Giọng điệu Theo Từ điển Thuật ngữ văn học, giọng điệu là “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…”. Như vậy giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng để nhà văn xây dựng hình tượng nhân vật. Đồng thời linh hồn của tác phẩm văn học cũng phụ thuộc rất lớn vào giọng điệu, qua đó nó thể hiện đặc trưng phong cách của mỗ i nhà văn. Giọng điệu thể hiện thái độ của tác giả đối với nhân vật, thể hiện quan niệm, cái nhìn về con người và cuộc sống. Cho nên giọng điệu trở thành tâm hồn, gương mặt của tác giả trong tác phẩm. Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của văn học, “nó gắn với cái giọng “trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện”. John Boyne sử dụng giọng điệu tự sự kết hợp với nhiều thủ pháp nghệ thuật khác để truyền đạt thái độ, lập trường tư tưởng, cảm hứng chủ đạo của mình, mỉa mai sự định kiến và phân biệt đối xử, và đồng thời nêu bật sự ngây thơ hồn nhiên để cho chúng ta cái nhìn đối lập sâu sắc về những trải nghiệm khốc liệt của người Do Thái trong thời kì Đức Quốc Xã. John Boyne khai thác chủ đề định kiến và phân biệt đối xử trong tiểu thuyết của mình thông qua việc sử dụng giọng điệu mỉa mai châm biếm và phép tương phản so sánh. Trong tiểu thuyết của Boyne, mặc dù bằng tuổi nhau, Shmuel vì là người Do Thái nên bị phân biệt đối xử và bị gửi đến trại tập trung, trong khi Bruno tận hưởng sự xa hoa của giới thượng lưu Đức Quốc xã vì có cha là một sĩ quan cấp cao của tầng lớp người da trắng thượng đẳng. Boyne sử dụng lối kể chuyện ở ngôi thứ ba giới hạn để cho chúng ta thấy góc nhìn của các nhân vật về thế giới xung quanh nhân vật chính. Ví dụ, khi Shmuel nhìn thấy Bruno trong bộ đồ ngủ, cậu bé đã nghĩ rằng “Thật là lạ thường. Nếu không phải là vì Bruno còn xa mới gầy gò như nhữngg đứa trẻ ở bên phía hàng rào nó, và cũng chẳng hề xanh xao như vậy, thì thật khó để phân biệt được hai đứa. Gần như thể (Shmuel nghĩ) chúng thực sự giống hệt nhau.” Câu nói này củng cố thêm cho sự thật về việc người Do Thái bị phân biệt đối xử dưới thời Đức Quốc Xã. Giọng điệu chứa đầy sự mỉa mai, châm biếm này lại cho chúng ta thấy được suy nghĩ và niềm tin của một đứa trẻ ngây thơ trong một thực tế khốc liệt hơn nhiều. Bruno ban đầu ghen tị với Shmuel, vì cậu tin rằng “Còn tớ thì không biết tại sao lại bị mắc kẹt ở đây, phía bê n này, chẳng có ai để trò chuyện và chẳng có ai để chơi cùng trong khi cậu có cả tá bạn và ngày nào cũng chơi hàng tiếng.” Câu nói chứa đầy sự châm biếm được sử dụng dưới góc nhìn của Bruno, bởi cậu bé tin rằng ngày nào Shmuel cũng được chơi rất nhiều trong trại tập trung. Tuy nhiên, giọng điệu tự sự đi kèm sự châm biếm này cũng mang lại cho người đọc cảm giác tối tăm hơn nữa về thực tế của trại tập trung. Không chỉ thế, Boyne cũng dùng sự tương phản so sánh trong lời kể để cho thấy chẳng có mấy khác biệt giữa người Do Thái và người da trắng thượng đẳng, và chứng minh sự phân biệt đối xử giữa hai chủng tộc là vô nghĩa đến nhường nào. Phép tương phản được sử dụng rõ ràng trong câu nói khiến người đọc phải suy nghĩ thật nhiều sau: “Chính xác thì đâu là sự khác nhau? Cậu băn khoăn tự hỏi. Và ai là người quyết định người nào mặc những bộ pyjama sọc còn người nào mặc đồn g phục?” Lời tự sự xuất sắc này khai phá tận cùng sự định kiến và phân biệt chủng tộc lúc bấy giờ, đồng thời để lại cho người đọc những suy ngẫm về nguyên nhân của Chủ nghĩa bài Do Thái ở Đức Quốc Xã. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả trong Chú bé mang pyjama sọc phần 4
Cái nhìn nghệ thuật Theo cuốn Dẫn luận thi pháp học, cái nhìn có thể xét ở hai phương diện. Một là điểm nhìn của người trần thuật và nhân vật, và hai là cái nhìn thể hiện trong chi tiết khách thể, nơi cái nhìn hướng đến. Điểm nhìn, theo tôi là điểm thú vị và quan trọng nhất trong kết cấu trần thuật của cuốn tiểu thuyết này. Nó được viết ở ngôi thứ ba giới hạn, chủ yếu từ góc nhìn của Bruno, nhân vật chính xuyên suốt toàn bộ cuốn tiểu thuyết, trần thuật theo tiêu điểm bên trong, theo những gì mà Bruno biết. Điều này có nghĩa là tác giả không sử dụng 'tôi' hay 'chúng tôi' nhưng người đọc có thể tìm hiểu xem nhân vật chính đang nghĩ gì và gần như toàn bộ câu chuyện đều tập trung vào cậu bé. Boyne đã đặt bối cảnh của cuốn tiểu thuyết này trong một không gian và thời gian xảy những điều vô cùng khủng khiếp và kinh hoàng trong lịch sử, đến nỗi gia đình của Bruno không muốn để cho cậu bé biết bất cứ điều gì về chúng. Tất cả điều này giúp người đọc cảm thấy được có mối liên hệ nào đó với Bruno, đồng thời cũng có sự đồng cảm với sự vô tri về hoàn cảnh xung quanh của cậu bé, đồng cảm với những điều xảy ra với chính cậu bé. Dưới điểm nhìn vô cùng ngây thơ và ngờ nghệch của Bruno, John Boyne đem lại rất nhiều điều ẩn ý hơn là những điều mang tính minh bạch trong những lời tự sự vô tri về những tội ác đang diễn ra xung quanh. Cũng có những sai lầm đơn giản mà cậu bé mắc phải, chẳng hạn như nghĩ rằng Auschwitz được phát âm là ‘Ao Tuýt’ (Out-With) và Fuehrer (trong tiếng Đức nghĩa là người thủ lĩnh) được phát âm là 'Fury' (Trong bản dịch của Nhã Nam để là Quốc trưởng, ở đây tôi xin được dùng từ tiếng Anh trong bản gốc). Sự ngây thơ và thiếu hiểu biết này cho phép cậu bé có thể trở thành một người tốt và hạnh phúc mặc dù cậu bé đang ở rất gần trại tập trung, trại tội ác, nhưng cũng có nghĩa cậu bé không làm gì để giúp đỡ hoàn cảnh xung quanh và cuối cùng dẫn đến cái chết của bản thân khi còn rất trẻ. Cái nhìn này cũng giúp tạo thiện cảm của người đọc với Bruno, nhưng phần nào đã bị đẩy đi quá xa ở nhiều đoạn khiến người đọc chỉ cảm thấy cậu bé thật ngu ngốc, và lẽ ra ở độ tuổi đó cậu bé phải cố gắng nhiều hơn để hiểu được hoàn cảnh xung quanh mình, hiểu được vị trí của chính mình. Một biện pháp nghệ thuật khác mà Boyne sử dụng để thiết lập tính trẻ con trong điểm nhìn của Bruno là phép lặp. Ví dụ: các cụm từ như 'Luôn luôn tuyệt đối tránh xa, không có ngoại lệ’ và 'Trường hợp vô vọng' thường được lặp lại khá nhiều trong tác phẩm vì Bruno đã nghe thấy những điều này và cố gắng bắt chước. Cậu bé chỉ lặp đi lặp lại những điều mà cậu đã nghe người khác nói như một chú vẹt vì cậu bé không thể nghĩ gì khác hơn rằng điều này là hết sức bình thường. Một ví dụ đặc biệt sâu sắc là “‘Heil Hitler!’ cậu nói, những từ mà cậu ước chừng là một cách khác để nói, ‘Vâng, tạm biệt, chúc cha một buổi chiều tốt lành.’” Điều này khiến tôi với tư cách là một độc giả tự hỏi liệu mình có khi nào cũng sẽ mù quáng y hệt như Bruno trước thực tế phũ phàng nếu mình cũng được nuôi dạy theo cách đó hay không. Tôi nghĩ rằng đây là một trong những điều quan trọng nhất mà Boyne muốn độc giả phải suy nghĩ khi đọc cuốn tiểu thuyết. Trong những diễn biến sau này của cuốn tiểu thuyết, Bruno bắt đầu thực dần dần chút một đánh mất sự ngây thơ của mình và học hỏi, hiểu thêm về thế giới xung quanh. Ví dụ, khi cậu bé nói chuyện với Maria về cha mình, và cô hầu gái ấy bắt đầu kể cho cậu bé nghe về cuộc sống trước đây của cô. Cậu bé ấy “lần đầu tiên nhận ra cậu chưa bao giờ nhìn nhận đầy đủ về cô như một con người có đời sống và quá khứ riêng” Nhưng quá trình này không đủ nhanh và triệt để vì sự ngây thơ vẫn dẫn đến cái chết sớm của cậu bé trong phòng hơi ngạt. Tận khi đó, cậu bé vẫn nghĩ rằng mình chỉ đang trong một chuyến phiêu lưu để cố gắng giúp đỡ bạn mình. Và cũng chính vì vậy, điểm nhìn ngây thơ cả Bruno đóng vai trò như lòng dũng cảm, và che chở cậu bé khỏi nỗi sợ hãi trong khi bản thân lâm vào tình thế nguy hiểm, trong cả những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả trong Chú bé mang pyjama sọc phần 3
Tóm tắt: John Boyne là một trong những tiểu thuyết gia thành công và được ngưỡng mộ nhất trong thế hệ của ông. Trong sự nghiệp kéo dài hơn 30 năm, ông đã xuất bản 14 cuốn tiểu thuyết dành cho người lớn, 6 cuốn tiểu thuyết dành cho độc giả nhỏ tuổi và một tuyển tập truyện ngắn. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, Chú bé mang pyjama sọc (The boy in the striped pyjamas), là cuốn sách bán chạy số 1 của New York Times, và được chuyển thể thành phim truyện, vở kịch, vở ballet và vở opera, bán được hơn 11 triệu bản trên toàn thế giới. Tác phẩm nằm trong trong danh sách những cuốn tiểu thuyết kinh điển được xuất bản trên khắp thế giới và được sử dụng trong các trường học trên khắp thế giới để hướng cho độc giả trẻ có thêm cách nhìn và cách tiếp cận về thảm họa Holocaust. Bài viết là sự tổng hợp, kế thừa và học tập những nghiên cứu của các học giả đi trước đã phân tích nghiên cứu về tác phẩm này. Qua việc học tập và đọc lại tác phẩm giúp cho cá nhân hiểu rõ hơn về hình tượng tác giả, mà bình diện được hướng đến là cái nhìn nghệ thuật và giọng điệu trong tác phẩm. Từ khóa: John Boyne; Chú bé mang pyjama sọc; hình tượng tác giả; điểm nhìn; giọng điệu Mở đầu: Chú bé mang pyjama sọc của John Boyne là một tiểu thuyết lịch sử được xuất bản năm 2006, được biết đến rộng rãi trong cả mảng tiểu thuyết dành cho người lớn và dành cho thanh thiếu niên. Tác phẩm miêu tả một cậu bé người Đức, Bruno, có cha là chỉ huy cấp cao của trại tập trung, và tình bạn bất ngờ với một cậu bé Do Thái, Shmuel. Lấy bối cảnh xung quanh trại tập trung Auschwitz trong Thế chiến thứ hai, cuốn tiểu thuyết kết hợp chủ nghĩa hiện thực với ngụ ngôn, tác giả đã sử dụng điểm nhìn của ngôi thứ ba giới hạn và chủ yếu sử dụng giọng điệu mỉa mai, châm biếm, xen lẫn sự ngây thơ non nớt để mô tả các sự kiện dưới góc nhìn của một câu bé chín tuổi. Nội dung: Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, giáo sư Trần Đình Sử đã viết: “Tác giả được hiểu như là một ý thức, một thái độ đạo đức về đời sống, một giọng điệu thì sự biểu hiện của tác giả trong sáng tác là một vấn đề đang được nghiên cứu…Theo chúng tôi, hình tượng tác giả biểu hiện chủ yếu cái nhìn riêng, độc đáo, nhất quán có ý nghĩa tư tưởng, đạo đức, thẩm mĩ; giọng điệu của tác giả thâm nhập vào cả giọng điệu nhân vật; và ở sự miêu tả, có sự hình dung của tác giả đối với chính mình.” Trong bài viết này, tôi xin được đi vào phân tích cái nhìn nghệ thuật và giọng điệu nghệ thuật trong cuốn tiểu thuyết của John Boyne. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả trong Chú bé mang pyjama sọc phần 2
