm nên giá trị thực sự của cuộc sống.
Trong thi phẩm “Phố ta”, Lưu Quang Vũ từng viết những dòng đầy chiêm nghiệm: Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa Tại sao cây táo lại nở hoa Sao rãnh nước trong veo đến thế? Có lẽ giữa cuộc đời với biết bao những ngổn ngang, trăn trở, đầy những so tính, thiệt hơn thì vẫn luôn còn đó là những tiếng chim hót chào ngày mới, những cơn mưa hối hả ngày hè, những câu chào nồng hậu, từng nụ cười thơ ngây và muôn vàn điều khác luôn tồn tại. Đó chính là những điều tốt đẹp vẫn luôn hiển hiện, để mỗi chúng ta có được sự lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Và cũng chính sự lạc quan ấy sẽ là chìa khóa để ta được sống vui, sống hạnh phúc, để ta luôn thấy “cây táo lại nở hoa”, thấy “rãnh nước trong veo đến thế”. Đó là sức mạnh của tinh thần lạc quan với mỗi người. Trước hết, có thể hiểu tinh thần lạc quan là một trạng thái tinh thần tích cực giúp con người nhìn nhận cuộc sống từ những khía cạnh tích cực trong mọi tình huống. Đó không chỉ đơn giản là một thái độ, tinh thần lạc quan mà còn là một lối sống, một triết lý giúp con người vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội và đạt được thành công trong cuộc đời. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nơi mà con người ngày ngày phải đối diện với biết bao thử thách và áp lực của trong nhịp xoay chuyển không ngừng của cuộc sống, thì tinh thần lạc quan trở nên càng quan trọng hơn bao giờ hết đối với đời sống vật chất cũng như tinh thần của mỗi người. Có thể thấy rõ, nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra người có tinh thần lạc quan thường ít bị căng thẳng, trầm cảm và lo âu hơn. Họ có khả năng phục hồi nhanh chóng sau những cú sốc tinh thần và sống một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Bên cạnh đó, lạc quan còn giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và kéo dài tuổi thọ. Điều này cho thấy, lạc quan không chỉ mang lại lợi ích về mặt tinh thần mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe tổng thể của con người. Tiếp đó, ta thấy tinh thần lạc quan là nguồn sức mạnh tinh thần giúp chúng ta đối mặt và vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Khi gặp khó khăn, người lạc quan thường có xu hướng tìm ra những giải pháp tích cực và không dễ dàng bị khuất phục, thay vì chìm đắm trong lo âu và tuyệt vọng, họ nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và tìm cách khắc phục. Họ không sợ thất bại mà coi đó là cơ hội để học hỏi và trưởng thành. Sự tự tin và quyết tâm này giúp họ vượt qua mọi trở ngại và đạt được những thành tựu đáng kể. Người có trong mình sự lạc quan, luôn cầu tiến sẽ biết nhìn nhận ra những cơ hội trong khó khăn, sẽ nhìn ra nơi ánh sáng ngập tràn trong đường hầm tăm tối, sẽ hiểu rằng khó khăn và thành công chính là bàn đạp nối đuôi nhau đưa họ tới những mục tiêu của mình. Cũng chính bởi vì vậy, lạc quan như một bệ đỡ trong tinh thần, giúp họ vượt qua những khó khăn, thử thách. Bàn về điều này, ta không thể không nhắc tới Helen Keller – nhà văn, nhà hoạt động xã hội mù điếc người Mỹ. Tuy sống trong thế giới không ánh sáng âm thanh nhưng Keller vẫn là người phụ nữ tràn đầy tinh thần lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống. Bà đã tới hơn 70 bệnh viện để an ủi bệnh nhân, động viên họ và trong suốt cuộc đời mình và tin rằng: “Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.”