Kết quả Quan niệm nghệ thuật về con người Nguyễn Quang Thiều là nhà văn nổi bật trong văn học đương đại. Thơ của Nguyễn Quang Thiều ngay từ khi ra mắt trên thi đàn đã đã gây nhiều tranh cãi và cho đến tận thời điểm hiện tại vẫn còn nhiều sự nhìn nhận khác nhau. Đó là sự thường khi văn học bắt đầu chuyển mình thay đổi diện mạo mới. Thơ Nguyễn Quang Thiều chứa một quan điểm thẩm mỹ nhất quán “bất an mà không tuyệt vọng, bóng tối không thể chế ngự ánh sáng”. Nguyễn Quang Thiều hằng tin, thơ là một giá trị tinh thần có khả năng chữa lành và đánh thức lương tâm của con người. Đây là lõi cốt cổ điển trong quan niệm nghệ thuật Nguyễn Quang Thiều ẩn sau những ngôn từ thơ ca. Thơ của Nguyễn Quang Thiều lôi cuốn người đọc ở sự giàu chất triết lý. Nhưng điều đặc biệt, triết lý ở đây được hình thành trong quá trình nhận thức sau khi cảm thụ tác phẩm. Nguyễn Quang Thiều để người đọc tiếp xúc một bi kịch, chứng kiến cảnh đau thương, trải nghiệm nỗi buồn hiu hắt từ ấy sẽ tự hiểu được triết lý mà nhà thơ gửi gắm. Con người nhiều khi không nhận ra, họ là nạn nhân của chính bản thân mình. Họ chiến thắng hoàn cảnh hoặc chấp nhận cam chịu và chạy trốn trước hoàn cảnh: “Chạy trốn điện thoại, xa-lông mút - Chạy trốn lễ sinh nhật - Chạy trốn tiếng gõ cửa - Chạy trốn chìa khóa - Chạy chốn bát đĩa và sách dạy nấu ăn - Chạy trốn những tã lót, quần áo cũ phơi rợp trên những nóc nhà thành phố”. Hay sự đổi thay trong quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả trong các bài như Bầy kiến qua bàn tiệc, Bầy chó của tôi, Hai con hải cẩu cũng vậy. Nguyễn Quang Thiều muốn độc giả vượt hẳn lên cảm xúc đơn thuần để đạt đến cung bậc của chiêm nghiệm, triết luận về cuộc đời, con người, xã hội… Cảm xúc của Nguyễn Quang Thiều trong những hình ảnh quen thuộc: làng quê, con người, sự vật hiện tượng… ở tập Sự mất ngủ của lửa cung bậc suy cảm được nâng lên một bậc, sâu sắc hơn, lý luận chiêm nghiệm hơn, trắc ẩn hơn. Còn khi qua đến tập Những người đàn bà gánh nước sông và những tập sau này, thì mạch cảm xúc suy nghĩ của Nguyễn Quang Thiều như chảy tràn, kèm với triết luận về cuộc đời, con người ở đây đã chuyển sang hướng đi tìm sự giải thoát. Đó chính là khát vọng tự do mà lúc nào tác giả cũng có cảm giác như một cái “ngưỡng”, “cái bậc cửa” mà chỉ cần con người vượt qua đó thì sẽ thấy ánh sáng. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Nguyễn Quang Thiều chất chứa những suy tư, trăn trở, nhưng không phải để thụ động, để bất lực mà là để khái quát thành những triết lý về cuộc sống và con người. Nguyễn Quang Thiều luôn hướng về cội nguồn của quê hương và dân tộc. Ông trở thành kẻ sầu xa xứ, lưu lạc, nhưng lại được giàu có trong ý nghĩa nhân văn của nhận thức và tư tưởng. Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 3
Tóm tắt Bài viết này bàn về đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều – một số phương diện cơ bản góp phần quan trọng làm nên giá trị, đặc trưng và sức hấp dẫn đặc biệt của thơ Nguyễn Quang Thiều. Việc tìm hiểu và khám phá yếu tố thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là điều đơn giản, không phải tự nhiên những sáng tác của Nguyễn Quang Thiều luôn giữ một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của giai đoạn văn học đương đại, thơ Nguyễn Quang Thiều phản ánh về cuộc sống qua quan niệm nghệ thuật về con người, đặc điểm không gian, thời gian hay hình tượng tác giả, thi pháp. Chính những điều ấy làm nên những nét đẹp đặc thù, riêng biệt không lẫn vào ai của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Từ khóa: Nguyễn Quang Thiều, quan niệm nghệ thuật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, thi pháp thể loại, thi pháp. Abstract PROSODY CHARACTERISTICS IN NGUYEN QUANG THIEU'S POETRY This article discusses the poetic characteristics of Nguyen Quang Thieu's poetry – some basic aspects that make an important contribution to the value, characteristics and special appeal of Nguyen Quang Thieu's poetry. Understanding and exploring the poetic elements in Nguyen Quang Thieu's poetry is not simple, but Nguyen Quang Thieu's works always hold a special place in the hearts of readers. As one of the typical poets of the contemporary literary period, Nguyen Quang Thieu's poetry reflects on life through his artistic conception of people, spatial characteristics, time or images of authors, poetics. It is these things that make up the specific and distinct beauty of Nguyen Quang Thieu's poetry. Mở đầu Trong giai đoạn văn học đương đại, bắt đầu từ năm 1986, Nguyễn Quang Thiều là một tên tuổi nổi bật với vẻ đẹp, sự sáng tạo riêng biệt đã tạo dấu ấn riêng, phá vỡ quan niệm thông thường. Điều đó được tạo nên từ sự hòa phối của nhiều phương diện, trong đó nổi bật là quan niệm nghệ thuật mới mẻ, cách sử dụng thời gian theo kiểu của riêng mình, không gian làng Chùa, sông Đáy dung dị, gần gũi; hình tượng tác giả, thi pháp thể loại sáng tạo, giàu tính tư tưởng và thẩm mỹ. Đó là những căn nguyên cơ bản làm nên chân dung thi nhân Nguyễn Quang Thiều luôn nổi bật, tươi sáng giữa những gương mặt tiêu biểu của thi nhân Việt Nam đương đại, cũng như sức sống trường tồn không chỉ quá khứ, hiện tại mà cả tương lai của thơ Nguyễn Quang Thiều. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nguyễn Quang Thiều (1957) là một nhà thơ đương đại Việt Nam tiêu biểu. Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Từ những năm 1990, thơ Việt Nam đương đại bắt đầu có sự chuyển đổi lớn về mặt thi phá p và có thể nói, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ đầu tiên, bằng những nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình, đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt. Thơ văn Nguyễn Quang Thiều bay bổng, ưu tư với những phiền muộn thi ca. Do vậy, từ trước đến nay đã có một số bài viết nghiên cứu về thơ Nguyễn Quang Thiều với những đóng góp đáng kể. Kể từ khi tập thơ Sự mất ngủ của lửa được xuất bản năm 1992, đã có nhiều tác giả như, Trần Mạnh Hảo, Lê Vũ, Đỗ Hoàng, Đoàn Ánh Dương, Lê Thiếu Nhơn, Trần Đăng Khoa, Đào Duy Hiệp… bàn luận về thơ của Nguyễn Quang Thiều trên nhiều phương diện. Trong công trình Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều, tập hợp hơn 20 bài viết từ Hội thảo cùng tên, do Hội Nhà văn Việt Nam và Viện Văn học tổ chức tại Hà Nội đã có những tổng kết và đánh giá tương đối đầy đủ về sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều như đánh giá của Nguyễn Đăng Điệp, Vũ Văn Sỹ, Đông La, Nguyễn Quyến… Trong công trình này, khai thác những hướng tiếp cận, hướng tìm tòi mới mẻ, khả thi từ thế giới ngôn từ của Nguyễn Quang Thiều của các tác giả khác nữa như Chu Văn Sơn, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Mạnh Tiến, Hồ Thế Hà, Phạm Khải, Trần Quang Quý, Mai Văn Phấn, Nguyễn Đức Tùng, … Trong cuốn sách Vọng từ con chữ, Nguyễn Đăng Điệp khẳng định Nguyễn Quang Thiều với những thành công và những vần thơ đang ở mức thể nghiệm đã để lại dấu ấn của mình trong tiến trình đổi mới thơ ca, góp phần đưa thơ Việt Nam tiến thêm một bước nữa trên con đường hiện đại. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Quang Thiều đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh giá, nhiều bài viết của tác giả báo chí có tên tuổi, bạn đọc yêu thơ đón nhận, những người nghiên cứu khoa học cũng lấy thơ ông làm đối tượng nghiên cứu. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về quan niệm và không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng nhà thơ và thi pháp thể loại trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Do vậy, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của những nhà nghiên cứu đi trước, bài viết này của chúng tôi tập trung làm rõ bốn vấn đề cơ bản trong thi pháp thơ Nguyễn Quang Thiều. Qua đó, góp phần làm rõ thêm các giá trị độc đáo và ý nghĩa to lớn của tư tưởng nghệ thuật thơ Nguyễn Quang Thiều. Phương pháp nghiên cứu Trong bài viết này, chúng tôi sử sụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích – tổng hợp và phương pháp so sánh - đối chiếu. Phương pháp hệ thống được sử dụng trong việc nghiên cứu toàn bộ thơ Nguyễn Quang Thiều tính tới thời điểm hiện tại, trong một hệ thống nhất quán để làm rõ tính thống nhất trong thi pháp của thơ Nguyễn Quang Thiều. Phương pháp so sánh - đối chiếu được sử dụng trong việc so sánh thơ Nguyễn Quang Thiều với thơ của một số nhà thơ tiêu biểu khác ở những phương diện có liên quan mà người viết bài này đặt ra để xem xét, khẳng định đóng góp riêng của Nguyễn Quang Thiều. Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng trong việc phân tích một số bài thơ, ý thơ tiêu biểu; phân tích hình tượng thơ bao trùm trong toàn bộ thế giới thơ Nguyễn Quang Thiều. Trên cơ sở đó, tổng hợp những ý nghĩa cơ bản, giá trị trong quan niệm, không gian, thời gian nghệ thuật và hình tượng tác giả, thi pháp thể loại trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Đọc tiếp: Đặc điểm thi pháp trong thơ Nguyễn Quang Thiều phần 2
Mối quan hệ giữa thời gian và không gian nghệ thuật Thời gian và không gian nghệ thuật có tương quan chặt chẽ trong tính chỉnh thể của hình tượng nghệ thuật. Khi nhà văn lựa chọn một kiểu thời gian nghệ thuật cũng có nghĩa xây dựng kiểu không gian tương ứng. Cụ thể, trong truyện Nguyễn Nhật Ánh: Thời gian quá khứ gắn liền với không gian hoài niệm: Khi một phần kí ức của nhân vật được dùng trong tạo dựng tác phẩm, việc kể câu chuyện chính là làm sống lại những gì đã thuộc về quá khứ với hành trình thời gian trở ngược. Ví dụ: trong Cô gái đến từ hôm qua, sử dụng cụm từ “hồi nhỏ” để trở về với tuổi thơ của cậu bé năm tuổi. Công thức “hồi + x” trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, “hồi tôi tám tuổi”, “hồi tám tuổi” mở ra cả một khoảng không gian rộng lớn, ngập tràn kí ức những trò chơi thú vị thời thơ ấu. Thời gian hiện tại gắn liền với không gian thiên nhiên và bối cảnh xã hội: Không gian thiên nhiên trong hiện tại có những nét mới mà thiên nhiên trong quá khứ không có, đó là những trải nghiệm về mối tình đầu, những bài học về tình anh em, về các mối quan hệ giữa người với người. Không gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh luôn có sự thay đổi, luân phiên: chuyển không gian từ không gian hẹp, thân quen (khu vườn, sân nhà) đến không gian mở, khơi gợi sự khám phá (cánh đồng, khu rừng); đối lập không gian làng quê - thành thị. Ví dụ: nhân vật Đông trong Ngồi khóc trên cây tìm về ngôi làng Đo Đo thời thơ ấu để tìm bình yên trốn tránh sự ồn ào, náo nhiệt nơi thành phố. Cô gái đến từ hôm qua đi từ không gian sân nhà sang không gian trường học. Ngồi khóc trên cây từ không gian khu vườn, sân nhà sang không gian khu rừng. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh từ không gian sân chơi nhà chị Vinh, không gian nghĩa địa, không gian nhà con Xin sang không gian đồi Cỏ Úa. Sự thay đổi điểm nhìn không chỉ mang lại những trải nghiệm mới mẻ cho nhân vật mà còn thể hiện sự trưởng thành trong tư duy, nhận thức của từng nhân vật. Nguyễn Nhật Ánh không giam hãm những đứa trẻ của mình trong “vòng giới hạn” mà để chúng tự do khám phá những khu vực cấm địa. Sự luân chuyển không gian được Nguyễn Nhật Ánh sử dụng như một đôi cánh, giúp nhân vật trải nghiệm, khám phá, mở rộng tầm mắt của nhân vật. Thời gian thường đan xen giữa quá khứ và hiện tại, ban ngày đối lập với ban đêm. Sự trái ngược của không gian nghĩa địa trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (địa điểm vui chơi lí tưởng >< “buổi tối ngồi trong nhà nhìn ra những đốm nhang lập lòe mẹ tôi vẫn thắp hằng đêm trước mộ, anh em tôi đứa nào cũng thấy rờn rợn”). KẾT LUẬN Về thời gian nghệ thuật, Nguyễn Nhật Ánh xây dựng rất đơn giản, từ hiện tại, từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Khác với các nhà văn hiện đại khác lựa chọn kỹ thuật như xáo trộn thời gian, dòng kí ức. Nhà văn tổ chức thời gian ở ba chiều: hiện tại gắn với các trò chơi, trải nghiệm thú vị của tuổi thơ, quá khứ với những dòng hồi tưởng miên man, tương lai của mơ ước và niềm tin. Về không gian nghệ thuật, nhà văn xây dựng kiểu không gian bối cảnh xã hội và làng quê yên bình, không gian tâm tưởng và không gian cổ tích. Không gian làng quê, thiên nhiên hay học đường đều được nhà văn miêu tả bằng những nét giản dị, tinh tế. Đi liền với không gian là những cảm xúc của con người, đặc biệt là những đứa trẻ. Bên cạnh đó, không gian tâm tưởng chia thành không gian hoài niệm trong cái nhìn hồi cố về thời gian, không gian miền cổ tích và không gian mơ ước. Về mối quan hệ không – thời gian, truyện Nguyễn Nhật Ánh không gian - thời gian là những tín hiệu nghệ thuật hoà quyện làm một chỉnh thể cụ thể cảm tính và mang tính tổ chức cao và Nguyễn Nhật Ánh luôn không ngừng tìm kiếm những hình thức cấu trúc phù hợp nhất với sáng tác của mình thể hiện qua việc sử dụng những kiểu thời gian và không gian nghệ thuật khác nhau. Nhà văn đã tận dụng những chất liệu về không gian và thời gian nghệ thuật để không chỉ đưa người lớn trở về với tuổi thơ mà còn đưa trẻ em sống lại những năm tháng vô tư đầy kỷ niệm. Bằng khả năng quan sát tinh tế và vốn tiếng Việt phong phú, Nguyễn Nhật Ánh đã tạo nên những dòng văn sinh động, nhẹ nhàng và giàu sức gợi. Mỗi em nhỏ khi bước vào trang văn của ông là chúng được ca hát, nhảy múa vui đùa, được vẽ nên những gam màu của tự nhiên mà chúng yêu thích, được thả hồn vào những hình ảnh giàu chất thơ. Mỗi câu chuyện đều truyền tải đến các em một bài học, ý nghĩa nhất định. Đó là tất cả những gì Nguyễn Nhật Ánh đã trao tặng cho lớp lớp thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Đó là tài sản của một tình yêu lớn, một trái tim lớn và một trí tuệ tuyệt vời. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 1
Không gian tâm tưởng Không gian kí ức hoài niệm Không gian hòa niệm được tạo nên từ kí ức nhân vật và sự linh hoạt trong sử dụng thời gian, đặc biệt là cái nhìn hồi cố thời gian với các thủ pháp tỉnh lược, ngưng nghỉ… trở thành một cặp song hành. Nguyễn Nhật Ánh đã di chuyển điểm nhìn không gian linh hoạt từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong. Không gian hoài niệm về tuổi thơ của Đông nhớ về thời thơ ấu gắn bó với ngôi làng Đo Đo. Không gian hoài niệm về hồi lên tám tuổi của cu Mùi (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ) gắn với các trò chơi ở sân nhà, khu vườn. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là một câu chuyện đầy ắp những điều hồn nhiên ngây thơ của trẻ thơ nhưng lại được viết bằng giọng văn, được nhìn qua lăng kính của người lớn (cu Mùi khi đã trưởng thành), chính vì thế không gian hoài niệm cũng trở thành không gian xuất hiện nhiều trong thiên truyện này. Không gian hồi tưởng đối lập với không gian thực tại. Nếu không gian thực tại là không gian của người lớn, của những lo toan, suy nghĩ về cuộc sống và con người, là không gian mà con người phải bon chen, xô bồ thì không gian hồi tưởng về tuổi thơ lại hoàn toàn khác. Không gian hồi tưởng đó đơn giản là những sắc màu nhẹ nhàng, thuần túy, không chút pha tạp, ở đó chỉ có tiếng cười hồn nhiên ngây thơ của trẻ em. Đó là không gian mà người lớn nào cũng mong ước được trở về lần thứ hai trong đời. Không gian miền cổ tích Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã gieo vào tâm hồn trẻ thơ những hạt giống của niềm tin, ước mơ và hi vọng thông qua những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, khung cảnh thần tiên- nơi thiên nhiên và con người giao hòa với nhau trong mối thân tình. Trong không gian ấy, những điều khó tin như trong truyện cổ tích diễn ra trong sự ngỡ ngàng của nhân