Không gian thiên nhiên Trong ‘‘Truyện Genji’’, M.Shikibu không chỉ xây dựng không gian kinh đô xa hoa mà còn kiến tạo không gian thiên nhiên yên bình. Đó là không gian của những ngôi nhà, biển đảo Suma và vùng núi cao Uji,... Hình ảnh những ngôi nhà mở ra với những cành trúc la đà lấp lánh ánh sương mai. Điểm vào trong đó là tiếng côn trùng vo ve rộn rã bên tai xuất hiện nhiều vào mùa thu. Với bản chất lâu đời là yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, vậy nên không gian sống của người Nhật luôn thoáng mát, gần gũi với thiên nhiên, hòa hợp với cây cỏ. Nằm xa cách với cung đình xa hoa, lộng lẫy, không gian biển đảo Suma mở ra như một thử thách đối với nhân vật khi Genji bị đi đày. Đó là không gian tạo ra bước ngoặt trong cuộc đời của Genji. Từ một chàng công tử quen sống nơi phồn hoa đô hội với những lâu đài nguy nga, tráng lệ, giờ đây anh ta phải đối mặt với cuộc sống cô đơn đầy rẫy khó khăn nơi thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Giữa bờ biển Suma với mây trời, sóng biển rộng lớn là hình ảnh cô đơn, bé nhỏ của Genji. Qua góc nhìn và tâm trạng đó của nhân vật, không gian vùng biển Suma được phác họa vô cùng sống động. Nơi đây hoang vu, kì vĩ với tiếng sóng biển xô bờ mạnh mẽ, những bãi cát trắng trải dài vô tận: “Biển trải rộng bao la tít tắp xui khiến chàng nghĩ tới những gì đã qua, những gì còn sẽ tới”. Trong không gian biển rộng mênh mông, vắng lặng ấy có khoảnh khắc: “từ ngoài bãi biển vọng tới tiếng nói, tiếng hát của những người đánh cá, những chiếc thuyền nom mờ mờ ảo ảo giống như loài chim biển dập dềnh trên mặt biển hết sức vắng vẻ”. Giữa cái mênh mông của vũ trụ, ngôi nhà nhỏ bé, xinh xắn của Genji nằm trên đảo cách bờ một quãng khá xa: “Những nhà mái cỏ, những hành lang mái sậy nom cũng khá thú vị, trong vườn có rất nhiều hoa màu sắc rực rỡ đã khiến cho Genji có vẻ như một vị khách thần tiên xuống cõi trần chất chứa nhiều nỗi sầu nhân thế”. Không gian thiên nhiên trong ‘‘Truyện Genji’’ của nữ sĩ Shikibu không chỉ mang vẻ hoang vu, hùng vĩ mà còn mang vẻ đẹp thanh tịnh, yên bình. Tiêu biểu chính là không gian núi cao vùng Uji. Nơi đây mang vẻ đẹp trầm lặng với mây mù sương phủ, những dòng sông hiền hòa chảy. Nơi chân núi, cuộc sống con người hòa vào với gió ngàn, mây núi tạo nên một bức tranh đẹp đẽ, cuốn hút lạ thường. Bầu trời đem màn sương phủ vào vạn vật: “Sương xuống bao phủ núi rừng; trên một dải đất ven sông, một bầy hạc đang đứng rỉa lông cánh”. Tựa lưng vào sườn núi là những ngôi nhà nhỏ xinh, thấp thoáng khu vườn tràn ngập cây cối xanh tươi. Cuối góc vườn, những khóm ngải hương mọc tươi tốt, xanh rờn. Đêm đêm ánh trăng rải xuống sườn đồi sau núi. Gió nhẹ thoảng qua mang theo tiếng côn trùng kêu rả rích. Trong cái yên bình, lãng mạn ấy cuộc tình của hai chàng trai trẻ Kaoru, Niou với hai người con gái hoàng tử Tám, sau đó là nàng Ukifune đã âm thầm nảy nở nơi núi cao Uji. Bên cạnh vẻ đẹp lãng mạn, ở vùng Uji còn mang vẻ linh thiêng của những ngôi đền. Nơi đây là đích đến của những người tu hành muốn đắc đạo. Nằm chễm chệ ở đỉnh núi Uji là những ngôi đền được trang trí lộng lẫy, cùng những pho tượng Phật được chạm trổ tinh vi bằng gỗ đàm hương. Đặt cạnh đó là những chiếc đỉnh, khói hương nghi ngút quanh năm trên các mâm hoa sen đủ sắc màu: “Đối với một người muốn sống cuộc sống thanh tịnh thì chốn này có thể chỉ có tác dụng mài sắc thêm quyết tâm của người đó”. KẾT LUẬN Với việc tìm hiểu không gian nghệ thuật sẽ góp phần tạo dựng môi trường tinh thần cho con người, con người được bộc lộ bản thân một cách rõ nét nhất. Bên cạnh đó, không gian nghệ thuật giúp thể hiện chiều kích tâm hồn con người nghệ sĩ và dấu ấn cá nhân, dấu ấn dân tộc cũng như dấu ấn Vậy là có thể thấy, không gian thiên nhiên trong ‘‘Truyện Genji’’ hiện lên vô cùng đa dạng, phong phú. Có lúc nó mang vẻ hoang vu, hùng vĩ đến rợn ngợp. Có khi lại thanh bình, lãng mạn, thơ mộng y hệt dáng vẻ một bức tranh thủy mặc. Thậm chí cũng có thể uy nghi, linh thiêng đầy thành kính. Chính cái đặc sắc, phong phú của không gian ấy đã góp phần tô đậm giá trị của tác phẩm thời đại. Như vậy, với vai trò vô cùng quan trọng đó của không gian nghệ thuật thì thế giới không gian trong “Truyện Genji” của nhà văn M.Shikibu đã phát huy được tác dụng của nó, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm cũng như tạo dựng được giá trị cao đẹp mà tác giả hướng đến. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Truyện Genji phần 1
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN GENJI CỦA M.SHIKIBU Không gian kinh đô Không gian kinh đô chính là không gian có tần suất xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm. Không gian ấy xoay quanh những mối quan hệ trong hoàng cung, những người thuộc tầng lớp quý tộc. Đây là nơi mà tác giả có thể tập trung thể hiện chủ đề của truyện, nó kết nối trực tiếp với số phận của các nhân vật. Mở đầu tác phẩm các nhân vật trong truyện thường bắt đầu xuất hiện ở kinh đô. Đến khi tác phẩm kết thúc, họ lại trở về với chính không gian đó. Trong không gian kinh đô, cuộc sống diễn ra muôn hình vạn trạng. Đây là nơi lên ngôi, thống trị của tiền bạc, quyền lực; cũng là nơi diễn ra hàng loạt các hoạt động của đời sống sinh hoạt hàng ngày nơi kinh thành… Chính vì thế, không gian thường được miêu tả với vẻ đẹp huy hoàng, lộng lẫy, hào nhoáng như những bức tranh đầy sống động với mùi hương, ánh nắng, âm thanh... Không gian trong tác phẩm được miêu tả một cách cụ thể, rõ nét. Mỗi khu vườn có từng khoảng sân với những dãy hàng rào nối nhau sắp xếp gọn gàng, theo từng khu, được chăm sóc, cắt tỉa cẩn thận, tỉ mỉ “có một không hai với hoa lá cây cối được uốn tỉa thành nhiều hình khác nhau, một bến thuyền, ánh trăng đùa giỡn trên mặt nước; tất cả tạo thành một bức tranh. Đây là không gian sống xa hoa vương giả của các vương tôn quý tộc, với những tòa lâu đài luôn được trang hoàng lộng lẫy, những con thuyền bồng bềnh trên mặt nước, những con chim cốc được đưa đến để đi bắt cá chép”. Thêm vào đó những lâu đài với lối kiến trúc đặc sắc tạo nên sự kết hợp hài hòa với không gian của khu vườn có cây cối xanh tươi quanh năm, trăm hoa đua sắc, những con suối chảy róc rách đánh vào các tảng đá tạo thành âm thanh như tiếng nhạc… Mỗi góc trong khu vườn sẽ được thiết kế riêng để phù hợp với từng chủ nhân theo sở thích và tính cách riêng. Ví như tại lâu đài Rokujo, mỗi phu nhân sẽ được cai quản một mùa trong khu vườn. Phu nhân Akashi với tính cách trầm lặng sẽ cai quản tại khu vườn phía Tây Bắc với nhiều đồi núi nhân tạo cùng những vườn cúc sẽ tạo nên sắc đẹp rực rỡ trong những ngày đông tuyết rơi lạnh lẽo. Còn phu nhân Akikônomu thì chăm sóc khu vườn mùa thu ở phía Đông Nam với rất nhiều loài hoa sặc sỡ bên cạnh suối nước mùa thu. Còn lại là khu vườn mùa xuân phía Đông Nam và khu vườn sặc sỡ của những loài hoa mùa hè ở phía Bắc… Có thể thấy những không gian ấy tuy đều có nét đẹp lộng lẫy riêng nhưng đã hòa quyện hài hòa với nhau để tạo nên sự gần gũi với thiên nhiên chốn kinh đô hoa lệ Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Truyện Genji phần 3
TÓM TẮT Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng, một phạm trù nghệ thuật. Nó là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là phương tiện để nhà văn thể hiện một quan niệm nhất định về thế giới. Là tác phẩm tiểu thuyết đầu tiên của nhân loại, ‘‘Truyện Genji’’ của M.Shikibu đã đem đến những không gian nghệ thuật mới mẻ, đặc sắc tạo nên giá trị cho tác phẩm. Trong phạm vi dung lượng có hạn, bài viết tập trung làm rõ ‘‘Không gian nghệ thuật trong ‘‘Truyện Genji’’ của M.Shikibu’’ để thấy được đóng góp to lớn của nhà văn vào thể loại tiểu thuyết. Từ khóa: không gian, nghệ thuật, truyện Genji, M.Shikibu ĐẶT VẤN ĐỀ Một trong những tác phẩm có giá trị của văn chương thời Heian nói riêng, văn chương Nhật Bản nói chung là ‘‘Truyện Genji’’ của tác giả M.Shikibu. Đây là tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự ra đời của thể loại tiểu thuyết. Nó cũng là tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những nhà văn hiện đại ở giai đoạn sau. Đặc biệt trên phương diện nghệ thuật, ‘‘Truyện Genji’’ đã đặt cơ sở cho kiểu kết cấu truyền thống trong việc viết tiểu thuyết Nhật Bản. Trong đó yếu tố không gian nghệ thuật đã được tác giả xây dựng một cách đặc sắc, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Truyện Genji phần 2
