Không gian chiếc thuyền Chiếc thuyền là không gian gắn liền với cuộc đời của gia đình ông Lư, chiếc thuyền rất quan trọng đối với ông, nó là nơi sinh sống của cả gia đình ông. Khi vợ ông mất, nó càng trở nên quan trọng hơn cả. Chiếc thuyền giống như vỏ kén, ôm chặt lấy ông Lư, mang cho ông cảm giác được an toàn, được vỗ về. Chiếc thuyền chính là tượng trưng cho những suy nghĩ cổ hủ, ích kỉ, đen tối của ông. Ông không chỉ giam mình trong không gian chật đẹp, u tối của chiếc thuyền mà ông còn giam giữ trái tim, sự tự do, khóa chặt, kìm hãm tương lai của những đứa con. Gia đình năm người cùng sống trong chiếc thuyền nhỏ, không chỉ có Chinh, mà Cát – con trai thứ ông Lư cũng cảm thấy ngột ngạt, bí bách: “Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù”. Cũng thấy rằng, ông Lư xuất phát xuất phát điểm là người cha tốt, ông muốn bảo vệ cho những đứa con của mình. Từ cái chết của vợ, ông nhận thấy sống ở trên bờ toàn những điều xấu xa, những người sống ở đó tàn ác, vô cảm. Nếu những đứa con ông “để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành trái tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác”. Ông Lư vì yêu vợ, thương con nên ông mới có những hành động và suy nghĩ như vậy. Ông Lư mang bi kịch của lòng tốt biến chất, từ một người đàn ông hiền lành, ông trở thành một kẻ ích kỉ, độc đoán, chỉ làm theo ý của mình, ép những đứa con phải sống cuộc đời giam hãm, tù đầy cũng giống như ông. Đến gần cuối của câu chuyện, khi phát hiện ra Chinh đã lên đất liền, gặp gỡ yêu đương để rồi có mang. Ông Lư “gầm lên”, “giáng một cái tát vào mặt cô”, tru tréo “Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi” và “vung rìu chặt đứt mái tóc”, “rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút”. Vẫn trên chiếc thuyền – nhà tù với song sắt vô hình ấy, một lần nữa lại thành công bắt nhốt Chinh, nhốt cả đứa con của Chinh, cả những nỗ lực thay đổi số phận của cô. Tất cả khung cảnh ấy hiện lên đen tối, mang màu ám ảnh, nỗi day dứt cho người đọc. Không gian cánh đồng hoa cải Không cánh đồng hoa cải là không gian thân thuộc của làng quê Việt Nam. Không gian rộng mở với cánh đồng hoa cải màu vàng tươi, trải dài khiến Chinh không thể rời mắt. Cánh đồng hoa cải xuất hiện khi cô mười bảy tuổi, đã trưởng thành, sẵn sàng rời xa vòng tay của người cha độc đoán. Cánh đồng hoa cải đánh dấu bước trưởng thành trong suy nghĩ và nhận thức của Chinh, thôi thúc Chinh đưa ra hành động táo bạo mang tính bước ngoặt - đó là làm trái lời cha. Khác với hai người anh hèn nhát, cũng thèm khát đôi bờ mà không dám vượt qua cái bóng quá lớn của người cha. Chinh dám đặt chân lên nền đất tơi, xốp, mềm mại, để được ôm lấy những chùm hoa cải ướt sương. Hành động táo bạo này thể hiện rõ tính cách mạnh mẽ, ương ngạnh, can đảm của Chinh, can đảm vượt qua định kiến cổ hủ của người cha để làm điều mà mình yêu thích. Cùng với đó, không gian cánh đồng hoa cải cùng với mà đêm là nơi gặp gỡ, se duyên cho Chinh và Thao. Cánh đồng hoa cải mang lại cho cả hai hạnh phúc vô bờ nhưng cũng chứa đựng biết bao sự dằn vặt, khổ đau. Ban đầu chàng trai phát hiện có người ngắt nham nhở luống hoa cải của mẹ mình và quyết tìm cho được kẻ phá hoại, ai ngờ đó là là Chinh – một cô gái mang vẻ đẹp khiến Thao ngây ngất. Từ đó, hai người vào những đêm trăng, trên cánh đồng hoa cải, cùng nhau trò truyện, thấu hiểu và yêu thương, quấn quýt lấy nhau. Sợi dây tình yêu quấn chặt lấy họ, dần khiến Chinh quên đi những lời dặn dò của cha, quên đi mối thù của gia đình với những kẻ sống trên mặt đất, quên đi tất cả lời răn đe, áp bức của ông Lư để chìm đắm trong mối tình ngắn ngủi này. Những ngày tháng cánh đồng hoa cải còn vàng rực hai bên bờ, khi ông Lư vắng nhà, là những ngày hạnh phúc nhất đời Chinh. Dù hạnh phúc đó có ngắn ngủi nhưng đã phần nào giúp Chinh được sống là chính mình, giúp cuộc đời khô héo nơi con thuyền chật hẹp trở nên tươi mới, đẹp đẽ, đáng sống dù chỉ là trong một khoảnh khắc. Không gian cánh đồng hoa cải với sắc vàng chói và màu xanh mướt dịu nhẹ của cỏ cũng biểu trưng cho một khởi đầu mới, cho sự sống nảy sinh. Cuối truyện, sau cơn sốt li bì, “Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.” Kết thúc câu truyện là một ẩn số, ta không rõ Nguyễn Quang Thiều đang viết một cái kết có hậu hay không. Nhưng có lẽ cái kết này sẽ mở ra cho người đọc nhiều suy ngẫm và mở ra những điều tươi đẹp, cánh đồng vàng rực hoa gợi cho Thao về bóng dáng mỏng manh, đẹp đẽ, tinh khiết với tâm hồn đớn đau của Chinh, đồng thời cũng gợi ra một niềm tin mãnh liệt rằng hạnh phúc nảy mầm từ trong đau khổ, tuyệt vọng. Dù trong hoàn cảnh ngang trái khổ đau, con người vẫn có thể lựa chọn cách sống, tự định đoạt số mệnh của mình bằng niềm tin, sự dũng cảm vượt lên trên nghịch cảnh. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong Mùa hoa cải bên sông phần 5
"Tôi là người nghĩa là một kẻ chiến đấu" - Goethe đã nói như vậy gợi nhắc mỗi chúng ta đến bản chất kiên cường, dũng cảm của con người trong cuộc sống - nơi thực sự là một trường tranh đấu, nơi mà mỗi cá nhân phải không ngừng đấu tranh, không chỉ với ngoại cảnh mà còn với chính bản thân mình. Trước hết, ta hiểu đấu tranh tức là quá trình hoặc hành động đối đầu, vượt qua những khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu của bản thân, nó thể hiện ở sự nỗ lực, kiên định của con người trong con đường mình lựa chọn. Chúng ta có thể nhận ra rằng trái đất là một trường chiến đấu vô cùng to lớn và khắc nghiệt, ở mọi nơi, ở mọi loài, sự đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau để sinh tồn là lẽ tự nhiên, cá lớn nuốt cá bé, chúa sơn lâm ăn thịt những loài non yếu, tất cả các sinh vật phải luôn lo âu, cảnh giác, tránh đụng chạm đề có một cuộc sống bình yên, đế không trở thành một con mồi ngon cho những loài khác. Vậy tranh đấu có ý nghĩa gì với cuộc đời mỗi chúng ta? Tranh đấu giúp chúng ta trưởng thành và phát triển bản thân. Mỗi lần vượt qua một thử thách, chúng ta không chỉ đạt được mục tiêu mà còn học hỏi thêm nhiều bài học quý giá. Những lần vấp ngã, thất bại giúp chúng ta rèn luyện sự kiên nhẫn, bền bỉ và quyết tâm. Bởi vậy, tranh đấu là quá trình tự hoàn thiện, giúp con người trở nên mạnh mẽ và vững vàng hơn trước mọi khó khăn của cuộc sống. Tranh đấu cũng là cách để ta khẳng định bản thân và tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Khi đối mặt với những trắc trở, chúng ta không chỉ chiến đấu vì bản thân mà còn vì những người thân yêu, vì cộng đồng. Những cuộc đấu tranh ấy giúp chúng ta nhận ra sức mạnh nội tại, khám phá ra những khả năng tiềm ẩn mà trước đây ta chưa từng biết đến. Hãy nhớ đến Thomas Edison - người phát minh ra bóng đèn đã thất bại hàng ngàn lần trước khi thành công. Ông đã chiến đấu không ngừng nghỉ, và chính nhờ sự kiên trì, ông đã mang lại ánh sáng cho toàn thế giới. Nhưng cũng có những người lại luôn đi ngược lại với điều đó, họ không có ý chí, hèn nhát, thấy khó đã nản, điều ấy thật đáng trách, và chính họ cũng tự lãng phí đi khả năng và cơ hội của mình. Cuộc sống hiện đại với nhiều áp lực và thách thức cũng đòi hỏi mỗi chúng ta phải không ngừng đấu tranh. Đấu tranh để giữ vững những giá trị đạo đức, để không bị cuốn vào vòng xoáy của sự gian dối, đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của bản thân, để không bị xã hội làm lu mờ những giá trị cá nhân. Mỗi người chúng ta đều có những cuộc chiến riêng, và chính những cuộc chiến ấy mới làm nên giá trị thực sự của cuộc sống.
