Phân tích nhân vật Vũ Nương
Người phụ nữ là đề tài quen thuộc mà nhiều nhà văn, nhà thơ lấy đó làm chủ đề cho mạch cảm xúc của mình, dặc biệt là trong văn học thời trung đại. Hồ Xuân Hương đã thành công với bài thơ “Bánh trôi nước”. Với Nguyễn Dữ thành công đó là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Qua nhân vật trong tác phẩm ông đã tô cáo, lên án xã hội phong kiến đầy bất công nhất là với những người phụ nữ phẩm hạnh nhưng khổ đau, oan trái.
Chuyện người con gái Nam Xương được trích trong truyền kì mạn lục, ghi chép tản mạn những câu chuyện có thật và đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm. Văn bản này có nguồn gốc từ câu chuyện “Vợ chàng Trương” cả hai tác phẩm đều nói về người phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến. Mở đầu tác phẩm đã giới thiệu rất rõ về ngoại hình cũng như phẩm chất của nhân vật Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” đây là câu giới thiệu hàm ẩn mọi tố chất của người phu nữ, công- dung- ngôn-hạnh. Nhưng phẩm chất tốt đẹp bao nhiêu thì lại oan nghiệt bấy nhiêu. Ngay ở đoạn đầu tác giả đã cho ta thấy rất rõ một cuộc hôn nhân bất bình đẳng của nàng. Nàng xuất thân con nhà nghèo nhưng vì Trương Sinh mến dung hạnh nên xin mẹ trăm lạng vàng cưới về. Nhân vật Trương Sinh được tác giả giới thiệu hoàn toàn trái ngược với Vũ Nương, Trương Sinh xuất thân con nhà hào phúng nhưng ít học, tính hay đa nghi và đề phòng vợ quá mức. Chứng tỏ một điều rằng sự bất công về con người trong xã hội càng hiện lên rõ nét. Xét về góc độ khách quan thì một người phụ nữ xinh đẹp,tài giỏi như Vũ Nương thì xứng đáng được một cuộc sống hạnh phúc, viên mãn nhưng ở câu chuyện này thì hoàn toàn khác, nàng không được tự do yêu thương, không được quyền chọn lựa. Trương Sinh lấy nàng về như một hình thức mua bán mà chính Trương Sinh cũng không yêu thương gì nàng mà chỉ lấy nàng vì “mến”.
Mặc dù vậy nhưng Vũ Nương hết lòng yêu thương chồng, biết chồng đa nghi nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để gia đình phải thất hòa. Cuộc sống bên chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Nàng bịn rịn tiễn dặn chồng và khoogn mong muốn gì ngoài sự “bình yên” của chồng. Bên cạnh đó nàng còn thấu hiểu nỗi vất vả của chồng sắp phải chịu. Những chi tiết đó đã chứng tỏ nàng là người phụ nữ vì gia đình “nghi gia nghi thất” phẩm hanh ấy càng được bộc lộ rõ hơn khi ở với mẹ chồng.
Sau khi chàng đi được một tuần thì nàng sinh con, đặt tên là bé Đản. Vì nhớ con trai nên mẹ chồng đã sinh ốm. Lúc này, nàng vừa làm con, vừa làm mẹ, vừa làm cha, một mình nàng gánh vác mọi công việc của gia đình chồng.
Đối với mẹ chồng, Vũ Nương là người con hiếu thảo, ngoan hiền. Trong lúc chồng đi xa, nàng vừa chăm sóc mẹ già đau ốm vừa nuôi con nhỏ. “Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật mà lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơi”. Phẩm chất ấy của nàng đã được chính người mẹ chồng đánh giá cao khi bà ở phút lâm chung. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan. Khi mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không chỉ vì trách nhiệm của một nàng dâu mà còn thể hiện tình yêu thương hết lòng đối với chồng ngoài mặt trận.
Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật sự yêu mến,trân trọng qua từng hành động,cử chỉ qua đó khắc họa rõ nét phẩm chất người phụ nữ.
Đối với đứa con bé bỏng của mình thì nàng hết mực yêu thương và tìm cách lấp đi cái thiếu thốn phải xa cha mà con mình đã chịu thiệt thòi. Nàng đã lấy “cái bóng” của mình để dỗ dành con, nói với con đó là cha để làm vơi bớt nỗi nhớ chồng và xoa dịu sự thiếu thốn khi vắng cha của bé Đản. Và rồi “cái bóng” đã trở thành người cha trong tâm trí của một đứa trẻ ngây thơ mới 3 tuổi.
Sau ba năm xa cách, khi trở về cứ nghĩ rằng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tai họa ập đến cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây ngô của trẻ con: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi đêm nào cũng đến.., làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ thất tiết. Dù Vũ Nương có hết lời phân trần, có tha thiết giãi bày để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can, biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa mà chỉ một mực nghi oan cho vợ.
Chính chi tiết, và phân đoạn này càng cho chúng ta thất rõ sự vô học của Trương Sinh. Nếu Trương Sinh có học thức thì sẽ không xử lý như vậy. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào tế bào mỗi cá nhân đã dung túng, cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ... Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Như vậy một lần nữa cái quyền tự bảo vệ mình và được người khác bảo vệ cũng không có. Hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Một hành động tưởng chừng như ngu xuẩn nhưng đặt ở vị trí ngày đó, xã hội đó, người chồng đó thì không có cách nào khác là phải tìm đến cái chết.
Chúng ta đặt ra một gỉa thiết; Nếu Vũ Nương không chết thì biết đâu đó chính Trương Sinh cũng hành hạ nàng đến chết, khi này nàng sống trong đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần mà nỗi oan ức không được giãi bày?Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Và rồi, một hôm bé Đản gọi bóng Trương Sinh là cha, lúc này Trương Sinh mới biết mình nghi oan cho vơ. Chàng đã lập đàn giải oan nhưng Vũ Nương chỉ hiện về trong chốc lát rồi biến mất.
Qua tác phẩm ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần phải trải qua khó khăn, cực nhọc trong cuộc sống nhưng vẫn vượt lên số phận nhưng càng cố gắng thì sự oan nghiệt càng đến gần, nàng vẫn là nạn nhân của chế độ nam quyền đầy bất công và thối nát. Nàng chính là nạn nhân của xã hội phong kiến cũng là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa.
Qua văn bản này Nguyễn Dữ đã ca ngơi người phụ nữ dung hạnh nhưng đầy bất hạnh.Dồng thời cũng tố cáo, lên án xã hội đầy bất công thời phong kiến, một xã hội bất bình đẳng, chà đạp lên tinh thần và thể xác người phụ nữ. Đọc tác phẩm ta càng thấy ngòi bút sắc bén của tác giả và những giá trị nhân văn sâu sắc mà ông muốn gửi gắm cho bạn đọc.