Cô Gái còn là người hay hoài niệm và trân trọng những kỉ niệm gắn liền với quá khứ. Cô trông coi ngôi nhà mà ông bà để lại. Mặc dù “không có người ở, nhưng cô tôi vẫn giữ nếp sáng mở ra, tối đóng lại như khi ông bà còn sống”. Ngôi nhà này nhiều chỗ bị mọt ăn rỗng, nhưng cô Gái cố gắng vá lại, quyết giữ gìn nó bằng bất cứ giá nào. Bởi lẽ, không đâu khác, chính căn nhà này là nơi ghi lại dấu vết của các thế hệ đi trước, nơi lưu giữ những kỉ niệm từ khi cô còn nhỏ đến hiện giờ. Vậy nên, có những hôm, cô ngồi im lặng giữa gian nhà, có khi lẩm bẩm điều gì đó, mà cũng có thể cô đang “nói chuyện với những người vô hình, những người đã sống trong ngôi nhà này”. Cô Gái xúc động khi nghe cô Thiệp, cô Mỹ nhắc lại những chuyện quá khứ, chuyện hồi nhỏ cô Thiệp làm vỡ cốc rồi bị mẹ mắng, chuyện con Vàng được ông mang về nuôi rồi khi ông mất nó cũng buồn bã đi theo, chuyện bố Thư hồi nhỏ đi tắm sông suýt chết đuối… Những kỉ niệm ấm áp ngày xưa đó đã đánh thức trái tim của cô Gái, “những giọt nước mắt chân thành bỗng ứa ra, chảy trên đôi gò má”, cô tiếc nuối tuổi thơ đã qua. Dường như lớp vỏ bọc lạnh lùng, vô cảm của cô đã bị tháo gỡ, lúc này cô Gái hiện lên thật dịu dàng, hiền hậu và đẹp đẽ. Cô Gái còn là người gìn giữ những giá trị văn hóa từ lâu đời. Cô “trông nom nhà cửa, bằng mọi cách cứu lấy nó, không cho nó trôi tuột vào quá khứ, không cho nó mất đi dáng vẻ bề ngoài”. Ngôi nhà ấy, không chỉ là nơi chứa đựng những kỉ niệm mà còn là nơi lưu dấu văn hóa của vùng miền. Từ cấu trúc đến cách sắp xếp, bày biện đồ vật bên trong ngôi nhà đều được cô Gái giữ nguyên như thời ông bà còn sống. Gia đình theo đạo Thiên Chúa, bởi vậy, cô vẫn đều đặn thực hiện các lễ nghi như làm dấu, đọc kinh, cầu nguyện, xưng tội,… Cô gìn giữ những món được xem là “bảo vật” (tóc thánh, xương thánh) và cảm thấy tự hào vì chỉ gia đình mình có thứ này. Công việc của cô là bán thuốc viên. Nghề thuốc được truyền từ thời kị cho cụ, từ cụ cho ông, rồi từ ông sang bác Linh, nhưng bác Linh lên tỉnh nên bỏ nghề. Cô Gái thấy tiếc nuối nên quyết định làm. Mặc dù không được truyền nghề, nhưng bằng vốn liếng có được khi giúp ông làm thuốc, cô lựa chọn gắn bó với nghề này. Cô ý thức được sự quý giá của những bài thuốc cổ truyền và thấy rằng mình cần có trách nhiệm gìn giữ nó. Cô trăn trở về việc tìm người nối nghề thuốc của gia đình. Với cô, làm cái nghề này cần có tâm, vì nếu không may truyền cho người xấu để họ lợi dụng “bắt chẹt làng nước thiên hạ, mình hóa ra có tội”. Như vậy, trái với vẻ ngoài lạnh lùng, keo kiệt, sâu bên trong cô Gái là người có tấm lòng nhân hậu, bao dung, là người biết trân quý những giá trị sống. Điều đó cũng được cậu bé Thư nhận thấy: “Thực ra, cô Gái tôi không phải người ác. Bên trong vẻ ngoài khắc khổ, nghiệt ngã, ẩn náu một trái tim tốt lành.”. Phải chăng, khi đứng trước cuộc sống bề bộn, con người thường bộc lộ vẻ xấu xa, đáng ghét, nhưng sâu thẳm trong họ vẫn giữ được bản tính lương thiện của con người. Kết luận Như vậy, con người trong quan niệm nghệ thuật của Vũ Thư Hiên gồm có hai mặt đó là con người xù xì, gai góc đương đầu với khó khăn thử thách và con người nhân hậu, khoan dung, bảo vệ những giá trị truyền thống lâu đời. Có lẽ, quan niệm nhà văn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ quan niệm truyền thống về con người, coi trọng vẻ đẹp phẩm chất hơn là vẻ đẹp hình thức: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.” Từ đó, nhà văn Vũ Thư Hiên lên tiếng ca ngợi và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của con người, dù hoàn cảnh có ra sao đi chăng nữa thì họ không bao giờ đánh mất đi sự lương thiện, phần “người” của mình. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Miền thơ ấu phần 1
Con người khoan dung, trân trọng với những giá trị sống Con người trong sáng tác của Vũ Thư Hiên hiện lên với vẻ ngoài xấu xa, đáng ghét nhưng bản chất bên trong lại nhân hậu, đáng quý. Bề ngoài, cô Gái tỏ ra là một người lạnh lùng, khó gần nhưng cũng có những khi cô quan tâm và yêu thương người khác. Cô yêu quý người em trai út (bố Thư), vậy nên khi nghe tin em bị bắt giam cô đau buồn và rơi nước mắt. Cô quyết định nhận nuôi Thư, mặc dù trước đó cô chẳng hề quan tâm đến cậu, nhưng có lẽ vì cậu là máu mủ ruột thịt và cũng vì cô thấy thương cho hoàn cảnh của cậu. Cô Gái thấu hiểu được tâm tư, nỗi niềm của người cháu khi phải sống xa gia đình. Cô biết Thư nhớ nhà, cô thương nhưng lại lúng túng không biết làm thế nào cho cậu khuây khỏa. Cô cố gắng nhớ lại những trò chơi thuở thơ ấu của mình để bày cho Thư chơi như đập ruồi làm mồi cho kiến tha, bắt bọ ngựa cho chúng đấu kiếm, gấp thuyền giấy thả xuống ao, đi câu công cống. Nhờ những trò chơi đó của cô mà Thư vơi đi nỗi nhớ, bắt đầu làm quen với cuộc sống ở vùng quê này. Những việc cô làm đó của cô xuất phát từ tấm lòng nhân hậu. Bởi nếu không yêu thương một ai đó, thì ta sẽ chẳng bao giờ quan tâm đến cảm xúc của họ. Cô Gái kể cho Thư nghe những câu chuyện thời ông bà nội còn sống, đó là chuyện ông nhắc nhở các con cần giữ cho nhà cửa sạch sẽ, chuyện ông chăm sóc vườn cây, chuyện ngày bé ông bà cho kẹo khi bố Thư buồn… Chính những câu chuyện vụn vặt đó đã gắn kết tình cảm hai cô cháu lại gần nhau hơn. Cô không còn gọi Thư là “mày” lạnh lùng như ngày trước, mà chuyển sang gọi là “cháu”. Không chỉ yêu thương người thân trong gia đình, cô Gái còn dành tình thương cho những người nghèo khổ. Khi bán thuốc ở chợ mà gặp người bệnh nghèo, cô sẵn sàng cho không mà chẳng lấy của họ đồng nào. Cô Gái cũng thương hoàn cảnh của ông Nhiêu Tuất, nhà nghèo, lại bị vợ bỏ, con cái đi làm ăn xa ít khi gửi thư về. Lắm lúc cô tức giận thay ông: “Cái thằng con nhà Nhiêu Tuất không thấy gửi gì cho bố, quân bất hiếu bất mục” rồi lo lắng “không biết ông lão lấy gì ăn”. Thế rồi cô lại bảo Thư “mang sang cho ông Nhiêu Tuất một rá gạo”, nhờ đó mà ông cầm hơi chờ được tiền con trai gửi về. Với chú Khóa, khi biết Thư lén lút mang gạo cho chú, cô cũng không quát mắng. Đặc biệt, lúc chú Khóa mất, cô bỏ tiền cho người khiêng chú đi chôn và đóng tiền vào nhà xứ “để xin một lễ Mi-sa mồ cầu cho linh hồn chú”. Trong nạn đói, ông Phó Mã dắt hai đứa con đến nhà cô Gái xin ăn. Một lần nữa, Thư lại lén lút mang gạo cho ông lão. Khi biết tin, cô Gái “khen cháu sáng dạ”, cô còn sợ “thằng cháu ở nhà không biết san sẻ với người đói”. Từ những việc làm ở trên, ta chẳng còn thấy một cô Gái keo kiệt, bủn xỉn mà là một người có tấm lòng nhân hậu, biết yêu thương, giúp đỡ người khác. Tấm lòng đó thật đáng trân trọng! Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Miền thơ ấu phần 5
Quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Vũ Thư Hiên trong tiểu thuyết “Miền thơ ấu” thông qua nhân vật cô Gái Cô Gái là chị cả trong gia đình có bốn chị em. Dưới cô Gái là cô Thiệp, cô Mỹ và chú Tư (bố của Thư). Cô Gái sống trọn đời đồng trinh (không chồng, không con cái) trong ngôi nhà cũ kĩ từ thời cụ kị để lại, các em của cô người thì đi lấy chồng xa, người thì chuyển lên thành phố sống, thành ra một mình cô trông nom nhà cửa, vườn tược. Con người bày ra vẻ ngoài xấu xa, đáng sợ để đối mặt với cuộc sống Trong sáng tác của mình, Vũ Thư Hiên quan niệm con người thường trưng ra ngoài bộ dạng xấu xa, đáng sợ để đương đầu với những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Bởi đó là cách họ xây dựng lớp vỏ bọc cho mình khỏi những ảnh hưởng ngoài xã hội. Trong tiểu thuyết “Miền thơ ấu”, tác giả xây dựng nhân vật cô Gái với vẻ ngoài lạnh lùng, đáng sợ. Cô có “vóc người cao lớn, xương xẩu, dáng đi thẳng đuột, bộ mặt quàu quạu, cái nhìn chê bai và soi mói, giọng nói lạnh lùng”. Có lẽ bộ mặt và ánh nhìn cau có, khó chịu đó là một trong những lí do khiến mọi người sợ hãi, tỏ ra e ngại mỗi khi gặp cô. Ngày đầu Thư mới về quê sống, cô gọi cậu bằng chất giọng lạnh lùng, cùng “cái nhìn soi mói, xa lạ, phán xét như nhìn một con vật vừa mua” khiến cậu run sợ, phải ngoan ngoãn nghe lời cô. Cũng chính thái độ lạnh lùng đó, khiến mẹ con cô Thiệp mới về chơi phải lúng túng, sợ sệt, cố gắng làm mọi thứ để cô Gái hài lòng. Hay như khi ông Phó Mão đến nhà xin gạo, ông cũng rào trước với Thư xem cô Gái có nhà hay không. Khi nhận được thông tin cô đã ra ngoài, “ông thở phào nhẹ nhõm”,những lo sợ trong lòng cũng tan biến. Dường như mọi người đều sợ cô Gái, cố gắng né tránh hoặc tìm cách làm cô hài lòng. Bộ dạng xấu xa, đáng ghét còn được thể hiện qua tính keo kiệt, bủn xỉn của nhân vật cô Gái. Cô sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nghèo khó, chính hoàn cảnh đó đã tác động đến lối sống của cô. Việc ăn uống và chi tiêu của cô hết sức hà tiện: đong gạo nấu cơm thì chỉ lấy cho vừa đủ; hằng ngày cô chỉ ăn cơm với cá rô kho và “rau muống luộc chấm mắm cáy”; cô ít khi dùng đến diêm, thường thì để lửa bằng đống rấm, nếu rấm tắt thì sang nhà hàng xóm xin lửa, một que diêm cô chẻ làm đôi để dùng dần,… Lối sống hà tiện đó khiến mọi người e dè khi muốn nhờ vả hay xin cô thứ gì. Cô Gái còn là người hay ngờ vực và đề phòng, cô lo sợ mọi người trộm tài sản của mình. Nếu sự nghi ngờ ấy với những người xa lạ thì đó là lẽ đương nhiên. Ấy vậy nhưng, cô lại đề phòng ngay cả những người thân trong gia đình. Bằng chứng là, trong mấy ngày cô Thiệp về chơi, cô Gái đã nhắc nhở Thư cần phải cảnh giác: “Coi nhà cho kĩ, cô Thiệp đi một bước là phải theo một bước, kẻo cô táy máy nghe chửa?”