Trong thi phẩm “Phố ta”, Lưu Quang Vũ từng viết những dòng đầy chiêm nghiệm: Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa Tại sao cây táo lại nở hoa Sao rãnh nước trong veo đến thế? Có lẽ giữa cuộc đời với biết bao những ngổn ngang, trăn trở, đầy những so tính, thiệt hơn thì vẫn luôn còn đó là những tiếng chim hót chào ngày mới, những cơn mưa hối hả ngày hè, những câu chào nồng hậu, từng nụ cười thơ ngây và muôn vàn điều khác luôn tồn tại. Đó chính là những điều tốt đẹp vẫn luôn hiển hiện, để mỗi chúng ta có được sự lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Và cũng chính sự lạc quan ấy sẽ là chìa khóa để ta được sống vui, sống hạnh phúc, để ta luôn thấy “cây táo lại nở hoa”, thấy “rãnh nước trong veo đến thế”. Đó là sức mạnh của tinh thần lạc quan với mỗi người. Trước hết, có thể hiểu tinh thần lạc quan là một trạng thái tinh thần tích cực giúp con người nhìn nhận cuộc sống từ những khía cạnh tích cực trong mọi tình huống. Đó không chỉ đơn giản là một thái độ, tinh thần lạc quan mà còn là một lối sống, một triết lý giúp con người vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội và đạt được thành công trong cuộc đời. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nơi mà con người ngày ngày phải đối diện với biết bao thử thách và áp lực của trong nhịp xoay chuyển không ngừng của cuộc sống, thì tinh thần lạc quan trở nên càng quan trọng hơn bao giờ hết đối với đời sống vật chất cũng như tinh thần của mỗi người. Có thể thấy rõ, nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra người có tinh thần lạc quan thường ít bị căng thẳng, trầm cảm và lo âu hơn. Họ có khả năng phục hồi nhanh chóng sau những cú sốc tinh thần và sống một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Bên cạnh đó, lạc quan còn giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và kéo dài tuổi thọ. Điều này cho thấy, lạc quan không chỉ mang lại lợi ích về mặt tinh thần mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe tổng thể của con người. Tiếp đó, ta thấy tinh thần lạc quan là nguồn sức mạnh tinh thần giúp chúng ta đối mặt và vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Khi gặp khó khăn, người lạc quan thường có xu hướng tìm ra những giải pháp tích cực và không dễ dàng bị khuất phục, thay vì chìm đắm trong lo âu và tuyệt vọng, họ nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và tìm cách khắc phục. Họ không sợ thất bại mà coi đó là cơ hội để học hỏi và trưởng thành. Sự tự tin và quyết tâm này giúp họ vượt qua mọi trở ngại và đạt được những thành tựu đáng kể. Người có trong mình sự lạc quan, luôn cầu tiến sẽ biết nhìn nhận ra những cơ hội trong khó khăn, sẽ nhìn ra nơi ánh sáng ngập tràn trong đường hầm tăm tối, sẽ hiểu rằng khó khăn và thành công chính là bàn đạp nối đuôi nhau đưa họ tới những mục tiêu của mình. Cũng chính bởi vì vậy, lạc quan như một bệ đỡ trong tinh thần, giúp họ vượt qua những khó khăn, thử thách. Bàn về điều này, ta không thể không nhắc tới Helen Keller – nhà văn, nhà hoạt động xã hội mù điếc người Mỹ. Tuy sống trong thế giới không ánh sáng âm thanh nhưng Keller vẫn là người phụ nữ tràn đầy tinh thần lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống. Bà đã tới hơn 70 bệnh viện để an ủi bệnh nhân, động viên họ và trong suốt cuộc đời mình và tin rằng: “Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.”. Helen Keller chỉ là một trong số rất nhiều những tấm gương tiêu biểu ngoài kia về lòng yêu cuộc sống, sự lạc quan trong cuộc sống Tuy vậy, vẫn có một số người luôn ủ rũ, bi quan, họ mất niềm tin vào cuộc sống. Cũng bởi vậy mà họ sống tẻ nhạt, luôn u sầu vì không tìm được những điều tốt đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống. Họ tin rằng cuộc sống chỉ toàn là màu xám xịt mà không biết rằng vốn dĩ sắc xám cũng là một gam màu cần có trong bức tranh tổng thể đa màu của cuộc sống. Duy trì một lối sống như vậy sẽ thật đáng tiếc! Cuộc sống bên cạnh những đêm bão giông là những ngày ngập nắng, không có cơn mưa nào là mãi mãi và cũng chẳng có tia nắng nào là trường tồn, cuộc sống có tốt đẹp, có những cơ hội hay không phụ thuộc vào tinh thần lạc quan, phụ thuộc vào lăng kính mà bạn lựa chọn để nhìn thế giới này. Hãy luôn mỉm cười trước những khó khăn, hãy tận hưởng trọn vẹn phút giây hạnh phúc, “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ khuất sau lưng bạn” (Walt Whitman)
Em hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn về ý kiến của Steve Godier “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Lòng nhân ái, theo quan điểm của Steve Godier, đó là biểu hiện cao đẹp nhất của con người. Trong xã hội ngày nay, sự nuôi dưỡng và phát triển lòng nhân ái ngày càng trở nên quan trọng. Nhân ái không chỉ đơn thuần là sự yêu thương, mà còn là trao đi tình cảm vô điều kiện, không vụ lợi cá nhân. Đó chính là cầu nối gắn kết tâm hồn, làm cho những người xa lạ có thể gần nhau hơn. Từ thời xa xưa, lòng nhân ái đã là nền tảng quan trọng của truyền thống văn hóa. Câu "lá lành đùm lá rách" hay "Thương người như thể thương thân" là những bài học quý giá được lưu truyền đời đời và luôn giữ nguyên giá trị. Trong chiến tranh, tình yêu thương đã trở thành động lực mạnh mẽ, giúp dân tộc vượt qua những thử thách khó khăn. Ngày nay, lòng nhân ái vẫn cần thiết khi chúng ta đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Mỗi năm bão lũ đi qua đã để lại bao mất mát và tổn thất cho nhiều gia đình, nhờ tấm lòng nhân ái mà đã vơi đi những nỗi mất mát ấy để giúp họ trở lại cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những thái độ vô cảm, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân. Cần lên án những hành động lợi dụng lòng tốt để đạt được mục đích cá nhân. Bằng cách hỗ trợ nhau, chúng ta có thể xây dựng một xã hội đầy lòng nhân ái, nơi mà mọi người sống yêu thương và chia sẻ, làm cho tâm hồn mỗi người trở nên phong phú và đẹp đẽ hơn.