vật, đem lại cái kết bất ngờ và xúc động, giọng điệu trần thuật thấm đẫm chất trữ tình. Không gian khu rừng trong Ngồi khóc trên cây cảnh vật thiên nhiên, các con vật trong rừng hiện ra một cách sống động giống như cảnh thần tiên trong các câu chuyện cổ tích. Qua cách miêu tả không gian này, Nguyễn Nhật Ánh còn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Trong khi cô bé Rùa luôn tìm cách để bảo vệ các con vật trong khu rừng bằng cách phá bẫy của những người thợ săn, đổ nước vào ống thuốc súng của thợ săn, dẫn những con vật đáng yêu đến nơi trú ẩn an toàn thì những người thợ săn kia vẫn tiếp tục vào rừng săn thú. Tuy nhiên, sự thức tỉnh lương tri của con người đã được Nguyễn Nhật Ánh thể hiện trong đoạn cuối của truyện với một cái kết ý nghĩa và nhân văn. Không gian mơ ước Nguyễn Nhật Ánh đã đưa người đọc đến với không gian mơ ước, nơi những điều tốt đẹp nảy nở, nơi sự sống và niềm tin gieo mầm giữa cuộc sống vất vả, nghèo khó. Hình ảnh Thiều (Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh) khi chứng kiến sự hồi phục kì diệu của con Nhi bắt gặp hình ảnh những cánh hoa vàng li ti trên thảm cỏ xanh biếc dự báo mùa hè khắc nghiệt sắp qua. Ánh mắt ấm áp, nụ cười hạnh phúc của Tường, của Nhi đã khép lại câu chuyện thú vị của tuổi thơ. Cái kết hạnh phúc chính là cách Nguyễn Nhật Ánh thể hiện ước mơ về một tương lai cho những đứa trẻ trong thiên truyện của mình, hay cũng thể hiện niềm tin về cuộc sống hạnh phúc của con người. Không gian khu rừng xuất hiện cuối tác phẩm Ngồi khóc trên cây cũng chính là không gian ước mơ. Khu rừng đã cứu sống, Nguyễn Nhật Ánh vẫn vẽ ra một tia ánh sáng hi vọng để nhân vật của mình tìm được hạnh phúc. Nguyễn Nhật Ánh luôn thể hiện không gian ước mơ dưới nhiều hình thể khác nhau. Ước mơ của trẻ thơ được thể hiện qua trò chơi “đặt tên cho thế giới” như trong truyện Cho tôi một vé đi tuổi thơ. Nguyễn Nhật Ánh vẫn để cho nhân vật nhỏ tuổi của mình mơ ước dù ước mơ đó có xa vời. Hoặc Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh đem đến điều kì diệu về ước mơ tuổi thơ. Niềm tin vào sự kì diệu của giấc mơ cổ tích tuổi thơ đã khiến Tường hồi phục sau tai nạn do anh trai vô tình gây ra khiến cậu bị liệt hai chân. Tường là cậu bé luôn tin vào những câu chuyện cổ tích, tin sự tồn tại của công chúa. Như thế, lòng tin vào những câu chuyện cổ tích, niềm tin vào những điều tốt đẹp đã tạo nên điều kì diệu trong cuộc sống. Những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh luôn mở ra những điều tốt đẹp, khuyến khích trẻ thơ ước mơ và khát khao cho tương lai tươi sáng hơn. Với những câu chuyện về bao điều tốt đẹp được kể một cách tự nhiên, nhà văn đã trở thành người nâng niu giữ gìn những ước mơ trong trẻo của tuổi thơ. Không gian nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh được thể hiện ở hai cấp độ: Không gian bối cảnh xã hội, thiên nhiên và không gian tâm tưởng. Những không gian này thường gắn liền với cuộc sống của trẻ em: Không gian làng quê yên bình, không gian học đường, không gian thiên nhiên rộng mở... Không gian ấy hiện lên vừa chân thực vừa thể hiện thái độ, quan niệm của nhà văn. Bên cạnh đó, không gian tâm tưởng giúp Nguyễn Nhật Ánh đi sâu phân tích tính cách nhân vậy, làm nổi bật nội tâm, những suy nghĩ, âu lo của nhân vật về con người và cuộc đời. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 7
Một số kiểu không gian khác Không gian ngôi làng Đầu tiên phải kể đến đó là ngôi làng Đo Đo với quán nhỏ, triền đê, ngôi nhà bé lụp xụp, đằng sau bức tranh ấy có những cảnh đời vất vả lo toan gánh nặng cơm áo. Chính trong bối cảnh ấy, thế giới trẻ thơ được tái hiện sinh động với các trò chơi thú vị, những cuộc khám phá, chuyến phiêu lưu kì thú và cả những trải nghiệm sâu sắc để qua đó, các nhân vật đồng cảm, yêu thương chia sẻ với nhau, loại bỏ những ích kỉ cá nhân và thanh lọc tâm hồn hướng đến cách sống nhân văn hơn. Nguyễn Nhật Ánh thường xuyên nhắc đến ngôi làng Đo Đo trong những tác phẩm của mình. Mắt biếc, Hoa hồng xứ khác, Còn chút gì để nhớ, Hạ đỏ, Đi qua hoa cúc, Ngồi khóc trên cây…đều xây dựng trên khung cảnh làng Đo Đo yên bình mà thơ mộng. Hình ảnh làng quê có lẽ được xây dựng lên từ nỗi nhớ quê hương da diết của Nguyễn Nhật Ánh. Quê nhà đã xa luôn trở đi trở lại như nỗi niềm day dứt, trăn trở khôn nguôi. Nhà văn “thỏa nỗi nhớ quê của mình theo cách của những người hành nghề bằng con chữ. Những kỉ niệm, những vùng đất, những gương mặt bạn bè ấu thơ thi nhau hiện lên trong hết cuốn sách này đến cuốn sách khác” Cuộc sống tuổi thơ của Thiều, Tường gắn liền với khung cảnh làng quê trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh với những câu văn đặc tả khung cảnh làng quê đã. Khung cảnh làng quê này khác với làng Đo Đo của Ngồi khóc trên cây, nhưng lại có những đặc điểm chung với mọi làng quê khác trên đất nước Việt Nam, đó là được bao trùm bởi màu xanh của cánh đồng, của cỏ, của cây cối, rực rỡ sắc màu và vô cùng yên bình. Bất cứ một nhà văn viết truyện thiếu nhi nào cũng biết rằng yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên là bản chất của tuổi thơ. Có thể nhận thấy điểm nhìn không gian trong nhiều truyện Nguyễn Nhật Ánh là điểm nhìn không gian