. Helen Keller chỉ là một trong số rất nhiều những tấm gương tiêu biểu ngoài kia về lòng yêu cuộc sống, sự lạc quan trong cuộc sống Tuy vậy, vẫn có một số người luôn ủ rũ, bi quan, họ mất niềm tin vào cuộc sống. Cũng bởi vậy mà họ sống tẻ nhạt, luôn u sầu vì không tìm được những điều tốt đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống. Họ tin rằng cuộc sống chỉ toàn là màu xám xịt mà không biết rằng vốn dĩ sắc xám cũng là một gam màu cần có trong bức tranh tổng thể đa màu của cuộc sống. Duy trì một lối sống như vậy sẽ thật đáng tiếc! Cuộc sống bên cạnh những đêm bão giông là những ngày ngập nắng, không có cơn mưa nào là mãi mãi và cũng chẳng có tia nắng nào là trường tồn, cuộc sống có tốt đẹp, có những cơ hội hay không phụ thuộc vào tinh thần lạc quan, phụ thuộc vào lăng kính mà bạn lựa chọn để nhìn thế giới này. Hãy luôn mỉm cười trước những khó khăn, hãy tận hưởng trọn vẹn phút giây hạnh phúc, “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ khuất sau lưng bạn” (Walt Whitman)
Em hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn về ý kiến của Steve Godier “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Lòng nhân ái, theo quan điểm của Steve Godier, đó là biểu hiện cao đẹp nhất của con người. Trong xã hội ngày nay, sự nuôi dưỡng và phát triển lòng nhân ái ngày càng trở nên quan trọng. Nhân ái không chỉ đơn thuần là sự yêu thương, mà còn là trao đi tình cảm vô điều kiện, không vụ lợi cá nhân. Đó chính là cầu nối gắn kết tâm hồn, làm cho những người xa lạ có thể gần nhau hơn. Từ thời xa xưa, lòng nhân ái đã là nền tảng quan trọng của truyền thống văn hóa. Câu "lá lành đùm lá rách" hay "Thương người như thể thương thân" là những bài học quý giá được lưu truyền đời đời và luôn giữ nguyên giá trị. Trong chiến tranh, tình yêu thương đã trở thành động lực mạnh mẽ, giúp dân tộc vượt qua những thử thách khó khăn. Ngày nay, lòng nhân ái vẫn cần thiết khi chúng ta đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Mỗi năm bão lũ đi qua đã để lại bao mất mát và tổn thất cho nhiều gia đình, nhờ tấm lòng nhân ái mà đã vơi đi những nỗi mất mát ấy để giúp họ trở lại cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những thái độ vô cảm, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân. Cần lên án những hành động lợi dụng lòng tốt để đạt được mục đích cá nhân. Bằng cách hỗ trợ nhau, chúng ta có thể xây dựng một xã hội đầy lòng nhân ái, nơi mà mọi người sống yêu thương và chia sẻ, làm cho tâm hồn mỗi người trở nên phong phú và đẹp đẽ hơn.
Lý thuyết Xưng hô trong hội thoại Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất tinh tế, phong phú và giàu sắc thái biểu cảm Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp. (Người nói phải hết sức chú ý) Từ ngữ xưng hô trong Tiếng Việt rất phong phú, có các đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi, chúng ta…) Tiếng Việt còn sử dụng các danh từ chỉ quan hệ họ hàng, ruột thịt (bố, mẹ, anh, chị, cô, dì, ...); các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (sếp, thủ trưởng, bác sĩ, giáo viên, ...); và cả tên riêng để xưng hô Biết lựa chọn từ ngữ xưng hô một cách thích hợp để thể hiện một cách văn hóa, lịch sự. Vi dụ: Chúng ta là những người bạn tốt