Lý thuyết Xưng hô trong hội thoại Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất tinh tế, phong phú và giàu sắc thái biểu cảm Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp. (Người nói phải hết sức chú ý) Từ ngữ xưng hô trong Tiếng Việt rất phong phú, có các đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi, chúng ta…) Tiếng Việt còn sử dụng các danh từ chỉ quan hệ họ hàng, ruột thịt (bố, mẹ, anh, chị, cô, dì, ...); các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (sếp, thủ trưởng, bác sĩ, giáo viên, ...); và cả tên riêng để xưng hô Biết lựa chọn từ ngữ xưng hô một cách thích hợp để thể hiện một cách văn hóa, lịch sự. Vi dụ: Chúng ta là những người bạn tốt
Giải thích nhan đề bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nhan đề bài thơ dài nhưng độc đáo, ấn tượng, viết về đề tài người mẹ. - Khúc hát ru: là một âm hưởng quen thuộc gợi ngọt ngào sâu lắng trong tâm hồn bạn đọc. Khúc hát gợi lên sự dịu êm của tình mẹ. - Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ rất thực (gợi ra hình ảnh những bà mẹ vùng cao các dân tộc thiểu số thường địu con khi lao động hay làm bất cứ việc gì) gợi ý nghĩa sâu xa, lớn lao về sự vĩ đại của người mẹ. Từ đó, ca ngợi người mẹ miền núi nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung, bình dị nhưng vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống chống Mĩ cứu nước.
Chỉ ra những từ láy được sử dụng trong khổ thơ và cho biết tác dụng của các từ láy này trong việc thể hiện mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình? Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng chư là đồng là bể như là sông là rừng... Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình. Các từ láy: rưng rưng, phăng phắc, vành vạnh. - Tác dụng: + “Rưng rưng”: gợi cảm xúc nghẹn ngào, muốn khóc mà không thể khóc, diễn tả tâm trạng con người khi đối diện với trăng. + “Vành vạnh”: gợi tả dáng vẻ tròn đều và đầy đặn, biểu tượng cho sự trọn vẹn, thủy chung quá khứ nghĩa tình của thiên nhiên + “Phăng phắc”: nhấn mạn h trạng thái im lặng đến mức không có một tiếng động dù là nhỏ nhất, gợi liên tưởng đến cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của trăng - người bạn thủy chung, tri kỉ và quá khứ ân tình. - Tác giả: nhìn nhận sự việc sâu sắc, từ câu chuyện riêng nâng lên thành triết lý trong cuộc sống: Chúng ta cần biết trân trọng quá khứ và người cùng bên mình khi gian khổ, khó khăn. Đoạn thơ thuộc hình thức độc thoại nội tâm vì: đây là những lời tâm sự trong lòng tác giả, không đượ c phát ra thành lời - Tác dụng: cho thấy những day dứt, trăn trở của người thi nhân khi đối mặt với vầng trăng. Nhận ra sự bội bạc của mình với quá khứ thủy chung và tình nghĩa.
Hình ảnh trăng trong bài thơ Ánh trăng Hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa như thế nào? Vì sao khổ cuối nhà thơ lại sử dụng ánh trăng chứ không phải vầng trăng? Cách thay đổi hình ảnh trong thơ như vậy còn được bắt gặp trong bài thơ nào? Của ai? - Ý nghĩa của hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa rất sâu sắc: + Là biểu tượng cho thiên nhiên quê hương đất nước hồn nhiên tươi mát và bình yên + Là người bạn (đồng đội, đồng bào) luôn đồng hành chia sẻ khi gian nan, thử thách + Là quá khứ nghĩa tình vẹn nguyê n không thay đổi + Là nhân chứng lịch sử vừa nghiêm khắc nhưng bao dung, độ lượng Khổ cuối sử dụng "ánh trăng" chứ không phải "vầng trăng" để nhấn mạnh vào ánh sáng tỏa ra từ vầng trăng có khả năng soi rọi vào tâm hồn người, khiến con người thức tỉnh... - Cách thay đổi hình ảnh như vậy em còn bắt gặp: Bếp Lửa –Bằng Việt (bếp lửa- ngọn lửa)
Song góc nhớ thương đó không làm cho người lính mềm lòng, nhụt chí mà nó còn thôi thúc, động viên người lính vững chí, cầm chắc tay súng để dành lại tự do cho dân tộc. Tình cảm đồng chí, đồng đội đặc biệt thể hiện ở tinh thần vượt khó, vượt khổ trong những câu thơ tiếp theo: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn ta y. Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, địa hình hiểm trở, cùng với sự thiếu thốn về vật chất. Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính và nghệ thuật sóng đôi đã khắc họa tới từng chi tiết khó khăn, gian khổ, đói rét, bệnh tật hoành hành. Có những người lính đã phải bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc bởi cơn sốt rét hành hạ mà không có một viên thuốc bên mình. Gian khổ là vậy, các anh đói, rét, chân không giày, đầu không mũ, áo phong phanh, quần rách, đêm nằm trên lá khô và chịu những cơn ớn lạnh của núi rừng Việt Bắc. Mặc dù vậy, nhưng các anh vẫn nở nụ cười trong buốt giá, nụ cười như cất lên tiếng ngợi ca tình đồng chí xoa đi cái lạnh giá của mùa đông, cái gian khổ trong kháng chiến chống Pháp. Viết lên những dòng thơ này, Chính Hữu không phải định kể khổ để làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Câu thơ nhẹ nhàng, giản dị, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến nhịp thơ như lắng lại. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự xót xa, cảm thông cho nhau. Chính trong tâm thế đó, những người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay thắm thiết, thân mật, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua sự giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần lời hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai người, khiến họ nở một nụ cười, dù là “buốt giá”. Chính nhà thơ Chính Hữu từng tâm sự: “Tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ sự gắn bó tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhớ lại tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động bồi hồi”. Cuộc chiến đấu trường kỳ, ác liệt, gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, sự đồng cảm giai cấp là nền tảng, là cơ sở duy nhất để tồn tại, tiếp sức cho nhau tiếp tục chiến đấu hướng đến thắng lợi cuối cùng Ba câu thơ tiếp theo cũng là câu kết thúc bài thơ đã khắc họa một bức chân dung của người lính trong đêm canh gác ở rừng. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Hai câu thơ đầu là hình ảnh thực của người lính trên chiến hào truy kích giặc, câu thơ đã thể hiện tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách và gian lao với phông nền “rừng hoang sướng muối” đầy khắc nghiệt của thiên nhiên. Hình ảnh đôi bạn chiến đấu "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" tạo nên tư thế vững chãi nương tựa vào nhau. Song giữa họ còn có người bạn thứ ba đồng hàn h trong những đêm phục kích, đó là trăng. Hình ảnh trăng bát ngát, chông chênh trên nền trời, rồi trăng cứ xuống thấp dần soi sáng tình đồng chí của người lính và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm như thế, vầng trăng đối với người lính như một người bạn tri kỉ. Suốt bài thơ là bút pháp tả thực nhưng đến câu kết hiện thực đã pha chút lãng mạn, thơ mộng giữa cảnh vật và tâm hồn. Tâm hồn người lính không khô khan trước chiến tranh khốc liệt mà vẫn thấy rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên. Vì thế, súng và trăng, thực và mộng, thi sĩ và chiến sĩ đã hòa quyện tạo nên nét đẹp thơ mộng, tạo nên tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng giữa cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” là biểu tưởng cho lửa đạn chiến tranh, cho sự khốc liệt mà con người không muốn nghĩ đến. Còn “trăng” biểu tượng thiên nhiên cho sự hòa bình mà con người luôn khao khát. “Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ độc đáo, bất ngờ và hay nhất là điểm nhấn cho đoạn thơ, là điểm sáng cho toàn bài thơ. Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí của người lính, là biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ trong gian đoạn kháng chiến đầy gian khổ. Kết bài: Hình tượng người lính trong tác phẩm hiện lên qua bài thơ thật giản dị, chân thực và giàu sức biểu cảm. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tự nhiên, bình dị, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên mộc mạc, thi vị, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những câu văn sóng đôi, những hình ảnh biểu trưng, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí, đồng đội. Lịch sử chiến tranh đã đi vào dĩ vãng nhưng bài thơ về tình đồng chí có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai và mãi mãi về sau. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 1