. Rồi cả khi cô Gái tuyệt vọng, gào góc vì lũ mối gặm nhấm số tiền tiết kiệm của mình, Thư chạy vào an ủi, động viên, thậm chí giúp cô tìm lại những đồng bạc hoa xòe và những tờ tiền chưa bị mối đụng đến. Tuy nhiên, khi thấy cậu ngồi trước hàng xấp tiền giấy, cô lại tỏ ra ngờ vực, “vội chạy đến”, gạt cháu ra, rồi “hấp tấp cài then cửa”. Hỡi ôi! Của cải vật chất đã che mờ tình thân ruột thịt, nó khiến con người ta trở nên ích kỉ, keo kiệt hơn, nó làm người ta hoài nghi, đề phòng cảnh giác với chính người thân của mình. Thật đáng buồn! Vốn là người kĩ tính, hay soi xét, cô Gái cảm thấy khó chịu khi con cháu trong nhà nhận đồ của người khác. Khi thấy cô Nhung dấm dúi cho Thư mấy củ khoai lùi hay bắp ngô nướng, cô Gái “coi đó là sự phỉ báng lặng lẽ với bà”. Hay khi cô Thiệp được bạn bè trong xóm cho đồ, cô Gái không cho nhận và phản ứng một cách gay gắt. Với cô việc nhận sự giúp đỡ, hay ân huệ của người khác là một hành động “bêu xấu gia đình”, đánh mất lòng tự trọng, giống như kẻ ăn xin được người khác ban phát, bố thí cho. Cô Gái không chấp nhận việc hạ thấp bản thân mình nhưng điều đó lại vô tình làm tổn thương đến người khác. Người ta sợ không dám cho và cũng chẳng dám nhận thứ gì từ cô, họ sợ sự cay nghiệt của bà. Ở đời, con người ta thường hay so đo, tính toán với những người xung quanh, bao giờ cũng sợ bản thân thua kém họ. Và thế là họ tìm mọi cách khiến cho mình nổi bật hơn kẻ khác. Sự xấu xa và đáng ghét đó được thể hiện rất rõ trong nhân vât cô Gái. Cô hay hơn thua với những bà cô cùng cảnh như mình – không lấy chồng – đó là cô Oanh và cô Nhung. Khi thấy cô Oanh cho Thư bánh, cô Gái cũng gói bánh cho cậu ăn rồi tò mò muốn biết bánh của ai làm ngon hơn. Rồi cả khi cô kể chuyện ma cho mấy đứa cháu nghe, cô cũng muốn biết giữa cô, cô Nhung và cô Oanh ai kể hay hơn. Khi nhận được câu trả lời hài lòng, cô Gái “hởi lòng hởi dạ”, “mỉm cười sung sướng”, thế là cô kể hết chuyện này đến chuyện khác mà không thấy mệt. Như vậy, ở cô Gái hội tụ những tính cách tiêu biểu như lạnh lùng, keo kiệt, hoài nghi, so đo, tính toán,... Có lẽ, sự nghèo khó của làng quê, sự cô đơn khi phải gồng mình gánh vác trách nhiệm trông nom gia sản của ông bà để lại đã khiến cô trở nên xấu xa, đáng ghét và khó gần. Chính môi trường và hoàn cảnh sống đã nhào nặn con người ta trở nên xù xì, gai góc để chống chọi với những “phong ba bão táp” của cuộc đời. Đứng trước cuộc sống bề bộn, muôn màu muôn vẻ, nếu con người hèn nhát thu mình lại thì rất dễ bị kẻ mạnh hơn bắt nạt và chèn ép. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Miền thơ ấu phần 4
Vài nét về nhà văn Vũ Thư Hiên và tiểu thuyết “Miền thơ ấu” Nhà văn Vũ Thư Hiên Vũ Thư Hiên sinh năm 1933 tại Hà Nội, bút danh là Kim Ân. Cha ông là Vũ Đình Huỳnh và mẹ là Phạm Thị Tề đều là thành viên của Thanh niên cách mạng Đồng chí Hội – tiền thân của Đảng cộng sản Đông Dương. Năm mười ba tuổi, ông tham gia đội tuyên truyền xung rồi trở thành người lính năm mười sáu tuổi. Trong thời gian này, tài năng văn chương của ông dần được bộc lộ. Năm 1953, Vũ Thư Hiên sáng tác vở kịch “Lối thoát”, đây là tác phẩm giúp ông gia nhập vào làng văn nghệ kháng chiến. Sau đó, Vũ Thư Hiên được mọi người biết đến nhiều hơn nhờ dịch “Bông Hồng Vàng” và tập truyện ngắn của nhà văn Nga K.G. Paustovsky. Tuy nhiên, đến truyện ngắn “Đêm mất ngủ” và kịch bản “Đêm cuối cùng, ngày đầu tiên” thì ông bị gán cho tội bất mãn chế độ, không lập trường giai cấp và bị đẩy vào tù. Năm 1976, ông ra tù rồi tiếp tục dịch sách, viết truyện và kịch. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông sau năm 1975 như Luật rừng, Khúc quân hành lặng lẽ, Miền thơ ấu, Đêm giữa ban ngày. Tiểu thuyết “Miền thơ ấu” “Miền thơ ấu” được Vũ Thư Hiên sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt, đó là vào thời gian ông bị bắt giam. Vũ Thư Hiên chia sẻ, mùa đông năm 1967, giữa cái lạnh buốt giá, ngồi trong xà lim không có lò sưởi, không có quần áo ấm, ông bỗng cảm thấy rất nhớ quê hương. Có lẽ, cái mùi khói cay nồng từ đống lá mà công nhân quét đường đốt lên để sưởi ấm bên kia bức tường đá của nhà ngục, bay vào trong xà lim đã đánh thức những kí ức về thời thơ ấu của nhà văn. Bởi vì, ở quê của ông, người ta cũng thường đốt những đống rấm như thế để ngăn sương muối không hạ xuống vườn rau. Bằng tình yêu và nỗi nhớ da diết về quê hương, Vũ Thư Hiên đã quyết định viết một cuốn sách về cái làng quê nghèo khó ấy, nơi chứa đựng biết bao kỉ niệm đáng nhớ của tuổi thơ. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình từ mùa thu năm 1969. Lúc đầu, ông viết trên vỏ bao thuốc lá, giấy kẹo, trên những riềm báo cũ bằng hai cái ruột bút. Những mẩu bản thảo được gia đình bí mật đưa ra ngoài và tập hợp thành một bản hoàn chỉnh. Sau khi Vũ Thư Hiên ra tù, mãi tới năm 1987 cuốn sách mới được nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh in ra. Cũng trong năm này, “Miền thơ ấu” đạt giải A, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho hạng mục tiểu thuyết. “Miền thơ ấu” kể về cậu bé Thư 7 tuổi sống cùng gia đình ở Hà Nội vào khoảng những năm 40 của thế kỉ XX. Nhưng vì một biến cố đặc biệt – bố cậu tham gia hoạt động cách mạng bí mật rồi bị bắt – cậu phải về quê sống với cô Gái (chị cả của bố). Đó là một làng quê bùn lầy nước đọng ở vùng chiêm trũng Bắc Bộ, một xứ đạo Công giáo thuần thành. Mới đầu về, cậu bị cô Gái bắt học kinh bổn, cầu nguyện, đi nhà thờ,… rồi được cô dẫn đi chào hỏi các cô bác xung quanh. Dần dần, cậu cũng quen với cuộc sống làng quê, đi câu cá, tập bơi, tụ tập cùng các anh chị nghe kể chuyện ma, lén lút mang gạo cho người nghèo,… Những điều này đã trở thành một phần kí ước khó phai trong tâm hồn của cậu bé Thư. Mỗi nhân vật trong truyện đều có hoàn cảnh, tính cách và số phận riêng, cô Gái là một con chiên ngoan đạo, sống trọn đời đồng trinh, tính keo kiệt, bủn xỉn nhưng lại thương người nghèo, cô Thiệp nhút nhát, cố gắng làm mọi thứ để vừa lòng mọi người, chị Phương hiền lành, cam chịu gánh vác công việc của gia đình, ông Nhâm Tuất bị vợ bỏ, con trai đi làm ăn xa ít thư từ gửi về… Ở cái làng quê ấy, con người tuy nghèo khó, vất vả, dù đôi khi họ đỗi đãi với nhau nghiệt ngã, tủn mủn, nhưng ẩn phía sau là vẻ đẹp mộc mạc, chân chất, là tấm lòng nhân hậu, bao dung. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Miền thơ ấu phần 3
Tóm tắt Quan niệm nghệ thuật về con người là hướng tiếp cận và khám phá những giá trị bề sâu trong một tác phẩm mà nhà văn muốn truyền đạt. Trong tiểu thuyết “Miền thơ ấu”, thông quan xây dựng hình tượng nhât vật cô Gái, nhà văn Vũ Thư Hiên cho thấy quan niệm về con người của ông đó là con người mang vẻ bề ngoài xấu xa, đáng ghét nhưng ẩn chứa bên trong là một tâm hồn đẹp đẽ và lương thiện. Từ khóa: quan niệm nghệ thuật, con người xấu xa, con người lương thiện. Mở đầu Quan niệm nghệ thuật là yếu tố đặc biệt quan trọng chi phối đến quá trình sáng tác của nhà văn. Việc nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người là cách khám phá những thông điệp mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm của mình. Trong bài viết này, tôi xin đi vào tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Vũ Thư Hiên trong tiểu thuyết “Miền thơ ấu”. Việc nghiên cứu này có thể xem như một góc nhìn mới về con người trong sáng tác của Vũ Thư Hiên. Nội dung Khái quát quan niệm nghệ thuật về con người Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu cách cắt nghĩa, cách lí giải, cách cảm nhận về con người của nhà văn nhưng được thể hiện trong tác phẩm văn học thông qua hệ thống các phương tiện nghệ thuật.a Đối tượng trung tâm của văn học là con người, dù tác phẩm đó có trực tiếp viết về con người hay không, hay chỉ viết về đồ vật, con vật, cây cối,… thì ẩn sau nó vẫn có hình bóng của con người. Câu chuyện nhà văn viết là câu chuyện về cõi nhân sinh. Mỗi thời đại, mỗi nhà văn khác nhau, lại có những quan niệm khác nhau về con người. Dù số lượng nhân vật có phong phú đến đâu thì đều chịu sự chi phối chung về quan niệm con người của nhà văn. Bản thân mỗi nhà văn quan niệm nghệ thuật về con người cũng có sự thay đổi qua các thời kì. Vì vậy, muốn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn nào thì ta phải đi vào khám phá, khảo sát tác phẩm của nhà văn đó. Việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn có vai trò rất quan trọng. Thứ nhất, nó làm nổi bật tính chủ thể, vai trò chủ thể của nhà văn trong việc miêu tả nhân vật. Thứ hai, nó là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá tính nhân văn của một nền văn học. Thứ ba, nó cũng là tiêu chí để đánh giá sự đổi mới của một nền văn học, một giai đoạn văn học. Cuối cùng, việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đánh giá được sự đóng góp của nhà văn, đồng thời khẳng định vị trí, vai trò và tài năng của nhà văn trong nền văn học đó. Quan niệm nghệ thuật về con người được thể hiện trong toàn bộ tác phẩm, nhưng tập trung nhiều nhất là việc miêu tả nhân vật. Nói cách khác, nhân vật chính là phương tiện để thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Trong bài viết này, tôi xin đi vào tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Vũ Thư Hiên trong tác phẩm “Miền thơ ấu” thông qua nhân vật “cô Gái”. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Miền thơ ấu phần 2