Liên kết câu và liên kết đoạn văn Lý thuyết Các câu trong đoạn văn cũng như đoạn văn trong một văn bản phải liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức - Liên kết nội dung bao gồm + Liên kết chủ đề: các câu phải hướng tới chủ đề chung của đoạn văn, các đoạn văn phải hướng tới chủ đề chung của văn bản + Liên kết logic: Các câu, các đoạn văn phải được sắp xếp hợp lý, phù hợp với trình tự triển khai chủ đề của đoạn văn, của văn bản - Liên kết hình thức + Phép lặp từ ngữ: lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước đó Ví dụ: Trời xanh thăm thẳm, biển cũng xanh thăm thẳm như dâng cao, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịtt nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giậ n dữ. (Vũ Tú Nam) + Phép thế: sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước đó Ví dụ: Tên trộm lẻn vào nhà ăn cắp, tôi phát hiện ra, hắn đã chạy. + Phép nối: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước đó Ví dụ: Bác Hồ đã dạy cán bộ phải liêm chính, chí công, vô tư nhưng vẫn có nhiều cán bộ không thực hiện được điều đó. + Phép trái nghĩa, đồng nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước. Ví dụ: “Tôi là cô gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tố n, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dài, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm” (Lê Minh Khuê) Lưu ý: - Liên kết câu và liên kết đoạn cùng sư dụng phương tiện liên kết (phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng…) - Tất cả các phương tiện liên kết phải nằm ở các câu khác nhau, nếu nội tại trong câu thì không phải là phép liên kết - Đối với liên kết đoạn, ngoài việc sử dụng từ ngữ liên kết còn sử dụng câu liên kết. Câu dùng để liên kết gọi là câu nối. Câu nói thường được viết như sau: + Như chúng ta đã biết…sau đây… + Ở trên…phần tiếp theo… + Trên đây…dưới đây… + Trở lên trên…còn phần sau đây
Giải thích nhan đề bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nhan đề bài thơ dài nhưng độc đáo, ấn tượng, viết về đề tài người mẹ. - Khúc hát ru: là một âm hưởng quen thuộc gợi ngọt ngào sâu lắng trong tâm hồn bạn đọc. Khúc hát gợi lên sự dịu êm của tình mẹ. - Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ rất thực (gợi ra hình ảnh những bà mẹ vùng cao các dân tộc thiểu số thường địu con khi lao động hay làm bất cứ việc gì) gợi ý nghĩa sâu xa, lớn lao về sự vĩ đại của người mẹ. Từ đó, ca ngợi người mẹ miền núi nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung, bình dị nhưng vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống chống Mĩ cứu nước.
Chỉ ra những từ láy được sử dụng trong khổ thơ và cho biết tác dụng của các từ láy này trong việc thể hiện mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình? Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng chư là đồng là bể như là sông là rừng... Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình. Các từ láy: rưng rưng, phăng phắc, vành vạnh. - Tác dụng: + “Rưng rưng”: gợi cảm xúc nghẹn ngào, muốn khóc mà không thể khóc, diễn tả tâm trạng con người khi đối diện với trăng. + “Vành vạnh”: gợi tả dáng vẻ tròn đều và đầy đặn, biểu tượng cho sự trọn vẹn, thủy chung quá khứ nghĩa tình của thiên nhiên + “Phăng phắc”: nhấn mạn h trạng thái im lặng đến mức không có một tiếng động dù là nhỏ nhất, gợi liên tưởng đến cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của trăng - người bạn thủy chung, tri kỉ và quá khứ ân tình. - Tác giả: nhìn nhận sự việc sâu sắc, từ câu chuyện riêng nâng lên thành triết lý trong cuộc sống: Chúng ta cần biết trân trọng quá khứ và người cùng bên mình khi gian khổ, khó khăn. Đoạn thơ thuộc hình thức độc thoại nội tâm vì: đây là những lời tâm sự trong lòng tác giả, không đượ c phát ra thành lời - Tác dụng: cho thấy những day dứt, trăn trở của người thi nhân khi đối mặt với vầng trăng. Nhận ra sự bội bạc của mình với quá khứ thủy chung và tình nghĩa.