Mở bài: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm - Giới thiệu vấn đề nghị luận Hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp là đề tài được nhiều thi nhân và văn nhân quan tâm. Đó là những anh hùng áo vải, sẵn sàng hi sinh tính mạng cho sự nghiệp của Tổ quốc. Trong những thi nhân đó ta phải kể đến nhà thơ Chính Hữu với tác phẩm nổi tiếng là Đồng Chí. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về đề tài người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc Thân bài: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948 - thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị để giới thiệu về xuất thân của người lính, họ hiện lên là những người có chung hoàn cảnh vất vả, khó khăn. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn que n nhau Chính Hữu tuy không chỉ đích danh, quê quán nơi cư trú từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất xuất thân của người lính, câu thơ cũng giống như lời giãi bày tâm sự. Họ là những người đến từ mọi miền tổ quốc từ đồng bằng ven biển ngập mặn cho đến vùng trung du miền núi với đất đá khô cằn. Quê hương xa cách nhau mỗi người một nơi nhưng cùng chung một cái nghèo, cái lam lũ, khó nhọc của người dân thời kháng chiến. Những nét tương đồng đó đã khiến họ từ xa lạ đã gắn kết, xích lại gần nhau, họ đã trở thành bạn bè thân thiết và cùng hàng ngũ cách mạng có chung lí tưởng. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” được tác giả sử dụng điệp từ và hoán dụ đã diển tả đầy đủ và trọn vẹn sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ. Hình ảnh “súng bên súng” đã diễn tả những người lính có cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ cách mạng vì sự nghiệp giải phóng cho quê hương, dất nước. Còn hình ảnh “đầu bên đầu” là cách nói hoán dụ tượng trưng cho sự gắn bó, kề vai sát cánh, sống chết có nhau. Khi màn đêm buông xuống cái rét của đêm rừng Việt Bắc đã cho thấy sự sẻ chia, đồng cảm của tình đồng đội, họ cùng đắp một tấm chăn mỏng để xoa đi cái lạnh buốt giá, cái khó khăn, gian khổ của núi rừng. Tấm chăn mỏng đã sưởi ấm tinh bạn, tình đồng chí và họ đã trở thành tri kỉ. Đồng chí! Một câu kết thúc đoạn rất đặc biệt cùng với dấu chấm cảm như một lời khẳng định tình đồng chí thật thiêng liêng và cao quí. Và tất cả sự sẻ chia, đặc biệt ấy là cơ sở cho tình đồng đội, đồng chí của toàn bài thơ, đồng thời nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc. Những câu thơ tiếp theo tác giả đã tiếp tục mở ra những biểu hiện cụ thể và cảm động về tình đồng chí giữa những người lính trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, từ đồng cảnh họ thành đồng cảm. “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Nếu chiến tranh không xảy ra thì họ vẫn là nhũng người nông dân “chân lấm tay bùn” nhưng khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc, họ lên đường theo tiếng gọi của non sông và họ đã trở thành người cách mạng. Ruộng nương, nhà cửa gửi lại hậu phương là những người bạn ở nhà. Hình ảnh “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” gây xúc động đến nao lòng. Nhà trống, không tài sản, xiêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó đến tận cùng của người lính. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người dân quê chất phác vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, mạnh mẽ, dứt khoát vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng ra đường hi sinh cho dân tộc. Họ lên đường vì nghĩa lớn nhưng quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Nói quê hương nhớ người lính là hình ảnh nhân hóa nhưng thực chất là người đi lính nhớ nhà, nhất là gốc đa, giếng nước, mái đình, nơi hò hẹn mỗi mùa trăng về, nơi chứng kiến cuộc chia ly buổi lên đường... những kỉ niệm ấy luôn neo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau, đồng cảm niềm vui, nỗi buồn. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 2
Thơ hiện đại Việt Nam STT Tên văn bản Tác giả Nội dung Nghệ thuật 1 Đồng chí (1948) Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh - 1947, ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về chiến tranh và người lính với ngôn ngữ cô đọng, cảm xúc dồn nén Thể hiện tình đồng chí cao đẹp của những người lính dựa trên cở sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thât tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh. Góp phần tạo nên sức mạnh vè vẻ đẹp tinh thần người cách mạng. Những hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Biện pháp đối ngữ, sóng đôi được sử dụng rất thành công. 2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ của ông thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính Khắc họa nổii bật hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn thời kì chống Mĩ với tinh thần dũng cảm, tư thế hiên ngang và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Hình ảnh độc đáo, giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên. Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ làm giọng thơ sinh động. 3 Đoàn thuyền đánh cá (1958) Huy Cận (1919- 2005) tên là Cù Huy Cận, quê Hà Tĩnh. Ông nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập "Lửa thiêng". Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đạ i Việt Nam Bài thở là bức tranh rộng lớn, tráng lệ về thiên nhiên, vũ trụ và con người lao động trên biển cả. Nhà thơ bộc lộ cảm xúc, niềm vui, niềm tự hào trước cuộc sồng mới Nhiều hình ảnh sáng tạo và có sự liên tưởng, tưởng tượng Âm thanh khỏe khoắn, lạc quan 4 Bếp lửa (1963) Bằng Việt sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất, Hà Tây. Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ Những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành về những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng với gia đình, quê hương, đất nước -Biểu cảm kết hợp với tự sự, miêu tả và bình luận -Giọng điệu tâm tình, thiết tha, chân thành, tự nhiên. -Hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng 5 Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (1971) Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, trong một gia đình trí thức cách mạng, quê xã Thủy An, thành phố Huế. Ông thuộc nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc Tình yêu thương con của người mẹ dân tộc Tà- ôi gắn liền với tinh yêu nước và tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên. -Giọng thơ tha thiết, ngọt ngào, trìu mến Bố cục được đan xe thơ và lời hát ru tạo khúc hát ru tâm tình, sâu lắng 6 Ánh trăng (1978) Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh 1948, quê ở tỉnh Thanh Hóa. Ông là gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thờ i chống Mĩ cứu nước. Lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Nhắc nhở độc giả về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” Giọng điệu tự nhiên, tâm tình, hình ảnh giàu tính biểu cảm 7 Con cò (1962) Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định. Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam ở thế kỷ XX Bài thơ khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru, nhà thơ ca ngợi tinh mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống. Vận dụng ca dao vào bài thơ rất sáng tạo. Câu thơ mang tính cô đúc mang triết lí sâu sắc 8 Mùa xuân nho nhỏ (1980) Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành được góp mùa xuân nho nhỏ cua mình vào mùa xuân lớn của dân tộc Lời thơ trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp giản dị, gợi cảm những so sánh và ẩn dụ sáng tạo. 9 Viếng lăng Bác (1976) Viễn Phương (1928-2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác Giọng thơ trang trọng và tha thiết nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ bình dị và cô đúc. 10 Sang thu (1977) Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Cảm nhận của nhà trước sự chuyển mình của thiên nhiên cuối hạ sang thu Thể thơ năm chữ giàu sắc thái trữ tình, tự sự. Sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ tăng sức gợi cảm cho bài thơ 11 Nói với con (sau 1975) Y Phương (1948-2022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày; quê ở Trùng Khánh, Cao Bằng Bài thơ thể hiện tình cảm ấm cúng gia đình, ca ngợi truyền hống quê hương, dân tộc, gợi nhắc tình cảm gắn bó và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Ngôn ngữ mang sắc thái của người dân tộc vừa cụ thể, giàu hình ảnh, mang tính gợi cảm vừa giàu ý nghĩa sâu xa.