mở. Nó không bị bó buộc trong không gian chật hẹp mà rộng mở thoáng đãng giao hòa với cây cỏ. Không gian ấy phù hợp với tâm lý hiếu động của trẻ nhỏ, hoạt động tinh nghịch và sự sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú của các em. Từ đó tác giả khéo léo xây dựng những cuộc khám phá, phiêu lưu thú vị qua mỗi phần, mỗi chương. Không gian cánh đồng, đồi cỏ Cánh đồng, đồi cỏ là những không gian rộng nơi đó trẻ thơ có thể sống hết mình với các trò chơi khám phá, tung tăng bay nhảy, hòa mình vào thiên nhiên khoáng đạt, không còn lo âu về những phép tắc của người lớn. Trên những cánh đồng, đồi cỏ, nhân vật trong truyện còn phát hiện các bí mật thú vị, điều kì diệu của cuộc sống. Bãi cỏ um tùm nhà ông Cả Hớn đã trở thành địa điểm lý tưởng để hai anh em Tường và Thiều ra tay trừng trị thằng Sơn trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. Tuổi thơ của hai anh em Tường và Thiều gắn với những bãi cỏ xanh mướt và um tùm. Trẻ em thôn quê luôn tìm cách biến mọi địa điểm có thể thành sân chơi của mình, bãi cỏ đằng nhà ông Cả hớn, sân thóc rộng nhà chị Vinh, hay thậm chí là nghĩa địa cũng trở thành địa điểm vui chơi lý tưởng. Không gian khu rừng Nếu không gian đồi cỏ, cánh đồng: vui tươi, trẻ thơ thì không gian khu rừng là một thế giới vắng bóng người, với đầy sự biệt lập, tĩnh mịch. Không gian khu rừng trong Ngồi khóc trên cây không chỉ góp phần bộc lộ những nét tính cách mới lạ của cô bé Rùa mà còn mở ra trước mắt Đông một thế giới diệu kỳ. Bé Rùa bị những đứa trẻ cùng tuổi cô lập vì tính cách quái dị nhưng lại là một người bạn thân thiết của những con vật trong rừng. Nhìn ở góc độ nào đó, bé Rùa giống như một “phiên bản người” của khu rừng. Không gian dòng sông Nguyễn Nhật Ánh miêu tả dòng sông dưới con mắt trẻ thơ thật thú vị. Dòng sông Kiếp Bạc chính là một ví dụ điển hình “mùa hạ, sông Kiếp Bạc khô cạn. Lòng sông phơi những tảng đá đen, bây giờ đã mượt rêu xanh”. Dòng sông Kiếp Bạc xuất hiện ngay đầu truyện dài Ngồi khóc trên cây như biểu tượng đầu tiên về làng quê Đo Đo yêu dấu trong lòng Đông. Trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, không gian dòng suối gắn với một “tích dân gian” mà đứa trẻ nào cũng nghĩ đó là thật, cho chuồn chuồn cắn rốn thì sẽ biết bơi. Thiều và Tường rủ nhau ra dòng suối để kiểm chứng tính hiệu nghiệm của lời tương truyền này và cuối cùng công cuộc tập bơi của hai anh em kết thúc bằng một câu chuyện buồn cười nhưng cũng rất thú vị. Như vậy, không gian dòng sông, dòng suối đóng vai trò quan trọng trong quá trình trưởng thành của những đứa trẻ nơi thôn quê. Trên phông nền này, những đứa trẻ cảm nhận sự ấm áp, vỗ về của mẹ thiên nhiên và cũng có những trải nghiệm thú vị nhưng không kém phần sâu sắc. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 6
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH Không gian xã hội và thiên nhiên Không gian giản dị, quen thuộc Khu vườn, sân nhà là những không gian thân quen, gắn bó với trẻ thơ, đó là thế giới thu nhỏ để trẻ em thỏa sức với các trò chơi, cuộc khám phá đi tìm kho báu, cùng nhau ôn bài, chơi với các con vật (Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Cô gái đến từ hôm qua)… Đây là kiểu không gian phổ biến trong truyện Nguyễn Nhật Ánh – nơi lưu giữ những dấu chân kí ức tuổi thơ tươi đẹp. Không gian sân nhà Trong thế giới nghệ thuật truyện Nguyễn Nhật Ánh, nhà văn xây dựng lên những không gian sân nhà, khu vườn để các em thỏa sức chơi những trò chơi tuổi thơ. Tình bạn của hai đứa trẻ trong Cô gái đến từ hôm qua bắt đầu và cứ thế lớn dần lên cùng những trò chơi ấu thơ. Không gian sân nhà là nơi Tiểu Li và “tôi” làm quen và cũng chính là nơi tình bạn của hai đứa trẻ lớn dần lên qua năm tháng. Trong câu chuyện quá khứ của Tiểu Li và Thư thì không gian sân nhà xuất hiện đến 6 chương trong 10 chương truyện. Trong Ngồi khóc trên cây, tác giả cũng mang đến không gian căn nhà, vào buổi trưa hè, lúc đêm vắng và buổi trưa hè, nơi mà Đông đọc sách, ngồi lặng để ngắm khung cảnh thiên nhiên bên ngoài hay nhớ về mối tình đầu. Qua lăng kính đó Đông cảm nhận khung cảnh làng quê yên bình, nơi mà cậu không hề có được trong những tháng ngày sống trên thành phố. Không gian khu vườn Không gian khu vườn sau hè nhà Rùa là nơi chứng kiến toàn bộ mối tình của Đông và cô bé Rùa. Không gian khu vườn này được nhắc lại 6 lần trong toàn bộ thiên truyện Ngồi khóc trên cây Qua khung gian khu vườn, Nguyễn Nhật Ánh đều muốn đưa người đọc đến một thế giới với những không gian bay bổng và nên thơ, ở đó khu vườn thực tại đã biến thành một khu vườn trong mỗi tâm hồn còn người. Không gian trường học Không gian trường lớp được Nguyễn Nhật Ánh miêu tả hết sức sống động với các trò chơi nghịch ngợm, những tiết học, giờ ra chơi, các mối quan hệ bạn bè thân thiết…Tác giả đưa người đọc những chiếc vé trên hành trình trở về tuổi thơ một cách tự nhiên, chân thật. Cô gái đến từ hôm qua là câu chuyện diễn ra trên cái nền là không gian học đường. Đặc biệt, trường học trong văn Nguyễn Nhật Ánh là không gian gắn với những mối tình tuổi học trò. Nguyễn Nhật Ánh đã có những trang viết chân thực về mối tình của Việt An và Thư. Nếu như trong Cô gái đến từ hôm qua, không gian lớp học xuất hiện dày đặc và gần như trở thành phông nền cho mọi câu chuyện diễn ra trong tác phẩm, thì trong 12 chương của Cho tôi một vé đi tuổi thơ, không gian lớp học chỉ xuất hiện 2 lần. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh sẽ không thể tái dựng đầy đủ cuộc sống của đứa trẻ nơi thôn quê nếu thiếu đi không gian học đường. Không gian học đường góp phần thể hiện sự biến đổi trong tình cảm và nhận thức của Thiều. Bắt chước chú Đàn, Thiều tỏ tình với con Xin nhưng lá thư tình “nửa mùa” đó bị thầy Nhãn đọc được; rồi Thiều và bé Mận cứ ngày càng thân thiết sau mỗi giờ ra chơi. Ngày càng trưởng thành, không gian hoạt động của những đứa trẻ lại càng được mở rộng. Bên cạnh không gian làng quê bình yên thì không gian học đường chính là dạng “không gian mở rộng” mà bất kì đứa trẻ nào cũng sẽ được trải nghiệm. Trên không gian đó, những đứa trẻ không chỉ bị hấp dẫn bởi những điều mới mẻ, những bài học thú vị, những người bạn, những thầy cô giáo mà trong tâm hồn của những đứa trẻ còn xuất hiện những rung động đầu đời nhẹ nhàng, xao xuyến đến khó tả. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 5
Thời gian quá khứ Thời gian quá khứ với những hồi tưởng Thời gian quá khứ là thời gian "đã xảy ra" khi so sánh với thực tại của nhân vật, và được thể hiện thông qua những kí ức hồi tưởng của nhân vật. Hồi tưởng quá khứ cũng là biểu hiện của cuộc sống nội tâm. Trong nhiều sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, nhà văn có xu hướng hồi tưởng những kỉ niệm quá khứ thời niên thiếu, nổi bật trong số đó phải kể đến như Ngồi khóc trên cây, Cho em một vé đi tuổi thơ và Cô gái đến từ hôm qua. Người kể chuyện trong đó thường là nhân vật chính "tôi" kể lại thời còn niên thiếu của mình. Trong nhiều tác phẩm như: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Mắt biếc, Lá nằm trong lá…nhà văn lựa chọn người kể chuyện đồng thời là nhân vật, ngược thời gian kể lại câu chuyện tuổi thơ của chính mình. Thời gian hồi tưởng quá khứ không chỉ khiến nhân vật ngoảnh nhìn lại một lần nữa hồi ức tươi đẹp của mình mà còn giúp nhân vật bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của mình về những kỉ niệm ngày thơ ấu. Người kể chuyện thường bắt đầu kể với một giọng điệu của cổ tích, với sự xuất hiện của những dấu hiệu ngôn từ mang tính phiếm chỉ của thời gian: "hồi còn nhỏ, nhỏ xíu", "dạo ấy"… Bởi thế, những câu chuyện dù được kể dưới một người kể chuyện xưng tôi, hay kể bởi người kể chuyện ẩn tàng thì đều tựa như một câu chuyện cổ tích về tuổi thần tiên. Mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại Với cách kể chuyện theo dòng hồi ức, tác phẩm sẽ có sự chênh lệch giữa thời gian trần thuật và thời gian sự kiện, người kể chuyện cũng có thể dễ dàng sử dụng các phương thức tỉnh lược, ngưng nghỉ, căng kéo… theo cơ chế của tâm lí hồi tưởng. Nét độc đáo trong cách tổ chức thời gian nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh là kiểu thời gian song hành giữa quá khứ và hiện tại tạo nên một chuỗi đối sánh không rời. Ví dụ: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ là hai mạch truyện song song, quá khứ thời tám tuổi của cu Mùi, Hải Cò, Tủn và Tí sún với bao trò chơi nhằm kiến tạo lại thế giới và hiện tại là nhà văn cu Mùi viết lại câu chuyện thời thơ ấu với khát vọng như một tấm vé trở về tuổi thơ. Thời gian của tương lai Thời gian tương lai là thời gian thể hiện qua dự kiến, ước mơ của nhân vật về điều “chưa xảy ra”. Vì thế thời gian thường gắn với những biến đổi tâm lý của nhân vật trong những tình huống và hoàn cảnh cụ thể. Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh không xuất hiện nhiều thời điểm của tương lai nhưng gieo vào lòng độc giả niềm tin vào tương lai tươi sáng, tương lai của những điều tốt đẹp kì diệu qua dự cảm của nhân vật. Những từ ngữ ám chỉ tương lai xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh: Một ngày nào đó, mai mốt, ngày mai, tuần sau, hôm sau…thể hiện ước mơ của ông về một tương lai tốt đẹp hơn cho trẻ em. Một khía cạnh ý nghĩa khác, đó là lời khẳng định những đứa trẻ giàu trí tưởng tượng, tốt bụng và luôn biết quan tâm đến mọi người và luôn tin tưởng vào một tương lai tương sáng với niềm hi vọng mãnh liệt. Như vậy, thời gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh có hai mặt cơ bản là quan niệcủa nhà văn về thời gian và việc nhà văn tổ chức thời gian trong tác phẩm. Thời gian trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh có thể nhận diện qua ba bình diện chính: thời gian hiện tại, thời gian quá khứ, thời gian tương lai. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 4