MỞ ĐẦU Người ta thường nói “Văn học là nhân học”. Môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục tình cảm, tư tưởng cho học sinh. Bàn về vấn đề này, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng cho rằng “Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mìn h suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, snags tỏ, chính xác, làm nổi bật được điều mình muốn nói”. Chương trình môn Ngữ văn lơp 6 cấp Trung học cơ sở (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) nhằm mục tiêu hướng tới phát triển phẩm chất và năng lực của người học. Thông qua các hoạt động nghe, nói, đọc và viết với hệ thống văn bản được kết nối chặt chẽ trên cả trục chủ đề và trục thể loại. Học sinh được phát triển năng lực văn học, năng lực ngôn ngữ cũng như các năng lực tự chủ và tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác và sáng tạo. Đồng thời cũng bồi dưỡng cho học sinh các phẩm chất chủ yếu được nêu trong Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, đặc biệt là những phẩm chất gắn với đặc thù của môn Ngữ văn như: khoan dung, lòng nhân ái, tinh thần trượng nghĩa, tình yêu quê hương đất nước,… Trong đó việc đọc hiểu các văn bản truyện đồng thoại có vị trí rất quan trọng góp phần rát lớn trong việc hình thành các phẩm chất năng lực cho người học. Việc dạy học Văn theo tinh thần Thi pháp học là xu hướng chung của thế giới. Ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện việc này. “Hình tượng thế giới” không chỉ có nhân vật mà còn có thời gian, không gian. Thi pháp học chỉ chú ý những chi tiết thời gian, không gian nào có ý nghĩa, góp phần thể hiện cuộc sống con người, chúng vừa mang tính quan niệm lại vừa như thủ pháp nghệ thuật (lấy cảnh tả tình). Không gian và thời gian thường gắn liền, chi phối, cộng hưởng lẫn nhau tạo ra một “thế giới mang tính quan niệm”. Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành chứa đựng rất nhiều tri thức về Thi pháp học, trong đó nổi bật nhất là văn bản “Hoàng tử bé”. Xuất phát từ thực tế trên, tôi thực hiện đề tài: vận dụng thi pháp học (không gian, thời gian, nhân vật) vào dạy học văn bản truyện đồng thoại "Hoàng tử bé" với mục tiêu đưa thi pháp học vào giảng dạy văn bản này. KHÔNG GIAN TRONG TRUYỆN ĐỒNG THOẠI "HOÀNG TỬ BÉ" Cũng như mọi vật trong thế giới đều tồn tại trong không không gian ba chiều: rộng, xa, cao và chiều thứ tư là thời gian, không gian nghệ thuật luôn gắn với thời gian, mở ra với thời gian, và cũn g có các chiều ấy, nhưng có thêm điểm nhìn chủ quan của con người, tạo thành một mô hình thế giới, mang đậm tính chất thẩm mĩ, xã hội, màu sắc cảm xúc, tưởng tượng, không giống với không gian trong thực tế và đặc biệt, nó là không gian tạo ý nghĩa, mang quan niệm nhất định. Không gian trong nghệ thuật là đại lượng hữu hạn. Tính vô hạn chỉ là viễn cảnh, còn không gian hoạt động của nhân vật luôn là hữu hạn. Mặt khác, không gian nghệ thuật có tính gián đoạn. Nhà văn không thể và không cần miêu tả toàn bộ tính liên tục của không gian, mà chỉ chọn lấy những gì quan trọng, tiêu biểu đối với hoạt động của nhân vật. Không gian nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm qua các cặp đối lập như trên – dưới, đây – đó, trong – ngoài, cao – thấp, to – nhỏ, rộng – hẹp, quê mình – quê người, phải – trái, lên – xuống, vô hạn- hữu hạn…; các biểu tượng không gian như mặt đất - bầu trời, núi cao – biển rộng, ngôi nhà - cánh đồng, con đường – làng quê, dòng sông – bến nước… Từ một trải nghiệm vô nhân đạo và quá sức - trải nghiệm đã biến cả nhân loại với một định mệnh và lịch sử vô cùng phức tạp thành một thuật toán rồi sau đó thành một nạn nhân – Saint Exupery muốn giải cứu con ngườii chứ không phải những số liệu thống kê. Những số liệu thống kê có thể là bất cứ người nào trên địa cầu bị ám ảnh với việc tôn sùng “đếm”, đếm những vì sao nếu đó là nhà du hành vũ trụ hay là lợi nhuận nếu đó là một doanh nhân. Cách để thưởng thức “Hoàng tử bé” đủ đầy nhất chính là coi nó như là một câu chuyện ngụ ngôn được mở rộng về thể loại và sự ngu ngốc của trừu tượng - cùng với đó là sức mạnh và sự chua chát đến từ việc Saint-Exupery làm kịch tích hoá sự đấu tranh chống lại sự trừu tượng không như là một vật thể triết học mà như là một câu chuyện về cái chết - sự sống. Cuốn truyện di chuyển từ cổ tích và hài kịch đến bi kịch kì bí, đi từ thiên thạch đến sa mạc để khẳng định một điều luôn tái diễn: Bạn không thể yêu hoa hồng nói chung, bạn chỉ có thể yêu một bông hồng mà thôi.
Tác phẩm tạo ra các cặp sóng đôi: hai con người, hai bức tranh, hai dòng suy ngẫm. Bức tranh thứ nhất là sự hối lỗi của người họa sĩ, bức tranh thứ hai là bức tranh của chính bản thân mình: tự họa chân dung của chính mình, tự suy ngẫm, nhìn thẳng vào mặt khuất lấp của mình. Dường như nhà văn tạo ra một cuộc hội thoại giả tưởng giữa hai con người trong tâm trí của người họa sĩ nói chuyện với nhau, chất vấn nhau: nhận lỗi thẳng thắn hay lảng tránh. Nguyễn Minh Châu còn đem đến cho người đọc cảm nhận một cách chi tiết về sự dè chừng, đắn đó trong lần quay trở lại để thú tội của ông họa sĩ “Tôi có cảm giác hồi hộp của một anh bộ đội giữa trận đánh đồn vừa vượt qua lớp lớp hàng rào để bám được vào cái đột phá khẩu. Lúc ban nãy, khi đạp xe vừa chớm đến quãng đường phố ngang với bức mành, chỉ chút xíu nữa là tôi đã nhấn mạnh chân vào bàn đạp cho bánh xe lăn thật nhanh như mọi lần”. Cuối cùng ánh sáng của chân lý cũng chiến thắng, ông họa sĩ đã dũng cảm nhận sai lầm của chính bản thân mình “luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và phía trên đầu chiếu thẳng xuống”. Có lẽ đây chính là ánh sáng của cái thiện, của vẻ đẹp đạo đức. Đến đây, Nguyễn Minh Châu đã dẫn dắt người đọc đi tìm lại chính con người thật, bản tính thật, đạo đức thật của mình. Không chỉ vậy, ta còn thấy được vẻ đẹp trong con người chiến sĩ, người chiến sĩ ấy vẫn nhiệt tình, vẫn chu đáo quan tâm ông họa sĩ, dù biết rằng người mà mình đang cắt tóc chính là ông họa sĩ đã vẽ chân dung mình năm xưa nhưng lại không gửi bức tranh về để báo tin cho gia đình. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người chiến sĩ với phẩm chất tốt để từ đó ta thấy được sự hổ thẹn của ông họa sĩ. Người chiến sĩ vẫn trò chuyện với họa sĩ, không có ý định vạch trần, vẫn nương theo dòng suy ngẫm của ông họa sĩ và cũng chính vì lẽ đó mà ông họa sĩ càng trở nên đắn đo, dằn vặt. Kết luận Qủa thực sự đổi mới văn học giai đoạn sau 1975 đã khơi dậy được sự sáng tạo mới mẻ của các nhà văn, khai thác con người dưới nhiều góc độ khác nhau thể hiện về tự do, dân chủ trong sáng tác ghi đậm dấu ấn cá nhân và cá tính sáng tạo trong các tác phẩm văn nghệ của mình. Tuy vậy mục tiêu của văn học vẫn hướng tới bảo vệ những phẩm chất truyền thống của con người Việt Nam, lên án cái xấu, hạn chế tật xấu của con người, đồng thời phát triển thêm giá trị mới. Và Nguyễn Minh Châu giống như viên ngọc sáng, đem tới quan niệm nghệ thuật về con người thật sâu sắc: Hãy nhìn con người từ nhiều góc độ khác nhau, để ta thấy được những mặt khuất lấp trong tâm hồn họ, để rồi ta đồng cảm, thấu hiểu họ. Bản thân mỗi chúng ta cần nhìn nhận lại, suy ngẫm lại về chính mình từng giờ, từng ngày để tránh bỏ lỡ, bỏ quên những điều quan trọng trong cuộc sống. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Bức tranh phần 1