So sánh hình ánh trăng trong câu thơ “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu với hình ảnh trăng trong câu thơ “trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy. - Những nét giống nhau: + Đều là vẻ đẹp của thiên nhiên. + Gắn với hình tượng người lính trong kháng chiến, mang ý nghĩa biể u tượng (ẩn dụ) - Những nét khác nhau: + Hình ảnh “trăng treo” của Chính Hữu gợi mối liên tưởng đến giây phút bình yên nơi và hoang vắng nơi chiến trường, tượng trưng cho hòa bình mà con người đang khao khát trong tương lai; + “Trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy mang biểu trưng cho sự tròn đầy, thủy chung, nghĩa tình và sự bất tiện không bao giờ đổi thay.
KHÔNG GIAN “ĐƯỜNG CÂY SỒI” TRONG TÁC PHẢM CÙNG TÊN CỦA TRƯƠNG VỸ Tóm tắt: Không gian nghệ thuật là một phạm trù thi pháp học quan trọng. Trong tiểu thuyết Đường Cây Sồi của Trương Vỹ, không gian nghệ thuật khá đặc sắc. Bài viết này sẽ phân tích, diễn giải tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” từ loại hình không gian nghệ thuật. Qua đó, thể hiện tính trải nghiệm của con người suốt hành trình tìm kiếm và suy tư về quá khứ, hiện tại và tương tai.Tất cả không gian đã nói lên giá trị của cõi sống đầy bí ẩn và bão giông mà hầu như ai ai cũng phải trải qua trong cuộc đời. Đồng thời gợi cho người đọc về một không gian tưởng chừng hữu hạn nhưng thực chất nó vô hạn trong mỗi tầng lớp xã hội khi nhắc đến Đường Cây Sồi. Từ khóa: Không gian nghệ thuật, hành trình tìm kiếm, Đường Cây Sồi, Trương Vỹ. MỞ ĐẦU Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Trương Vỹ là nhà văn đương đại Trung Quốc nổi tiếng, Đường Cây Sồi thuộc một trong mười cuốn tiểu thuyết của Trương Vỹ được viết năm 2010. Cuốn tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như Anh, Pháp, Nhật, Đức, Thụy Điển… Tác phẩm Đường Cây Sồi đã xây dựng được những không gian nghệ thuật đặc sắc, trong đó có không gian Đường Cây Sồi. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu không gian Đường Cây Sồi để làm rõ một số vấn đề, không gian như một phương tiện để xây dựng thế giới nghệ thuật, không gian như một biểu trưng gửi gắm quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Một miền đất không bao giờ chỉ tồn tại như một không gian địa lý thông thường như chúng ta thấy nó trên bản đồ, mà nó được phản ánh và khắc họa của nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong mỗi tác phẩm là sản phẩm sáng tạo của người nghệ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Văn học nghệ thuật đã chứng kiến những tiến trình không gian của con người trong suốt chiều dài lịch sử: đến và đi, xa lạ và gần gũi, quê ta và quê người, riêng tư và công cộng, …Hướng tiếp cận không gian như một phạm trù nghệ thuật từ góc độ thi pháp học có thể xem là phương pháp nghiên cứu có nhiều điểm tối ưu, mở ra những kiến giải đa chiều đối với thế giới nghệ thuật đặc biệt với nền Văn học. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một không gian nghệ thuật riêng của mình mang tính đặc thù của phong cách. Nhà văn Trương Vỹ cũng như bao nhiêu nghệ sĩ khác, cũng vẽ cho mình một không gian nghệ thuật riêng bao trọn trong tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” để bóc tách không gian của giới thượng lưu với không gian hoang giã và không gian tâm lí- những ám ảnh số phận. Lấy góc nhìn từ nhân vật tôi- một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp đại học, ông đã mở thêm những con đường mới những không gian bao la, vô tận được soi chiếu qua nhiều vùng đất tương ứng với những cảnh đời khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn “Không gian biểu trưng cho giới thượng lưu- Đường Cây Sồi” để phản tư về cảm thức cũng như sự “kì bí” của những con người nơi đây. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 2
Bí quyết làm văn nghị luận xã hội cực hay Viết một bài văn nghị luận xã hội cực hay đòi hỏi sự tự tin, kiến thức sâu rộng về vấn đề cũng như khả năng biểu đạt ý kiến một cách logic và thuyết phục. Một số bí quyết giúp bạn thành công trong việc viết văn nghị luận xã hội sẽ được nêu ra dưới đây: - Chọn đề tài phù hợp: Bước đầu tiên quan trọng là chọn đề tài phù hợp với sở thích và kiến thức của bạn. Hãy chọn một vấn đề xã hội mà bạn quan tâm, hiểu biết và có thể đưa ra những quan điểm sâu sắc. - Nghiên cứu kỹ lưỡng: Trước khi viết, hãy nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề bạn chọn. Thu thập thông tin từ các nguồn đáng tin cậy như sách báo, nghiên cứu, bài báo trên mạng và thậm chí là cuộc trò chuyện với các chuyên gia trong lĩnh vực. - Xác định quan điểm cá nhân: Dựa trên kiến thức đã nghiên cứu, hãy xác định quan điểm cá nhân của bạn về vấn đề đó. Hãy chắc chắn rằng quan điểm của bạn có cơ sở, logic và được bảo vệ bằng các lý lẽ thuyết phục. - Sắp xếp cấu trúc văn bản: Trước khi bắt đầu viết, hãy sắp xếp cấu trúc văn bản sao cho logic và dễ theo dõi. Bố cục bài văn nghị luận thường bao gồm phần mở đầu, phần thân và phần kết luận. - Sử dụng ngôn ngữ chính xác và mạch lạc: Khi viết văn nghị luận, hãy sử dụng ngôn ngữ chính xác, mạch lạc và tránh sử dụng từ ngữ mơ hồ hoặc không chính xác. Sử dụng ví dụ cụ thể và lý lẽ thuyết phục để minh họa và bảo vệ quan điểm của bạn. - Thể hiện sự linh hoạt tư duy: Để làm văn nghị luận cực hay, hãy thể hiện sự linh hoạt tư duy bằng cách đưa ra những quan điểm mới mẻ, nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau và đưa ra giải pháp sáng tạo. - Kiểm tra và chỉnh sửa: Sau khi viết xong, hãy kiểm tra và chỉnh sửa bài văn một cách kỹ lưỡng. Đảm bảo rằng bài văn của bạn không chỉ chính xác về ngữ pháp và cấu trúc mà còn thể hiện đầy đủ ý kiến và lý lẽ thuyết phục. Viết văn nghị luận xã hội cực hay không chỉ là cách thể hiện quan điểm cá nhân mà còn là cơ hội để bạn thể hiện khả năng tư duy, biểu đạt ý kiến và thuyết phục người đọc. Bằng việc áp dụng các bí quyết trên cùng với sự sáng tạo và tự tin, bạn sẽ có thể viết nên những bài văn nghị luận xã hội đầy ấn tượng và ảnh hưởng.