Hình ảnh trăng trong bài thơ Ánh trăng Hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa như thế nào? Vì sao khổ cuối nhà thơ lại sử dụng ánh trăng chứ không phải vầng trăng? Cách thay đổi hình ảnh trong thơ như vậy còn được bắt gặp trong bài thơ nào? Của ai? - Ý nghĩa của hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa rất sâu sắc: + Là biểu tượng cho thiên nhiên quê hương đất nước hồn nhiên tươi mát và bình yên + Là người bạn (đồng đội, đồng bào) luôn đồng hành chia sẻ khi gian nan, thử thách + Là quá khứ nghĩa tình vẹn nguyê n không thay đổi + Là nhân chứng lịch sử vừa nghiêm khắc nhưng bao dung, độ lượng Khổ cuối sử dụng "ánh trăng" chứ không phải "vầng trăng" để nhấn mạnh vào ánh sáng tỏa ra từ vầng trăng có khả năng soi rọi vào tâm hồn người, khiến con người thức tỉnh... - Cách thay đổi hình ảnh như vậy em còn bắt gặp: Bếp Lửa –Bằng Việt (bếp lửa- ngọn lửa)
Song góc nhớ thương đó không làm cho người lính mềm lòng, nhụt chí mà nó còn thôi thúc, động viên người lính vững chí, cầm chắc tay súng để dành lại tự do cho dân tộc. Tình cảm đồng chí, đồng đội đặc biệt thể hiện ở tinh thần vượt khó, vượt khổ trong những câu thơ tiếp theo: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn ta y. Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, địa hình hiểm trở, cùng với sự thiếu thốn về vật chất. Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính và nghệ thuật sóng đôi đã khắc họa tới từng chi tiết khó khăn, gian khổ, đói rét, bệnh tật hoành hành. Có những người lính đã phải bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc bởi cơn sốt rét hành hạ mà không có một viên thuốc bên mình. Gian khổ là vậy, các anh đói, rét, chân không giày, đầu không mũ, áo phong phanh, quần rách, đêm nằm trên lá khô và chịu những cơn ớn lạnh của núi rừng Việt Bắc. Mặc dù vậy, nhưng các anh vẫn nở nụ cười trong buốt giá, nụ cười như cất lên tiếng ngợi ca tình đồng chí xoa đi cái lạnh giá của mùa đông, cái gian khổ trong kháng chiến chống Pháp. Viết lên những dòng thơ này, Chính Hữu không phải định kể khổ để làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Câu thơ nhẹ nhàng, giản dị, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến nhịp thơ như lắng lại. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự xót xa, cảm thông cho nhau. Chính trong tâm thế đó, những người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay thắm thiết, thân mật, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua sự giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần lời hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai người, khiến họ nở một nụ cười, dù là “buốt giá”. Chính nhà thơ Chính Hữu từng tâm sự: “Tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ sự gắn bó tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhớ lại tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động bồi hồi”. Cuộc chiến đấu trường kỳ, ác liệt, gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, sự đồng cảm giai cấp là nền tảng, là cơ sở duy nhất để tồn tại, tiếp sức cho nhau tiếp tục chiến đấu hướng đến thắng lợi cuối cùng Ba câu thơ tiếp theo cũng là câu kết thúc bài thơ đã khắc họa một bức chân dung của người lính trong đêm canh gác ở rừng. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Hai câu thơ đầu là hình ảnh thực của người lính trên chiến hào truy kích giặc, câu thơ đã thể hiện tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách và gian lao với phông nền “rừng hoang sướng muối” đầy khắc nghiệt của thiên nhiên. Hình ảnh đôi bạn chiến đấu "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" tạo nên tư thế vững chãi nương tựa vào nhau. Song giữa họ còn có người bạn thứ ba đồng hàn h trong những đêm phục kích, đó là trăng. Hình ảnh trăng bát ngát, chông chênh trên nền trời, rồi trăng cứ xuống thấp dần soi sáng tình đồng chí của người lính và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm như thế, vầng trăng đối với người lính như một người bạn tri kỉ. Suốt bài thơ là bút pháp tả thực nhưng đến câu kết hiện thực đã pha chút lãng mạn, thơ mộng giữa cảnh vật và tâm hồn. Tâm hồn người lính không khô khan trước chiến tranh khốc liệt mà vẫn thấy rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên. Vì thế, súng và trăng, thực và mộng, thi sĩ và chiến sĩ đã hòa quyện tạo nên nét đẹp thơ mộng, tạo nên tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng giữa cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” là biểu tưởng cho lửa đạn chiến tranh, cho sự khốc liệt mà con người không muốn nghĩ đến. Còn “trăng” biểu tượng thiên nhiên cho sự hòa bình mà con người luôn khao khát. “Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ độc đáo, bất ngờ và hay nhất là điểm nhấn cho đoạn thơ, là điểm sáng cho toàn bài thơ. Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí của người lính, là biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ trong gian đoạn kháng chiến đầy gian khổ. Kết bài: Hình tượng người lính trong tác phẩm hiện lên qua bài thơ thật giản dị, chân thực và giàu sức biểu cảm. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tự nhiên, bình dị, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên mộc mạc, thi vị, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những câu văn sóng đôi, những hình ảnh biểu trưng, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí, đồng đội. Lịch sử chiến tranh đã đi vào dĩ vãng nhưng bài thơ về tình đồng chí có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai và mãi mãi về sau. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 1