Bằng sự sáng suốt và nhanh nhẹn của mình, Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đặc biệt thời kì đổi mới, Nguyên Ngọc đánh gía là “người mở đường tinh anh và tài năng”. Giai đoạn trước, ngòi bút của Nguyễn Minh Châu mang khuynh hướng sử thi, đậm chất chiến đấu và thiên hướng trữ tình lãng mạn. Thời kì sau, đặc biệt sau năm 1975 chuyển sang cảm hứng thế sự cùng những vấn đề mang tính triết lí nhân sinh cao cả. Nguyễn Minh Châu ghi dấu ấn ngòi bút của mình trong thời kì kháng chiến chống Mỹ và qua các tác phẩm Dấu chân người lính (1972), Cửa sông (1966), Những vùng trời khác nhau (1970). Nhà văn đã đem đến cho thế hệ trẻ Việt Nam về nguồn cảm hứng yêu nước, số phận của con người trong chiến tranh. Tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động về cuộc sống của người chiến sĩ, sự hi sinh, chiến đấu anh dũng, hào hùng. Thế nhưng khi bước ra khỏi cuộc chiến, trở về với cuộc sống đời thường, Nguyễn Minh Châu đã cảm nhận được cần có sự thay đổi trong sáng tác. Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Quan sát những người ở xung quanh mình, tôi thấy người tốt vẫn chiếm đa số, Nhưng hình như họ luôn phải cưỡng lại một thứ gì đó ở bên trong bản thân, thiện và ác, lý trí và dục vọng, cái riêng và cái chung ở bên trong từng con người. Người ta vẫn tốt nhưng cái tốt hình như ít đi hơn xưa. Người ta phải luôn giữ mình để khỏi làm điều xấu và ác”. Và đến với “Bức tranh” nằm trong tập “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” năm 1983 đã cho người đọc thấy được sự thay đổi về quan niệm một cách rõ nhất. Câu chuyện kể về người họa sĩ được triệu tập đem những bức tranh của mình để trưng bày chuẩn bị triển lãm ở nước ngoài. Ông họa sĩ cần có người hỗ trợ để cùng ông vận chuyển. Trong quá trình vận chuyển ông đã bắt gặp người chiến sĩ nhiệt tình, chu đáo đã cứu ông thoát khỏi khe nước. Và người chiến sĩ luôn có một ước ao được chụp một tấm ảnh để gửi về gia đình báo tin rằng anh vẫn còn sống. Nghe được mong ước của người chiến sĩ ông đã vẽ bức tranh trong thời gian 30 phút và xin địa chỉ để gửi về cho gia đình. Thế nhưng bức tranh khi ông họa sĩ vẽ người chiến sĩ lại đạt giải nhất và trở nên nổi tiếng vì thế đã quên mất việc đem bức tranh đến nhà người chiến sĩ. Sau 8 năm ông họa sĩ tình cờ gặp người chiến sĩ và trở nên áy náy về việc làm của mình đã quên gửi bức tranh về nhà người chiến sĩ. Câu chuyện dường như không có gì gay cấn, không có xung đột giữ người chiến sĩ và ông họa sĩ, thế nhưng ta lại thấy được xung đột trong chính con người của ông họa sĩ. Trước đó là trạng thái vui vẻ khi gặp được người chiến sĩ ân cần, thế nhưng sau 8 năm, vẫn là người chiến sĩ đó, ông họa sĩ lại cảm thấy sợ hãi, áy náy, xấu hổ. Cuộc đời của con người luôn biến thiên, quả thực ông họa sĩ đã không ngờ tới mình lại gặp người chiến sĩ năm xưa. Và cũng chính sự tình cờ này đã đẩy ông họa sĩ vào tình thế khó xử. Một là người lính sẽ tố cáo, trách móc, lên án vì chính việc làm của ông họa sĩ đã gián tiếp dẫn tới đôi mắt của mẹ người chiến sĩ bị mù. Hai là sẽ bỏ qua và tha thứ cho ông. Nguyễn Minh Châu đã đặt nhân vật vào tình huống tự chất vấn bản thân, giữa hai giá trị hoặc là cái thiện, cái cao đẹp hay là cái ác, cái thấp hèn để mọi chuyện được êm đẹp. Bằng giọng văn sâu lắng, Nguyễn Minh Châu đã khiến người đọc đắm chìm trong từng dòng suy nghĩ của nhân vật, đắm chìm trong cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng, người đọc cũng không biết rõ chính bản thân mình nên ứng xử ra sao trong tình huống này. Sẽ có độc giả lựa chọn coi như chuyện chưa từng xảy ra, vẫn lựa chọn con đường giấu mình, giấu cảm xúc, giấu đi cái hổ thẹn để không phải nhận trách nhiệm lớn lao kia. Thế nhưng cũng sẽ có độc giả lựa chọn con đường “thú tội” để nhận mọi lỗi lầm về chính bản thân mình. Nguyễn Minh Châu đã hướng người đọc đến nhiều dòng suy ngẫm. Có lẽ đấu tranh nội tâm là điều khiến con người đau đớn nhất, khó xử nhất. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Bức tranh phần 3
Tóm tắt: Quan điểm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 có nhiều chuyển biến. Qủa thực đến với tác phẩm “Bức tranh”, quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn đã đem lại dấu ấn đặc sắc trong lòng độc giả về vẻ đẹp khuất lấp của con người. Qua tác phẩm “Bức tranh” Nguyễn Minh Châu, một lần nữa khẳng định: Hãy nhìn con người từ nhiều góc độ khác nhau, để ta thấy được những mặt khuất lấp trong tâm hồn họ, để rồi ta đồng cảm, thấu hiểu họ. Bản thân mỗi chúng ta cần nhìn nhận lại, suy ngẫm lại về chính mình từng giờ, từng ngày để tránh bỏ lỡ, bỏ quên những điều quan trọng trong cuộc sống. Từ khóa: Nguyễn Minh Châu, quan niệm nghệ thuật về con người, ánh sáng, chân lý. Mở đầu Đối với nghề viết văn, Nguyễn Minh Châu quan niệm rằng: “Văn học và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”. Qủa thực Nguyễn Minh Châu coi con người là tâm điểm, nhà văn luôn coi con người để khám phá, đặc biệt là thế giới bên trong của họ để rồi bạn đọc chiêm nghiệm về chính bản thân mình trong đó. “Xin mọi người hãy tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về mình” (Trích Bức tranh – Nguyễn Minh Châu). Nội dung Quan niệm nghệ thuật về con người là cách cắt nghĩa, lý giải, cảm nhận về con người của nhà văn thể hiện trong tác phẩm văn học thông qua một hệ thống các phương tiện nghệ thuật. Bởi vậy đối tượng trung tâm của văn học ắt hẳn là con người, câu chuyện nhà văn hướng đến là câu chuyện về cõi nhân sinh. Quan điểm nghệ thuật về con người không đứng yên mà luôn vận động không ngừng qua từng thời kì. Sự vận động đó cho ta thấy được sự chuyển biến của nền văn học cũng như phong cách, quan niệm sáng tác của mỗi nhà văn. Quan niệm sáng tác của Nguyễn Tuân có sự thay đổi được đánh dấu mốc trước Cách mạng Tháng 8 và sau Cách mạng Tháng 8. Nếu trước Cách mạng Tháng 8, Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp của thời xưa còn xót lại, vẻ đẹp trong “vang bóng một thời”, cái đẹp chỉ có trong con người tài hoa, nghệ sĩ (hình ảnh Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù). Sau Cách mang Tháng 8, Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp đời thường, cái đẹp hiện hữu ngay cả trong những người dân lao động, (hình ảnh ông lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà). Thế nhưng dù hệ thống nhân vật phong phú đến đâu đều chịu sự chi phối chung của quan niệm con người, Nguyễn Tuân cả đời đi tìm chất vàng mười trong con người. “Điểm nổi bật của văn học đổi mới là xóa bỏ các khuôn sáo cũ của văn học giai đoạn trước, giảm bớt con người chính trị giai cấp, trở về con người nhân bản, tự nhiên, có cá tính, có tình yêu, có bản năng, vô thức, tính dục, có mặt tối, mặt sáng.” (Dẫn luận thi pháp học văn học – Trần Đình Sử). Đặc biệt sau năm 1986, nghệ thuật thời kì này đề cập tới những nhân cách kiểu mới, con người đoạn tuyệt với cái cũ, cái lạc hậu. Văn học luôn đấu tranh với giữa cái mới và cái cũ, cái ác dường như đang thắng thế, cái xấu đang gặm nhấm và hủy hoại nhân cách của con người. Cái ác và cái xấu luôn đấu tranh qua lại, giằng co trong tâm trạng của con người. Bởi vậy chủ đề về đạo đức xã hội được các tác giả quan tâm. Con người trở về với thực tại, đối mặt với cuộc sống hiện thực, phát hiện những cái khuất lấp chìm sâu, mỗi con người là một cuộc đời, có thế giới tâm hồn riêng, cá tính, suy nghĩ riêng biệt, không ai giống ai cả, quả thực cuộc sống không bao giờ dễ dàng đến vậy. Con người qua lăng kính của văn học giai đoạn này có nhiều sự chuyển biến, các tác giả quan tâm nhiều hơn về thế giới tâm hồn, đi sâu vào những trạng thái, tâm lý, nay cả những suy nghĩ ẩn lấp của con người. Và từ sự đổi mới trong văn học, đã thu hút độc giả khám phá về cuộc đời của con người, đôi khi đặt chính bản thân mình vào dòng suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật để từ đó suy ngẫm về chính cuộc đời mình. Đọc tiếp: Quan niệm nghệ thuật về con người trong Bức tranh phần 2
Thi pháp thể loại Về thi pháp thể loại trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đã có nhiều nhà nghiên cứu nói về thể thơ tự do ông sử dụng. Thơ tự do và thơ văn xuôi vẫn là điểm mạnh của Nguyễn Quang Thiều. Trong tuyển tập Châu thổ, có hai bài viết với thể lục bát (110,tr.23-24). “Con đường”(Lễ tạ), dòng 6 tiếng được nhà thơ ngắt ra làm 3 dòng, lơ lửng, diễn tả cảm xúc lửng lơ của người tìm về với cội rễ. Có 12 bài viết theo thể thơ 7, 8 từ, và 9 bài viết theo thể thơ văn xuôi, còn lại 114 bài viết theo thể tự do. Cho thấy, thơ tự do là điểm mạnh của ông. Điều này thể hiện sự tự do hóa hình thức thơ, tác giả muốn giải phóng cho thơ những niêm luật, những ràng buộc vốn gò bó của thơ, và thâm nhập vào địa hạt của thơ văn xuôi để bùng phát tư duy. Đó là lối tư duy vực dậy từ vô thức, có tính ngẫu hứng, đứt rời không liền mạch, sự ngắt quãng của thời - không gian, sự xuất hiện chất chồng của hình ảnh biểu tượng, tạo độ sâu, tầng bậc của cảm xúc trong thơ thể thơ tự do và thơ văn xuôi, đã làm nên phong cách cho thơ Nguyễn Quang Thiều. Vừa lắng sâu lặng lẽ vừa nồng nàn nhiệt huyết, vừa muốn phá vỡ để xây dựng và gìn giữ. Trái tim của người sáng tạo phản ánh đời sống chân thực bao nhiêu thì Nguyễn Quang Thiều phản ánh hiện thực trong tác phẩm nghệ thuật sâu sắc hơn bấy nhiêu. Ông giống như một người cầm máy quay lia góc kính xuống cận cảnh đến độ thấp nhất, để có độ xác thực cao nhất. Trong quá trình trở về với “cận cảnh” ấy, ông soi được những gì gồ ghề nhất, sỏi đá, khô cằn và thậm chí xấu xí nhất đồng thời cũng tinh chọn những tốt đẹp, những giá trị, thẩm mỹ nhất, khát vọng nhất trong thơ. Đó là một quá trình thơ đi đến tận cùng của cái thực nhất để đạt được đến cái siêu. Kết luận Thơ Nguyễn Quang Thiều thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới mẻ, vượt qua khuôn khổ truyền thống, mang một làn gió mới đến với thi đàn văn học đương đại Việt Nam. Với một lối tư duy độc đáo, phù hợp với xu thế hiện đại cùng tài năng sử dụng thể thơ văn xuôi và đổi mới trong cấu trúc, Nguyễn Quang Thiều đã thể hiện thành công hình tượng cái tôi mang nét riêng, một cái tôi trữ tình với nhiều cung bậc, nhiều trăn trở, nhiều cảm xúc và tâm trạng, đặt trong tương quan với không gian, thời gian cụ thể, trong từng bài thơ - nhà thơ Nguyễn Quang Thiều luôn hiện hữu trong quan hệ thiêng liêng, máu thịt với quê hương. Thơ của Nguyễn Quang Thiều giàu ý nghĩa tích cực, tốt đẹp; hình tượng thơ của ông là sự phối hợp hài hòa giữa tình cảm và ý chí, nhận thức và hành động. Điều đó là nguyên nhân cơ bản nhất tạo nên vẻ đẹp riêng biệt và sức sống của thơ Nguyễn Quang Thiều. Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 1