Bí quyết thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn cực đơn giản Việc thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn không chỉ đánh giá kiến thức của học sinh mà còn đòi hỏi kỹ năng sáng tạo, phân tích và biểu đạt ý kiến một cách logic và rõ ràng. Tuy nhiên, với một số bí quyết và chiến lược học tập đơn giản, học sinh có thể tự tin vượt qua kỳ thi môn Ngữ Văn một cách hiệu quả. - Hiểu rõ cấu trúc đề thi: Bước đầu tiên quan trọng khi chuẩn bị cho kỳ thi môn Ngữ Văn là hiểu rõ cấu trúc đề thi. Học sinh cần tìm hiểu về các dạng câu hỏi thường gặp như viết bài luận, phân tích đoạn văn, điền từ vào chỗ trống, hoặc trắc nghiệm. Việc hiểu rõ cấu trúc đề thi sẽ giúp họ tự tin và chuẩn bị kế hoạch học tập hợp lý. - Luyện tập đề thi mẫu: Học sinh nên tìm kiếm và giải các đề thi mẫu từ các năm trước để làm quen với định dạng và cấu trúc của đề thi. Việc luyện tập đề thi mẫu giúp học sinh nâng cao kỹ năng làm bài, quản lý thời gian và củng cố kiến thức văn học. - Đọc và suy nghĩ sâu về văn bản: Để làm tốt các dạng câu hỏi phân tích văn bản, học sinh cần đọc và suy nghĩ sâu về các tác phẩm văn học. Họ cần nắm vững nội dung, ngữ pháp, cấu trúc và ý nghĩa của các tác phẩm để có thể trả lời câu hỏi một cách chính xác và logic. - Làm bài tập rèn kỹ năng viết: Kỹ năng viết là một yếu tố quan trọng trong kỳ thi môn Ngữ Văn. Học sinh cần luyện tập viết bài luận, viết phân tích văn bản, hoặc viết nhận xét để cải thiện khả năng biểu đạt ý kiến và logic trong việc trình bày suy nghĩ. - Tham gia học tập nhóm: Học cùng nhóm bạn có thể giúp học sinh trao đổi kiến thức, ý kiến và cùng nhau giải quyết các vấn đề khó khăn trong quá trình học tập. Tham gia các nhóm học tập cũng giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giao tiếp và học hỏi từ nhau. - Thực hành là chìa khóa thành công: Cuối cùng, thực hành là chìa khóa quan trọng giúp học sinh tự tin và thành công trong kỳ thi môn Ngữ Văn. Học sinh cần thực hành làm bài tập, viết bài, phân tích văn bản thường xuyên để củng cố kiến thức và nâng cao kỹ năng làm bài. Việc thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn không phải là điều khó khăn nếu học sinh áp dụng các bí quyết và chiến lược học tập đơn giản trên. Bằng sự kiên trì, nỗ lực và chuẩn bị kỹ lưỡng, học sinh sẽ có cơ hội đạt được kết quả tốt trong kỳ thi và tiến xa trên con đường học văn của mình.
Mặc dù khổ cực, khó khăn bởi bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ “làng bị giặc đốt, cháy tàn cháy lụi” nhưng người bà vẫn vững lòng, kiên cường và dặn dò cháu, lời dặn của bà giản dị, mộc mạc thể hiện tấm lòng cao cả, đầy sự hi sinh: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” - Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con yên tâm công tác hơn thế bà là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến và góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến cho cả dân tộc. Tình cảm của bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. - Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở đoạn trên, tác giả đã chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa luôn ủ sẵn và không bao giờ tắt: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenn Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… - Bếp lửa trong thơ Bằng Việt không chỉ được nhóm bằng củi, bằng rơm mà còn được nhóm bằng lòng yêu thương “ấp ủ” sức sống mãnh liệt và niềm tin dai dẳng, bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm mà thời thơ ấu của cháu quấn quýt bên bà, ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương mà bà dành cho cháu. - Cùng với hình ảnh “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “sớm - chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống kiên định của bà. Tác giả sử dụng điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động và tự hào. =>Từ hình ảnh bếp lửa đến ngọn lửa với ý nghĩa khái quát, bà không chỉ là người nhó m lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa- ngọn lửa của sự sống, niềm hy vọng cho thế hệ mai sau. * Suy nghĩ của người cháu về người bà và bếpp lửa - Tần tảo, chịu thương, chịu khó, bà hi sinh cả một đời cho cháu cho con: Lận đậnn đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm. - Từ bếp lửa quen thuộc, bình dị người cháu nhận ra bao điều kì diệu và thiêng liêng từ ngọn lửa từ bàn tay bà với bao yêu thương trìu mến “ấp iu nồng đượm” đã nuôi lớn cháu đến ngày hôm nay. - Các từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” và từ láy tượng hình “lận đận” cùng hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã cho thấy sự gian nan, vất vả, đức hi sinh và sự chịu thương chịu khó của bà. Tình thương yêu mà tác giả dành cho bà giản dị, chân thành đến từng câu chữ được thật sâu sắc và trìu mến biết bao! - Suốt đời bà luôn chăm sóc, lo lắng cho con cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần để cháu lớn lên. - Điệp từ nhóm được nhắc đi nhắc lại đã gợi nhiều liên tưởng, bà nhóm lên tình yêu thương, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm và nhóm lên những hi vọng, sự ấm áp cho cuộc đời thơ bé của tác giả. Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuii Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi, kì lạ v à thiêng liêng – bếp lửa! Bà đã làm công việc khởi đầu của một ngày: nhóm bếp lửa mỗi sớm mai và bà nhóm lửa cho hôm qua, hôm nay và cả ngày mai; cho con cho cháu và cho tất cả mọi người. Bếp lửa vì thế mà trở nên thiêng liêng, lạ kì! * Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi và da diết - Đứa cháu năm xưa được dưỡng nuôi từ ngọn lửa tảo tần, từ tình thương khoai sắn ngọt bùi của bà nay đã lớn khôn, trưởng thành, chắp cánh bay xa tới những khung trời rộng lớn; Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chư a? Dù ở đâu, làm gì, bây giờ và mãi mãi mai sau cháu không thể quên bà và hình ảnh bếp lửa. Ngọn lửa và bà đã sưởi cháu trong cái buốt giá của nước Nga khi cháu xa nhà. “Khói trăm tàu, lửa trăm nhà” sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về quê hương, tổ quốc và quá khứ dù đó là những ngày vất vả, gian lao. Kết bài: Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh người bà bên bếp lửa hồng với dáng bà lặng lẽ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Hình ảnh bếp lửa- ngọn lửa trong bà là biểu tượng cho gia đình, quê hương và đất nước, hình ảnh luôn động viên, tiếp sức cho con cháu trên mọi chặng đường cho dù đó là con đường gian khó nhất. Qua đây, Bằng Việt không chỉ khơi dậy kỉ niệm tuổi thơ cho bất cứ ai được sống trong vòng tay của bà mà còn gửi gắm thông điệp về truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ mai sau. Đọc tiếp: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa phần 1
Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ, từ đó nên cảm nhận của em về tình bà cháu và tình quê hương, đất nước Mở bài. Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm Bếp lửa. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Bếp lửa là tác phẩm nổi tiếng của đời thơ Bằng Việt, một trong những bài thơ đi cùng năm tháng với nhiều thế hệ người Việt đặc biệt những ai có thời thơ ấu bên bà như tác giả. Bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm về người bà, về tuổi thơ và tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Thân bài. Cần đạt được các nội dung sau: * Mạch cảm xúc và hình ảnh bếp lửa Bài thơ được sáng tác năm 1963 khi Bằng Việt đang du học ở Liên Xô. Bài thơ là lời của tác giả nhớ về bà với những năm tháng thơ ấu đầy kỉ niệm bên bà. Với mạch cảm xúc rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Hình ảnh bà bên bếp lửa với bao gian khó, vất vả nhưng bà đã dành cho cháu tất cả tình yêu thương trìu mến. Nay cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý, lớn lao của bà. Cuối cùng cháu muốn gửi về bà, về quê hương, đất nước lòng trân trọng, kính yêu và biết ơn sâu sắc. *Hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh bà Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. - Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần đã trở thành điệp khúc mở đầu cho bài thơ. Với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” là dấu ấn không bao giờ phai trong tâm trí tác giả. Hình ảnh bếp lửa ấm áp giữa cái lành lạnh của sương sớm, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm” của bà kính yêu. Hơi ấm của ngọn lửa “chờn vờn” quyện hòa với hơi ấm của tình bà khiến đứa cháu xa nhà không thể nguôi ngoai nỗi niềm nhớ bà và xúc động mỗi khi hình ảnh bếp lửa hiện về trong tâm tưởng: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Sự nhớ thương về bà được người cháu bộc lộ trực tiếp và giản dị, đằng sau sự giản dị ấy là tất cả tấm lòng một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn lam lũ của bà. - Từ hình ảnh bếp lửa và người bà tảo tần, lam lũ bỗng làm sống lại cả một thời thơ ấu trong lòng Bằng Việt: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn cay. - Cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến hơn hai triệu người dân Việt Nam phải chết vì chính sách cai trị man rợ, tàn độc của bọn giặc Nhật, Pháp. (đói mòn đói mỏi) Tuổi thơ của tác giả đã nhuốm bóng đen ghê rợn của nạn đói mà có lẽ cả cuộc đời tác giả không bao giờ quên được. Cảnh nghèo đói đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đầy đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” - Hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khốn khổ, thiếu thốn của gia đình tác giả trong bối cảnh 1945. -Ấn tượng nhất đối với cháu trong những ngày tháng đói khổ là mùi khói bếp của bà - mùi khói hun nhèm mắt cháu, mà “nghĩ lại sống mũi vẫn còn cay”. Cái cay vì khói bếp khi cháu bốn tuổi là cái cay bởi xúc động khi cháu nhớ về người bà kính yêu. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ cho thấy, mùi khói bếp của bà đã làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu. - Nhớ về kỉ niệm là nhớ về bếp lửa “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc, nuôi dưỡng trong vòng tay ấm áp của bà, tám năm ấy khó khăn, vất vả nhưng cháu luôn nhận được sự chở che của bà. Nhớ nhất là hình ảnh bà bên bếp lửa mỗi sớm mỗi chiều: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Một mình bà ở nhà bao gian khó lo toan, bà vừa đảm nhiệm làm cha, vừa làm mẹ vừa làm bà nhưng bà vẫn vững lòng và làm trọn những vai đó cho người cháu bé nhỏ của mình: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Bên bếp lửa bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, truyền thống hiếu học và những đau thương mất mát của toàn dân tộc. - Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là nơi sưởi ấm trái tim người cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú khi gọi hè: Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xaa? Tiếng chim tu hú trong những câu thơ của Bằng Việt là tiếng chim quen thuộc gợi nhớ về người bà, những năm tháng mà tác giả được sống trong sự yêu thương của bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người cháu trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong về tuổi thơ. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? Câu hỏi không có câu trả lời đã tạo nên sự xót xa, vắng vẻ, côi cút khi cháu nghĩ về người bà kính yêu của mình. => Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu thương nhớ về những hoài niệm ấm áp mà bà đã dành cho tác giả. Đọc tiếp: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa phần 2
Ở khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã tô điểm thêm bức tranh thiên nhiên cùng với hình ảnh chân thật nhưng đầy bất ngờ, độc đáo: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” với sự phối hợp màu sắc hài hòa, uyển chuyển như “đen hồng, vàng chóe” đã tạo nên một bức tranh giàu có của biển khơi. Mỗi loại cá có kiểu dáng, màu sắc khác nhau làm nên sự đa dạng và giàu đẹp của biển cả quê hương. Cái đuôi em quẫy dưới ánh trăng đã làm cảnh biển thêm sống động và rực rỡ lên, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống mà không mất đi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, tác giả gọi cá bằng em, một cách gọi trìu mến, cá không còn là đối tượng đánh bắt mà trở nên thân gũi với ngư dân. Nhìn bầy cá bơi lội với những sắc màu phong phú, đa dạng nhà thơ đã lắng nghe tiếng sóng rì rầm với ánh mắt nhìn về xa. Câu thơ tiếp theo huyền ảo, lung linh: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” như đưa người đọc vào thế giới thần tiên trong truyện cổ tích. Bằng nghệ thuật ẩn dụ và nhân hóa tác giả đã biến biển cả bao la như một thực thể sống, tiếng sóng vỗ rì rầm được ví như nhịp thở trong đêm của biển. “Đêm thở, sao lùa” là hình ảnh độc đáo, sáng tạo và mới lạ trong nghệ thuật của Huy Cận. Có thể thể nói, tác giả phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết lên những vần thơ tuyệt bút và thơ mộng đến như vậy. Với bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng sáng tạo, Huy Cận đã tạo nên những hình ảnh đẹp về vũ trụ bao la khiến công việc lao động nặng nhọc của người dân chài trở thành bài ca đầy niềm vui và sự tự hào. Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Hành động “gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá nhưng cái hay ở đây là trăng được tác giả nhân hóa như con người tham gia lao động và hòa cùng sóng biển. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Hơn thế tác giả đã so sánh ngang bằng biển như lòng mẹ dể nói lên sự bao dung, độ lượng và sự cần thiết, quan trọng của biển cả đối với người dân chài, đồng thời thể hiện lòng tự hào, lời cảm ơn đối với quê hương nơi đã nuôi ta lớn. Một đêm trôi qua với tinh thần lao động hào hứng, hăng say thì trên bầu trời sao đã thưa và mờ dần chỉ còn lại cảnh kéo lưới là vẫn đông vui, tấp nập. Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng. Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” Đây là chi tiết cụ thể về hình ảnh con người lao động hiện lên trong sớm mai thật đẹp, đó là hình ảnh khỏe mạnh, tươi tắn mà người dân làm trong lúc gặt hái được thành quả. “Kéo xoăn tay” là hành động mạnh, dồn hết sức lực để kéo cá từ biển lên với những chùm cá trĩu nặng. Thành quả mà ngư dân thu được là “vẩy bạc, đuôi vàng” trong sớm mai là hình ảnh vừa thực vừa mang nghĩa ẩn dụ, những con cá được ẩn dụ quí giá như vàng, như bạc mà biển cả bao la dành tặng cho người dân. Và rồi những khoang thuyền đầy ắp cá cũng là lúc bình minh vừa chớm nắng hồng, ánh nắng làm cho cảnh biển thêm đẹp và nhiều khởi sắc cho một ngày tươi mới, tràn đầy sức sống. Trình tự theo thời gian đã được Huy Cận miêu tả rất tài tình và nhiều đặc sắc, ở khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về với khí thế vui mừng và hoành tráng: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Ở khổ đầu là câu hát căng buồm cùng gió khơi để đưa thuyền ra biển lớn, còn khổ 5 là tiếng hát gọi cá vào thì ở khổ này vẫn là tiếng hát nhưng đây là tiếng hát trở về với sự bội thu, thắng lợi và sức mạnh bởi họ đã thu được những khoang cá đầy ắp thuyền mà biển cả đã dành tặng. Đoàn thuyền trở về đất liền với tư thế nhanh, gấp gáp “chạy đua cùng mặt trời” tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa và nói quá để diễn tả cuộc đua giữa con người và thiên nhiên, cuộc đua không cân sức nhưng con người đã chiến thắng và đáp chân xuống đất liền khi mặt trời vừa nhô khỏi biển. Một màu của bình minh, màu của sức sống đã tạo nên một bức tranh biển kì vĩ, bao la nhưng chứa đựng nhiều nét thơ mộng. Ở câu thơ cuối “Mắt cá huy hoàng” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cuộc sống tươi mới, nhưng ngày tốt đẹp đang đón chờ ngư dân và con người trong thời kì đất nước chuyển mình. Đó là một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bình yên mà tác giả muốn gửi gắm trong câu thơ của mình. Kết bài: Qua thơ Huy Cận chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên biển Quảng Ninh cùng ngư dân làng chài. Cảnh đánh cá được miêu tả với cảm hứng lãng mạn cùng sự hăng say và niềm tự hào đã cho chúng ta những bài học về sự hi sinh, đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của người nông dân. Thật vậy, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay đã để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng độc giả về con người và vũ trụ bao la rộng lớn. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận phần 1
Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận Mở bài: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào của ông và mang những nét đẹp riêng. Sau cách mạng thơ của Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống và mang hơi thở của sự phát triển xã hội chủ nghĩa. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông sáng tác ở Quảng Ninh năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ là một bức tranh đẹp đẽ là bản hùng ca ca ngợi người dân lao động khi đất nước chuyển mình. Thân bài: Mở đầu bài thơ là khung cảnh vô cùng huy hoàng, tráng lệ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống; Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hai câu đầu tác giả khái quát thời điểm xuất phát của đoàn thuyền đánh cá bằng những hình ảnh đẹp và tráng lệ của thiên nhiên. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt mà nó như hòn lửa rực đỏ khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả, vũ trụ bao la như nồng ấm lên và như một ngôi nhà khổng lồ của người dân đánh cá. Biển lúc này được ví như con người biết tắt lửa, cài then, sập cửa. Tác giả đã sử dụng đồng thời ba biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ để tô lên vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ và đầy sức sống của biển cả mênh mông chứ không đìu hiu, ảm đạm như lối thơ cổ. Màn đêm như tấm cửa khổng lồ đóng lại để chuẩn bị nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Nhưng ở đây thì không, đối với người dân chài lại là lúc họ ra khơi đánh cá, cất tiếng hát và căng buồm cùng gió, thiên nhiên vũ trụ là phông nền cho con người xuất hiện. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đoàn thuyền lại ra khơi theo tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc và hoạt động hàng ngày, thường xuyên của những ngư dân vùng biển. Mỗi chuyến đi là niềm vui sự hào hứng và tràn đầy hy vọng. Họ vui vì ra khơi mang theo câu hát, tiếng hát khỏe khoắn, bay cao, bay xa hòa cùng gió trời, gió biển, thổi căng cánh buồm. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng của biện pháp ẩn dụ diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế của người dân vùng biển khi ra khơi, chinh phục biển cả. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng hát phấn khởi làm nổi bật tâm hồn của con người dân chài, tiếng hát cất lên cầu mong cho những điều may mắn, thuận lợi: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng, Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” Như bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, mỗi khi đi đánh cá là người dân lại mong ước trời yên, biển lặng để có một ngày bội thu thì trong tác phẩm này, tác giả cũng nói lên niềm mong ước ấy để thể hiện tấm lòng hồn hậu của ngư dân chất phác, thật thà nơi vùng biển. Giọng thơ ngọt ngào, trong trẻo ngân dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về người dân lao động của Huy Cận. Khác với hồn thơ của Huy Cận trước Cách mạng là vũ trụ bao la, rợn ngợp trong “nỗi sầu trăm ngả” thì nay lại hết sức gần gũi, thơ mộng. Tác giả đã nhìn đoàn thuyền như một bộ phận của vũ trụ bao la nơi biển cả: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng” Con thuyền vốn nhỏ bé nhưng qua lăng kính của nhà thơ thì thuyền trở nên lớn lao và kì vĩ. Hình ảnh con thuyền được đặt song song và hài hòa với thiên nhiên như gió, trăng, trời, biển. Hơn thế, con thuyền lại lái gió với buồm trăng đang lướt đi trên biển và như bay trên tầng không gian, trên thì có mây cao dưới thì có “biển bằng” mênh mông sông nước. Con thuyền đó đang lướt sóng giữa không gian bao la vô tận của vũ trụ để chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Thật ra, đây là cách nói đảo ngược của tác giả, thực tế là gió lái thuyền và làm cho cánh buồm căng gió còn ánh trăng chiếu vào cánh buồm nhìn xa xa như là “buồm trăng”. Những hình đó mà nhà thơ tạo nên qua góc nhìn của mình đã cho người đọc thấy một hình ảnh về con thuyền đẹp đẽ - vẻ đẹp khỏe khoắn, đầy sức sống là hiện thân cho con người lao động vùng biển Quảng Ninh. “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng” Giữa bát ngát trăng sao, trời biển con người không hề nhỏ bé, ngược lại họ hiện lên là những con người ngang tầm với thiên nhiên với tư thế của người chiến thắng, họ ra dặm xa dò bụng biển để bủa lưới vây giăng. Họ làm việc bằng sự hăng say và lòng dũng cảm cùng một tâm hồn phơi phới trước sóng nước mênh mông. Nếu như ở đoạn đầu, thiên nhiên đã chìm vào trạng thái thư giãn, nghỉ ngơi “mặt trời xuống biển”, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa” thì ở đây, người lao động đã đánh thức thiên nhiên, khiến thiên nhiên dường như bừng tỉnh, như cùng hòa vào niềm vui trong lao động. Những hình ảnh đó tạo nên một bức tranh giữa con người và thiên nhiên tươi tuyệt đẹp và đầy sức sống. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận phần 2