Mở bài: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm - Giới thiệu vấn đề nghị luận Hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp là đề tài được nhiều thi nhân và văn nhân quan tâm. Đó là những anh hùng áo vải, sẵn sàng hi sinh tính mạng cho sự nghiệp của Tổ quốc. Trong những thi nhân đó ta phải kể đến nhà thơ Chính Hữu với tác phẩm nổi tiếng là Đồng Chí. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về đề tài người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc Thân bài: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948 - thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị để giới thiệu về xuất thân của người lính, họ hiện lên là những người có chung hoàn cảnh vất vả, khó khăn. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn que n nhau Chính Hữu tuy không chỉ đích danh, quê quán nơi cư trú từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất xuất thân của người lính, câu thơ cũng giống như lời giãi bày tâm sự. Họ là những người đến từ mọi miền tổ quốc từ đồng bằng ven biển ngập mặn cho đến vùng trung du miền núi với đất đá khô cằn. Quê hương xa cách nhau mỗi người một nơi nhưng cùng chung một cái nghèo, cái lam lũ, khó nhọc của người dân thời kháng chiến. Những nét tương đồng đó đã khiến họ từ xa lạ đã gắn kết, xích lại gần nhau, họ đã trở thành bạn bè thân thiết và cùng hàng ngũ cách mạng có chung lí tưởng. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” được tác giả sử dụng điệp từ và hoán dụ đã diển tả đầy đủ và trọn vẹn sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ. Hình ảnh “súng bên súng” đã diễn tả những người lính có cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ cách mạng vì sự nghiệp giải phóng cho quê hương, dất nước. Còn hình ảnh “đầu bên đầu” là cách nói hoán dụ tượng trưng cho sự gắn bó, kề vai sát cánh, sống chết có nhau. Khi màn đêm buông xuống cái rét của đêm rừng Việt Bắc đã cho thấy sự sẻ chia, đồng cảm của tình đồng đội, họ cùng đắp một tấm chăn mỏng để xoa đi cái lạnh buốt giá, cái khó khăn, gian khổ của núi rừng. Tấm chăn mỏng đã sưởi ấm tinh bạn, tình đồng chí và họ đã trở thành tri kỉ. Đồng chí! Một câu kết thúc đoạn rất đặc biệt cùng với dấu chấm cảm như một lời khẳng định tình đồng chí thật thiêng liêng và cao quí. Và tất cả sự sẻ chia, đặc biệt ấy là cơ sở cho tình đồng đội, đồng chí của toàn bài thơ, đồng thời nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc. Những câu thơ tiếp theo tác giả đã tiếp tục mở ra những biểu hiện cụ thể và cảm động về tình đồng chí giữa những người lính trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, từ đồng cảnh họ thành đồng cảm. “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Nếu chiến tranh không xảy ra thì họ vẫn là nhũng người nông dân “chân lấm tay bùn” nhưng khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc, họ lên đường theo tiếng gọi của non sông và họ đã trở thành người cách mạng. Ruộng nương, nhà cửa gửi lại hậu phương là những người bạn ở nhà. Hình ảnh “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” gây xúc động đến nao lòng. Nhà trống, không tài sản, xiêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó đến tận cùng của người lính. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người dân quê chất phác vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, mạnh mẽ, dứt khoát vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng ra đường hi sinh cho dân tộc. Họ lên đường vì nghĩa lớn nhưng quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Nói quê hương nhớ người lính là hình ảnh nhân hóa nhưng thực chất là người đi lính nhớ nhà, nhất là gốc đa, giếng nước, mái đình, nơi hò hẹn mỗi mùa trăng về, nơi chứng kiến cuộc chia ly buổi lên đường... những kỉ niệm ấy luôn neo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau, đồng cảm niềm vui, nỗi buồn. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 2
Thơ hiện đại Việt Nam STT Tên văn bản Tác giả Nội dung Nghệ thuật 1 Đồng chí (1948) Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh - 1947, ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về chiến tranh và người lính với ngôn ngữ cô đọng, cảm xúc dồn nén Thể hiện tình đồng chí cao đẹp của những người lính dựa trên cở sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thât tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh. Góp phần tạo nên sức mạnh vè vẻ đẹp tinh thần người cách mạng. Những hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Biện pháp đối ngữ, sóng đôi được sử dụng rất thành công. 2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ của ông thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính Khắc họa nổii bật hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn thời kì chống Mĩ với tinh thần dũng cảm, tư thế hiên ngang và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Hình ảnh độc đáo, giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên. Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ làm giọng thơ sinh động. 3 Đoàn thuyền đánh cá (1958) Huy Cận (1919- 2005) tên là Cù Huy Cận, quê Hà Tĩnh. Ông nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập "Lửa thiêng". Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đạ i Việt Nam Bài thở là bức tranh rộng lớn, tráng lệ về thiên nhiên, vũ trụ và con người lao động trên biển cả. Nhà thơ bộc lộ cảm xúc, niềm vui, niềm tự hào trước cuộc sồng mới Nhiều hình ảnh sáng tạo và có sự liên tưởng, tưởng tượng Âm thanh khỏe khoắn, lạc quan 4 Bếp lửa (1963) Bằng Việt sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất, Hà Tây. Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ Những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành về những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng với gia đình, quê hương, đất nước -Biểu cảm kết hợp với tự sự, miêu tả và bình luận -Giọng điệu tâm tình, thiết tha, chân thành, tự nhiên. -Hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng 5 Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (1971) Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, trong một gia đình trí thức cách mạng, quê xã Thủy An, thành phố Huế. Ông thuộc nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc Tình yêu thương con của người mẹ dân tộc Tà- ôi gắn liền với tinh yêu nước và tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên. -Giọng thơ tha thiết, ngọt ngào, trìu mến Bố cục được đan xe thơ và lời hát ru tạo khúc hát ru tâm tình, sâu lắng 6 Ánh trăng (1978) Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh 1948, quê ở tỉnh Thanh Hóa. Ông là gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thờ i chống Mĩ cứu nước. Lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Nhắc nhở độc giả về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” Giọng điệu tự nhiên, tâm tình, hình ảnh giàu tính biểu cảm 7 Con cò (1962) Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định. Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam ở thế kỷ XX Bài thơ khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru, nhà thơ ca ngợi tinh mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống. Vận dụng ca dao vào bài thơ rất sáng tạo. Câu thơ mang tính cô đúc mang triết lí sâu sắc 8 Mùa xuân nho nhỏ (1980) Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành được góp mùa xuân nho nhỏ cua mình vào mùa xuân lớn của dân tộc Lời thơ trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp giản dị, gợi cảm những so sánh và ẩn dụ sáng tạo. 9 Viếng lăng Bác (1976) Viễn Phương (1928-2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác Giọng thơ trang trọng và tha thiết nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ bình dị và cô đúc. 10 Sang thu (1977) Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Cảm nhận của nhà trước sự chuyển mình của thiên nhiên cuối hạ sang thu Thể thơ năm chữ giàu sắc thái trữ tình, tự sự. Sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ tăng sức gợi cảm cho bài thơ 11 Nói với con (sau 1975) Y Phương (1948-2022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày; quê ở Trùng Khánh, Cao Bằng Bài thơ thể hiện tình cảm ấm cúng gia đình, ca ngợi truyền hống quê hương, dân tộc, gợi nhắc tình cảm gắn bó và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Ngôn ngữ mang sắc thái của người dân tộc vừa cụ thể, giàu hình ảnh, mang tính gợi cảm vừa giàu ý nghĩa sâu xa.
So sánh hình ánh trăng trong câu thơ “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu với hình ảnh trăng trong câu thơ “trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy. - Những nét giống nhau: + Đều là vẻ đẹp của thiên nhiên. + Gắn với hình tượng người lính trong kháng chiến, mang ý nghĩa biể u tượng (ẩn dụ) - Những nét khác nhau: + Hình ảnh “trăng treo” của Chính Hữu gợi mối liên tưởng đến giây phút bình yên nơi và hoang vắng nơi chiến trường, tượng trưng cho hòa bình mà con người đang khao khát trong tương lai; + “Trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy mang biểu trưng cho sự tròn đầy, thủy chung, nghĩa tình và sự bất tiện không bao giờ đổi thay.