Thời gian buổi đêm Thời khắc bóng đêm thường biểu tượng cho sự bất hạnh, trừng phạt, sa đọa và cái chết. Theo cách nhìn của phân tâm học thì thời gian đêm, bóng đêm gợi lên cảnh hỗn mang, hư vô, nỗi lo sợ, nỗi buồn, trạng thái vô thức và cái chết. Nhưng thời gian cũng tượng trưng cho sự thai nghén, nảy mầm, thích hợp cho việc thanh tẩy trí tuệ, vươn tới những khát vọng cao nhất đó là ánh sáng. Trong thời gian nghệ thuật, những đêm và đêm gần sáng luôn dịch chuyển vươn về nơi ánh sáng trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đó là sự vận động của quy luật thời gian trong quỹ đạo trời đất và cõi lòng con người từ tâm thức. Hay đó cũng chính là triết lý về thế giới nhân sinh: sự sống - cái chết thể hiện trong tác phẩm của ông. Tuổi thơ của Nguyễn Quang Thiều gắn liền với sông Đáy, với mẹ. Thời gian và cuộc đời vất vả của mẹ, đã được Nguyễn Quang Thiều tái tạo vào trong tác phẩm. Trong đêm, sự kiện thời gian một ngày kết thúc, cũng là thời gian của cái tôi thổn thức được gắn với hình bóng người mẹ tần tảo vất vả. Ở đó có cái tôi buồn nhớ thương mẹ nhớ quê da diết: Tôi dụi vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm/ Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt/ Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc/ Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn (Sông Đáy). Cảm giác như không gian đêm cùng với thời gian những đêm xa “đựng” cái tôi buồn, xa vắng, trống trải đến đơn côi. Bởi thời gian lúc bấy giờ nhanh như chớp mắt “tuổi hai mươi”, “bao năm sau” trở về đã “trắng tóc”. Đời người đã già, năm tháng thời gian là cột mốc neo đời người trên cao: Cha đã mang tuổi hai mươi lên đò không ngoảng lại/ Mẹ con đứng vùi chân trong cát/ Nước mắt buồn bay ướt một triền sông/ Bao năm sau cha trở về trắng tóc/ Đêm đêm ngồi hút thuốc lào/ Tiếng điếu rít lên muốn khoan thủng nỗi buồn/ Khoang vào phận con buốt nhức (Tiếng cười). Dừng ở thời gian đêm, tĩnh lặng và cô đơn, cái tôi buồn đi tìm cha mẹ, tìm anh chị em, vợ và các con. Sức suy tưởng bắt nguồn từ vô thức cá nhân nhà thơ, vực dậy miền thời gian xưa cũ, thời của năm tháng tuổi trẻ, thời sum vầy của gia đình. Nhưng còn đâu, chỉ thấy trắng trời, người ngồi trên mây trắng, người đã lên đường với bầy ngựa nâu. Từ tâm thức, cội nguồn tổ tiên dòng họ, cội nguồn của sức suy cảm nặng trĩu trước bóng thời gian dày: Tôi đi tìm cha mẹ tôi/ Cha mẹ tôi phất chiếc quạt heo may/ Ngồi khoan thai trên chiếc xe mây trắng/ Một bánh mặt trời/ Một bánh mặt trăng/ nóng và lạnh/ đi về nơi gió ngủ/…Tôi đi tìm anh chị em tôi/ Tất cả lên đường với bầy ngựa nâu/… Tôi đi tìm vợ tôi/ Người đàn bà cài chiếc cúc đoan trang/ Tôi đi tìm các con tôi. (Con bống đen đẻ trứng) Và cuối cùng, “tôi” đi tìm chính “tôi”, trong khoảng thời gian và không gian kí ức,“tôi” nằm lại như một trầm tích cuộc đời để phát hiện ra rằng nó đã “hóa vỏ ốc mòn ngậm cát gọi u … oa”. Cũng trong thời gian kí ức, ta nghe trong khoảng không trầm tích, tiếng thổn thức của đôi trai gái yêu nhau dưới sao trời trong đêm hoang sơ và băn khoăn của tuổi trẻ Ta sẽ bắt đầu điều gì khi bình minh thức dậy/ Đi về phía biển khơi hay trở lại rừng (Những ngôi sao), lời hẹn thề thuở để chỏm vụt bay qua chỉ còn lại tiếc nuối (Một bài hát tình yêu của làng Chùa): Đêm đã trải tấm khăn của tình yêu xuống rồi/ Sao xanh/ Sao xanh/ Bay về đồng cỏ/ Nụ cười trinh trắng của em/ Nước mắt trinh trắng của em. Đêm với không gian tâm tưởng, cái tôi buồn đi lạc vào vùng kí ức, Nguyễn Quang Thiều vực dậy những hình bóng người thân một cách tường tận. Không gian cá nhân và thời gian từ vùng kí ức ùa về đậm đặc chất thơ, chất ca dao, cổ tích, đã mang lại cho thơ ông nét riêng. Đó là sự duyên dáng mà thâm trầm, mạnh mẽ yêu thương mà lặng lẽ. Nói như vậy để thấy rằng thời gian trong thơ Nguyễn Quang Thiều là thời gian luôn được ông cắt xén, xé lẻ, dồn nén để quay về quá khứ, vực dậy những trầm tích đã ngủ quên trong đáy rương ký ức, mà tự cảm, tự buồn tự khóc, tự chiêm nghiệm và đắng đót cho cuộc đời, con người. Hình tượng tác giả Trên thi đàn, Nguyễn Quang Thiều là người sinh ra cho những cuộc cãi vã. Ngay từ khi xuất hiện, đã có nhiều tranh luận về thơ của ông. Rất nhiều quan điểm trái chiều xung quanh nhà thơ này, nhưng dù thế nào Nguyễn Quang Thiều vẫn là một đại biểu sáng giá của nền văn học đương đại. Hình tượng tác giả trong thơ Nguyễn Quang Thiều được xác định dưới chủ thể lúc là “tôi” trong bài Sông Đáy, Ban Mai, Bầy chó của tôi…, lúc là “ta” trong các bài như Mười một khúc cảm, Xô-nát hoàng hôn biển, Dòng sông…, lúc lại là “con” trong bài Dâng trà, Những con thuyền sông Đáy, Tiếng cười, … còn lại, hình tượng tác giả được ẩn giấu trong các chủ thể như chúng ta, họ hoặc sự vật, con vật, hoặc không cần xưng danh, xưng họ, mà chỉ là những chủ thể rất chung. Nguyễn Quang Thiều vẫn trầm mình vào, để đau đáu, để xẻ chia, để tạ ơn, để hối lỗi, để trăn trở, tiếc nuối và khát khao về cuộc đời. Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 7
Thời gian nhân vật Nguyễn Quang Thiều đi tìm thời gian để quay về tâm thức, một khoảng sân vườn với cây trái và bầy mòng két tháng mười di chuyển đi ăn giữa hai dãy núi đá vôi Hà Tây và Hòa Bình, một cánh đồng rộng thênh thang mùa ngũ cốc, để vô vàn thi ảnh, câu chữ trong thơ chật ních đứng/ nằm rậm rịch kéo nhau đi (Chuyển dịch màu đen, Nhịp điệu châu thổ mới, Bàn tay thời gian, Bài ca những con chim đêm, Cây ánh sáng…). Những khoảnh khắc tính bằng giây phút và chớp lóe của sấm, của lời nguyền man rợ, của những bất trắc bất ngờ chợt đến cắt ngang cuộc đời con người: H ngủ muộn. 10h13 phút chưa dậy/ Những sự sống trôi qua chiếc giường/ Những cái chết trôi qua chiếc giường Hay thời gian tích tắc được đo đếm bằng ánh sáng, với sự ra đi nhẹ nhàng của cậu bé Hạnh Nguyên, khi căn bệnh máu trắng bất ngờ giáng xuống cho cậu bé và gia đình: Cậu bé chạy trong ban mai/ Xuyên qua dòng thác ánh sáng/ Kiêu hãnh và đẹp hơn sự nảy mầm/ Chưa đến giờ bị phủ ngập bóng tối/ Chiếc xe, đóa hoa biếc/ Cậu Bé không nhận ra/ Những bông hoa Cát đằng trôi trong buổi trưa/ Theo một hơi thở dịu dàng nhất thế gian/ Và đôi mắt đẹp hơn hồ nước trên núi cao (Đố ai tìm thấy tôi ở đây) Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông dành một khoảng thời gian không nhỏ được tính bằng giây phút này cho hiện thực bộn bề cuộc sống. Ở đó có một người sắp lìa đời, chỉ còn một khoảng khắc nữa thôi, (Giọng của H) họ sẽ không còn tồn tại trên cõi đời này. Nó trở nên quý giá, vờ như họ có thể nắm bắt được thời khắc ấy trong lòng tay, để giữ chặt lại không cho vụt mất. Nguyễn Quang Thiều là người chịu đau, chịu khổ, chịu đựng tất cả nỗi buồn, vật vã, chia xa, ly tán, tàn lụi và hụt hẫng, tiếc nuối. Và phạm trù thời gian nghệ thuật trong thơ ông đã nói hộ điều đó: Tôi mang đớn hèn tôi, thiêng liêng em về sông Đáy/ Sông không an ủi nổi tôi, đò dọc đò ngang mái chèo đang bó bột/ Hoa cải vàng không nhớ nổi tên mình/ Chìa vôi non không mượn cánh tay tôi/ Và những người đàn bà xóm trại vẫn tìm diêm trong bóng tối/ Tôi buông tiếng thở dài - chiếc cần câu không lưỡi, không phao vào miền nước ốm/ Trái tim tôi thút sâu đáy vực đau buồn (Sông Đáy). Với thời gian xa xăm, thời gian được tính bằng mùa, bằng tháng, bằng những mốc thời gian khắc nghiệt nhỏ nhất: giây, phút, ngày, đêm, Nguyễn Quang Thiều đã vực dậy tâm thức, kỷ niệm về người thân, người không quen biết, cảnh vật, con đường, sự kiện, sự việc, gắn với thời gian cuộc đời, số phận của con người trong tác phẩm. Mỗi bài thơ quay về với những mốc thời gian, lúc thế này lúc thế khác, thời gian trở thành phương tiện để nhà thơ giãi bày nỗi ẩn ức, sâu thẳm của mình đối với làng Chùa - sông Đáy, quê hương cội nguồn Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 6
Thời gian nghệ thuật Thời gian quá khứ Nguyễn Quang Thiều đã sáng tạo thời gian nghệ thuật theo cách riêng của mình. Nhiều bài thơ, Nguyễn Quang Thiều lấy chính thời gian làm cảm hứng, làm tựa đề cho bài thơ (Bàn tay thời gian, Quyền phép của thời gian, Thời gian). Hoặc có lúc ông cắt đoạn thời gian quay về với tuổi hai mươi, tuổi ba mươi, lúc lại gợi nhớ bằng khoảng thời gian xa xăm, thời gian được cắt quãng khá xa của năm như triệu triệu năm, vọng từ xa xăm, thầm thì từ xa xăm, một phía thời gian, từng ấy năm (Nghe tiếng con chim cuốc, Tiếng cười, Những ngôi sao, Khúc VI, VII, X, - Mười một khúc cảm, Bài hát về cố hương). Với cách sử dụng thời gian một cách ước giản, cắt xén và dồn nén, quay về quá khứ đến độ gấp khúc, tác giả tạo được âm trầm buồn, xa vắng và cô đơn trong thơ: Trời ơi từng ấy năm/... Từng ấy năm và từng ấy năm/ Ta nằm trong đêm co quắp/ Ta là chiếc lưỡi câu bị bỏ quên đau khổ/ Chỉ đợi run lên trước đôi môi em (Mười một khúc cảm) Cái tôi buồn bị bỏ quên trong từng ấy năm, như một lời thống thiết, trong thời gian quá khứ xa xăm ấy, nhà thơ tự cảm, tự nghiệm về mình, về cuộc đời, về những phận người mà ông đã thấy: Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươ i năm và nửa đời tôi thấy/ Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng / Chạy theo mẹ và lớn lên/ Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến/ Con trai lại vác cần câu và cơn biển ra khỏi nhà lặng lẽ. (Những người đàn bà gánh nước sông). Thời gian nghệ thuật được nhà thơ nén chặt, nhắc cách quãng “năm năm, mười lăn năm” lướt qua đời người nhẹ tênh vờ như không cảm nhận được họ đã làm gì, nghĩ gì, chỉ thoáng chốc một đời người đã trôi, thế hệ khác đã lớn. Vòng xoay của đời người cũng là vòng xoay của quy luật thời gian, trong đó, con người có thể là những ánh sao xanh, hay là những phận người lam lũ cơ cực nơi trần thế, mà Nguyễn Quang Thiều trăn trở. Thời gian thiên nhiên Để đo tính thời gian quay về trong kí ức, mùa (mùa hạ, mùa xuân, mùa đông, mùa thu), tháng (mười hai tháng trong Hồi tưởng) cũng là một cách thức thể hiện thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Quang Thiều (Bây giờ đang cuối mùa đông, Tháng Mười, Thời gian, Bức thư, Hồi tưởng). Xa hơn nữa một mùa thu thắm đỏ/ Con rắn nâu bò qua vườn trên lớp lá vàng cong/ Xa hơn nữa… tôi khóc cùng mùa hạ/ Khi thấy có một tôi đâu đó quanh vườn (Thời gian). Mùa hạ với đầy ánh sáng và hoa trên cánh đồng, thời gian như làm phép để giấu những trái tim biết yêu: Và mùa hạ đổ về cơn lũ khổng lồ ánh sáng/ Những chiếc tổ tung lên trời ngàn vạn cánh chim/ Một bàn tay vô hình xoay khẽ thời gian làm hai người biến mất/ Trên cánh đồng lấp lánh nước và hoa (Bàn tay của thời gian). Ngược dòng quá khứ, về với tiềm thức, nhà thơ như muốn đi xa hơn nữa để giữ lại tất cả, trong bước vận hành của thời gian. Nơi có một mùa thu thắm đỏ, một mùa hạ đổ về, một con rắn nâu buồn và một tôi khóc cùng mùa hạ. Thời gian lúc này êm như một tấm màn nhung, đầy huyền thoại, nhẹ nhàng xoay, và tách vỏ, để lộ những mẩu kí ức đã chìm đắm từ thuở nhỏ, những mẩu tình vụng trên cánh đồng hoa. Nguyễn Quang Thiều có thời gian đêm và ánh sáng. Thời gian của mười hai “Hồi tưởng”. Mỗi tháng trong năm là mỗi thời gian tác giả hồi tưởng về con người, sự vật, sự kiện, ẩn ức. Tháng giêng nhớ về người đàn bà già hàng xóm góa chồng với con đường hoa tầm xuân trở về từ nghĩa địa: Trong chiếu chăn ẩm ướt/ Mơ con đường tràn hoa tầm xuân/ Chạy qua nghĩa đại/… Nhưng mùa xuân vẫn còn dấu giấu mặt/ Chỉ thả ra một cánh bướm thăm dò/… Người hàng xóm góa chồng/ Trở về từ nghĩa địa/ Cắm đầy hoa tầm xuân trong phòng ngủ nhà mình (Hồi tưởng) Tháng hai, là tháng nhớ về người bà, với khoảng không gian sực nức mùi thuốc bắc, những ngón tay xanh tái của bà lần ở mép giường. Tháng ba là tháng nhớ về mẹ, người mẹ đau viêm đại tràng mãn tính. Tháng tư, tháng năm, tháng sáu, tháng bảy là thời gian nhớ về cánh đồng với những vạt hoa loa kèn nở trong đêm, những lùm cây rũ rượi trong đêm, những giấc mơ đêm của những gã thợ xẻ. Tháng tám nhớ về hương thơm quả thị, cây thị vàng rũ rượi và giấc mơ trẻ thơ. Tháng chín, tháng mười, mười một, mười hai, là tháng nhớ về những gì đã qua (người mù, con người lạ quen), chiêm nghiệm về cuộc đời, con người: Đêm tháng Mười đi từ phía cánh đồng và biến mất trong những giấc ngủ người lớn tưởng không bao giờ tỉnh dậy (Hồi tưởng tháng Mười). Chưa hết, qua thời gian Hồi tưởng, tác giả bày biện thời gian trong Mười một khúc cảm, cũng là cách Nguyễn Quang Thiều dồn nén thời gian trong tâm tưởng ký ức thẳm sâu: Ta gặp mẹ ta năm người mười bảy/ Những răng lược gỗ mòn cắn ngập mái tóc người/ Ta gặp cha ta năm người hai mươi tuổi/ Dưới những nhát búa cùn/ Từng khúc xoan tươi toác ra tiếng cười của lửa(Khúc VI) Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 5
Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều đã sáng tạo ra một không gian nghệ thuật từ trong ngôn từ thơ đương đại, vượt qua những khuôn mẫu truyền thống, trở thành một trong nhưng nhà thơ dẫn đầu cho phong trào thơ được không ít nhà nghiên cứu gọi là “Thời kì Phục hưng” của văn học. Thơ của Nguyễn Quang Thiều gần gũi với ruộng đồng, với xóm làng, những không gian bình dị, thân quen. GS Trần Đình Sử có viết: “Hình tượng động và không gian động là điểm cách tân, khác hẳn không gian tĩnh của thi ca truyền thống”. Không gian xuất hiện nhiều nhất trong thơ Nguyễn Quang Thiều là làng Chùa – nơi chôn nhau cắt rốn của tác giả, nơi mà ông- với tư cách một nhà thơ đã tự cho phép mình phải tuyên ngôn về nó như một mệnh lệnh và tình cảm mà ông đặt cho nó cái tên là Bản tuyên ngôn của giấc mơ. Một điểm chung trong các bài thơ của Nguyễn Quang Thiều là làng Chùa lặp đi lặp lại trong những bài thơ, trở thành không gian hình tượng của thơ Nguyễn Quang Thiều. Đó là những mảnh vườn, là ông bà và bố mẹ, là thế giới của côn trùng và loài vật, là nơi của cỏ cây hoa lá, là những người đàn bà quê tần tảo và những đứa trẻ có nước da nâu, là dòng sông Đáy dạt dào trong tâm thức... “Dẫn ta về hồ nước cũ/ Phăng phắc một lá sen già” (Lễ tạ) hay “Ta đi về đường quê cỏ nát/ Ngực ta gầy, rạc mãi tiếng quê hương” (Nghe tiếng con chim cuốc). Đó chính là không gian thế giới hiện thực hiển minh và trầm tích, được nâng lên thành văn hóa, phong tục trong thơ Nguyễn Quang Thiều mà ông gọi là “nỗi buồn - báu vật cố hương tôi”. Một không gian nghệ thuật không thể không nhắc đến, hiện diện đa dạng trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đó là dòng sông. Dòng sông là nơi được nhà thơ nhắc đến nhiều (sông Đáy, Dòng sông, Những con thuyền sông Đáy, Cánh buồm), cũng là nơi miền không gian được nhà thơ ký thác tình cảm sâu sắc. Miền không gian tâm tưởng cùng với thời gian những chiều xa quê, chiều nay trở lại, tác giả vẽ nên bức tranh bảng lảng mưa sương và nỗi nhớ quay quắt: Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên/ngang trời cho tôi được nhìn thấy/ Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ/ nơi những chú bống đến làm tổ được dàn dụa nước mưa sông/ Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại/ Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi (Sông Đáy). Có lúc đó là con sông Đáy có thực tron g quan hệ thiêng liêng, cụ thể của thi nhân, có lúc đó lại là dòng sông tâm tưởng trong tiềm thức, trong những quan hệ vô thức. Có khi dòng sông lại là những mảnh vỡ của tâm trạng nhà thơ. Từ dòng sông thật đến dòng sông tâm tưởng, Nguyễn Quang Thiều đã đi tìm hình bóng một người xa trong gập ghềnh nỗi nhớ: “Trong tiếng thở dài như dòn g sông cạn - Trong tiếng ho như con đường xóc - Tôi đi tìm em” (Cánh buồm). Nhưng rồi cuối cùng, dòng sông Đáy - con sông thật quê ông - lại đồng hiện trong dòng suy tưởng của ông. Để giờ đi xa còn nhói buốt những nỗi buồn. Dòng sông tượng trưng cho những gì mát mẻ, trôi chảy, sinh sôi; nhưng dòng sông trong thơ Nguyễn Quang Thiều có gì như uất nghẹn, quặn đau do cuộc sống khổ nghèo và do chiến tranh dai dẳng làm cho con người càng vất vả, gian lao. Một không gian nữa xuất hiện trong thơ Nguyễn Quang Thiều, chính là không gian cánh đồng trong một buổi ban mai trong trẻo, không gian được Nguyễn Quang Thiều cảm nhận. Nét đẹp thuần khiết trong lành như nếm được vị của ánh sáng ban mai, nơi không gian dành cho người nông dân cày cấy, với những công việc thuần nông hằng ngày: Bóng tối đêm gần sáng như một con mèo nhung khổng lồ/ bước đi uyển chuyển/ Cái đuôi mềm của nó chạm vào tôi làm tôi tỉnh giấc/ Tôi cựa mình như búp non mở lá/ Ý nghĩ mỉm cười trong vắt trước ban mai/ Những xôn xao lùa qua hơi ấm/ Vọng về từ cánh đồng rộng lớn mờ sương/ Tiếng bánh xe trâu lặng lẽ qua đêm/ Chất đầy hương cỏ tươi lăn về nơi hừng sáng (Ban mai). Trong quan niệm của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng “vạn vật hữu linh” (vạn vật đều có linh hồn). Vạn vật và con người khi chết đi, thể xác tan rữa, nhưng còn linh hồn tồn tại tụ tán, vẫn đi,về tham gia vào đời sống con người. Nguyễn Quang Thiều là người đem tâm thức làng vào thơ, không gian tâm linh của làng vào thơ, được bắt nguồn từ cuộc sống bình dị thường ngày: Trong ban mai đàn bò mỗi lúc vàng rực/ Và tan vào ánh sáng/ Những tiếng rống vọng lại/ Dàn kèn đồng trong xóm đạo nhỏ/ đang tập buổi cuối cùng/ để đón lễ phục sinh/ giờ chỉ còn những đám mây/ linh hồn của đàn bò/ bay trên cánh đồng/ của những con bò khác (Linh hồn những con bò) Đến với những trang thơ của Nguyễn Quang Thiều, ta đến với không gian làng Chùa - sông Đáy, cánh đồng là nơi cư ngụ của miền ký ức quá khứ sâu thẳm, miền tâm linh huyền ảo, huyễn hoặc. Người ta tìm thấy nét đẹp tinh thần trong ký ức của Nguyễn Quang Thiều. Đó là sức sống muốn phục sinh, luôn dịch chuyển về nơi ánh sáng, hướng về tự do. Nơi đó có cuộc sống con người xôm tụ, quần cư với nhiều nét văn hóa giàu truyền thống dân gian, đậm đà bản sắc dân tộc. Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 4