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH Thời gian hiện tại Thời gian hiện tại là khung thời gian đang diễn ra các sự kiện hoặc những suy nghĩ, hành động của nhân vật. Đây là thời gian của sự sống nhân vật, được cảm nhận với hiện tại của phát ngôn, hiện tại của người đọc. Trong những sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, thời gian hiện tại được thể hiện thông qua nhân vật khi họ xuất hiện những suy nghĩ và hành động. Thời gian hiện tại với những trò chơi Thời gian hiện tại Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh giúp tác giả nói lên cuộc sống thơ ấu của Thiều. Đó là bức tranh chân thực về cuộc sống của những đưa trẻ. Thời gian hiện tại mở đầu tác phẩm bắt đầu từ thời điểm chú Đàn xem hoa tay cho Thiều, tiếp đó hàng loạt các nhân vật xuất hiện với những câu truyện riêng về họ: chị Vinh, thằng Tường, thầy Nhãn, thằng Sơn, con Mận, căn gác nhà con Mận; những vất vả lo toan của người mẹ trong cảnh nghèo; sự hiểu lầm của Thiều với Tường và Mận; chuyện Nhi nhà ông Tám Tàng bị điên…và kết thúc là phần 81. Và trong suốt 81 chương truyện, các trò chơi thú vị của tuổi thơ: bắt ve, chơi u, chơi thả đỉa ba ba, chơi ô ăn quan, chơi nhảy lò cò,….đều đi cùng với thời gian hiện tại. Thế giới tuổi thơ của những đứa trẻ được Nguyễn Nhật Ánh thể hiện đầy tinh tế qua cách tác giả đưa vào những trò chơi gắn liền với ký ức mỗi người vào trong tác phẩm. Là hồn cu Mùi, hay chính là tâm hồn của nhiều đứa trẻ khác và cũng chính là tâm hồn của chính bản thân độc giả khi còn là một đứa trẻ được giãi bày đầy thấm thíc qua “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”. Những trò chơi ấy cũng trở thành chiếc cầu nối tình bạn, là thứ có thể vun vén cho tình bạn giữa Thư và Tiểu Li trong “Cô gái đến từ hôm qua”. Tình bạn của hai đứa trẻ ấy được bắt đầu và vun đắp dần qua những trò chơi ấy. Thậm chí, sự hòa giải, hàn gắn được từ phía đôi bạn cũng bắt nguồn từ những trò chơi đầy đáng yêu. Truyện Nguyễn Nhật Ánh, những thời gian sự kiện, biến cố lớn lao xuất hiện ít mà chủ yếu là các câu chuyện vụn vặt xoay quanh thế giới tuổi thơ gắn với các trò chơi thú vị, những cảm nhận hồn nhiên của các em về cuộc sống, những rung cảm trong sáng chớm nở… Đặc biệt, thời gian của trẻ thơ được đo bằng một thước đo kì lạ mà chưa có nhà khoa học nào có thể chế tạo ra được. Tác giả không còn đo thời gian bằng ngày bằng tháng, bằng 4 mùa mà đo bằng những định lượng độc đáo mùa giấy kính”, “mùa nắp keng”, “mùa cọng dừa”, “mùa bao thuốc lá”, “mùa thả diều”, “mùa chong chóng”. Tất cả đều được kí hiệu hóa, mã hóa bằng những tên gọi đáng yêu qua lăng kính trẻ thơ. Thời gian hiện tại với những trải nghiệm Trong Cho tôi một vé đi tuổi thơ thời gian hiện tại được thể hiện qua suy nghĩ, hành động nhân vật cu Mùi khi đã trưởng thành. Nhân vật đã tự viết về chính bản thân mình lúc tám tuổi để trở lại chuyến tàu tuổi thơ. Thời gian hiện tại trong tác phẩm này còn thể hiện ở với những cuộc trò chuyện các nhận vật khác đã trưởng thành, khi họ đã có gia đình, có địa vị xã hội riêng và bất chợt nhận ra rằng “đã đánh rơi một kỉ niệm đẹp” sau khi đọc xong cuốn sách của nhân vật “tôi”. Thời gian hiện tại còn giúp tác giả tái hiện rõ nét hơn về cuộc sống và suy nghĩ của người lớn về tuổi thơ mỗi người. Thời gian hiện tại trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh đã giúp Thiều rút ra được bài học đầy ý nghĩa về tình yêu, tình bạn và tình anh em. Thời gian hiện tại đã giúp nhà văn thành công trong việc khắc hoạ nhiều nét tính cách của một đứa trẻ. Ở Thiều, chúng ta thấy không chỉ có nét tính cách ngây thơ, trong sáng mà còn có cả nét tinh quái, khôn ranh trong các trò chơi với em trai và cả nỗi ân hận, đau khổ, ăn năn khi lần đầu tiên mắc phải sai lầm lớn nhất trong cuộc đời. Suy nghĩ người lớn nhiều lần xuất hiện trong đầu Thiều, nhưng khi trải qua nhiều chuyện hơn, nhiều biến cố hơn thì Thiều mới chuyển hoá được suy nghĩ ấy thành hành động. Đó là những biến đổi tâm lý mà chỉ có những người thấu hiểu trẻ em mới có thể nhận ra được (hành động đánh Tường). Sự biến đổi tâm lý từ trẻ con sang suy nghĩ chững chạc và trưởng thành hơn của Thiều được bộc lộ rất rõ ràng trong các sự kiện xảy ra trong đời sống của đứa bé này. Thời gian hiện tại của nhân vật vừa góp phần khẳng định những nét tính cách khác nhau của Thiều, đồng thời khắc họa rõ nét hơn về tuổi thơ của nhân vật. Đặc biệt, thời gian trong truyện Nguyễn Nhật Ánh thường là thời gian tuyến tính. Kiểu thời gian này dễ hiểu, không phức tạp và đặc biệt hơn là nó rất thích hợp với tư duy của độc giả nhỏ tuổi, câu chuyện cứ trôi đi lặng lẽ, lúc nhanh, lúc chậm khiến người đọc hồi hộp theo dõi câu chuyện cho tới cuối tác phẩm. Nó cho phép tác giả kể tường tận, chi tiết và dễ hiểu về từng biến cố xung quanh cuộc đời của nhân vật. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 3
Dịu dàng, ấm áp và nhẹ nhàng, là những cảm nhận chung khi nói về các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Không quá ồn ào, vội vã hay những tình tiết bất ngờ vẫn làm người đọc phải bồi hồi, đan xen vào trong những câu chuyện vui buồn, của tuổi mới lớn, mong manh và trong sáng như những hạt sương sa, những ký ức tuổi thơ, thời cắp sách tới trường, tình cảm gia đình, bạn bè, và cả những rung động đầu đời ngây ngô. Mỗi câu chuyện, dù được đặt trong bối cảnh nào, dù là những ngày đầu tựu trường, dù là một sớm mùa hè bất chợt, dù là khoảng sân, mảnh vườn, sân trường, lớp học, thì những khun g cảnh đó cũng chưa bao giờ ngừng làm nao lòng người đọc bởi những nét gợi nhớ, nét man mác buồn mà chúng đã ghi tạc lại. Trong phạm vi của nghiên cứu này, bài viết sẽ tìm hiểu về không gian và thời gian nghệ thuật trong những sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh, từ đó lý giải về sức hút mãnh liệt của các tác phẩm đó. KHÁI NIỆM VỀ THỜI GIAN, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT Khái niệm thời gian nghệ thuật “Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một hiện tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh và tổ chức tác phẩm”- Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm Thời gian nghệ thuật là phạm trù nghệ thuật, là một hình tượng nghệ thuật và là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ để thể hiện quan niệm về thế giới. Là thế giới mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài ngắn khác nhau, tốc độ nhanh chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại - quá khứ - tương lai khác nhau. Khái niệm không gian nghệ thuật “Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan điểm nhất định về cuộc sống, do đó không thể quy nó về không gian địa lý, hay không gian vật lý, vật chất” - Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm Không gian nghệ thuật là mô hìn h không gian của thế giới nghệ thuật. Sự đối lập và liên hệ của các yếu tố thời gian (các miền, các chiều, các phương vị,…) tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật để biểu hiện thế giới quan của tác phẩm Không gian nghệ thuật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc miêu tả cuộc sống, bộc lộ tư tưởng, tình cảm, tâm hồn con người của tác giả. Vai trò của không gian nghệ thuật vừa để xác định nơi chốn, địa điểm diễn ra các sự kiện, có thể liên kết đường dây cốt truyện, nó còn là một kí hiệu đặc biệt để diễn đạt những phạm trù ngoài thời gian, hoặc để thể hiện tâm trạng của nhân vật, đánh giá nhân vật đó về mặt đạo đức, thẩm mỹ. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh phần 2
Không gian căn phòng của từng gia đình nhỏ Căn nhà nhỏ của ông Bằng là nơi sinh hoạt của một đại gia đình lớn nói chung và ba gia đình nhỏ nói riêng. Với căn phòng của Lý và Đông, đó là một căn buồng “tuềnh toàng và thiếu ngăn nắp”, “buồng rộng, đồ đạc có vẻ nhiều nhưng tất cả đều gói kín trong các bao tải, túi nilong, hòm gỗ, hòm sắt giúi dưới gầm giường, gầm tủ và chất đống ở một góc nhà”. Đó là một căn buồng “không có sự kê dọn, bài trí”. Dường như căn buồng cũng nói lên phần nào được tính cách của chủ nhân nó. Lý, bên ngoài là một người ưa đẹp, ưa sạch sẽ và khéo léo, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn chị chất chứa nhiều nỗi niềm, nhiều suy nghĩ chưa đúng đắn nhưng lại không có người giúp chị sắp xếp lại, không có ai định hướng chị đến con đường đúng đắn. Mối quan hệ của Đông và Lý dường như cũng lộn xộn như căn buồng nhỏ nơi hai người sinh sống. Hay như căn buồng của gia đình Phượng và Luận, nơi mà với Phượng “tất cả những mệt nhọc, buồn phiền, kinh sợ đều dừng lại ở ngưỡng cửa căn buồng”. Căn buồng của gia đình Phượng Luận là một căn buồng nhỏ hẹp “ghép hai cái giường cá nhân thành một giường đôi, chỉ còn hở một lối vừa người đi. Khoảng trống phía trong là nơi làm việc bếp núc”, tất cả những gì cần có cho một gia đình đều hiện hữu trong không gian nhỏ hẹp ấy. Căn buồng là một vũ trụ thu nhỏ, nơi có “hai con người hiểu nhau, tôn trọng nhau, dắt dìu nhau”. Căn buồng của ông Bằng cũng cho thấy rõ những nét tính cách, những suy tư quan niệm của ông về cuộc sống. Căn phòng ấy “có máy đánh chữ, hộp bút, mấy cuốn sách đang đọc, kê sát cái tủ sách ăm ắp từ điển, sách tra cứu và các cặp hồ sơ lưu giữ…”, không hề có đồ vật hiện đại nào “phản ánh được bước phát triển tân kì” của kỹ thuật điện tử. Con người ông Bằng cũng như chính căn phòng ấy vậy, trầm tĩnh, cổ kính và luôn gìn giữ những nét đẹp xưa cũ. Qua việc miêu tả không gian riêng của từng gia đình nhỏ, nhà văn Ma Văn Kháng đã phần nào khắc hoạ được tính cách, tâm tư tình cảm cá nhân và số phận của mỗi người trong đại gia đình lớn. Từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật và những thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. Không chỉ có những căn phòng riêng được miêu tả rõ nét, không gian sinh hoạt chung cũng được tác giả hướng tới. Nhà ông Bằng có một khu vườn nhỏ, một nơi “biểu hiện sức sống cây xanh nhiệt đới và đậm đà phong cách tao nhã”. Khu vườn ấy trải qua bốn mùa xuân hạ thu đông với những sắc thái khác nhau. Dường như cây cối nơi đó cũng có cảm xúc, nó biết vui biết buồn theo tâm trạng của những người trong gia đình. Nó vui vẻ, râm ran khi mấy chị em dâu hoà thuận chăm sóc dàn mướp chị Hoài và Phượng gieo đêm ba mươi Tết. Nó quạnh quẽ thê lương sau cái chết của ông Bằng và sự bỏ đi của Lý. Mở đầu truyện là khoảng thời gian cây rụng lá, một sự khởi đầu có phần tàn phai héo úa, báo hiệu cho những biến cố của gia đình nhưng cho đến kết thúc truyện, khu vườn lại rụng lá, phải chăng đó là một dấu hiệu chuẩn bị cho mùa xuân mới, cây cối sẽ đâm chồi nảy lộc, và gia đình ông Bằng sẽ đón chào một năm mới tươi vui hạnh phúc hơn. Kết luận Tóm lại, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” là không gian thế sự, không gian gắn với những con người cá nhân. Ở đó, con người bộc lộ rõ những suy tư, những tính cách, tâm tư tình cảm của mình. Ở đó, có những người luôn vững lòng bảo vệ các giá trị tư tưởng đạo đức tốt đẹp, cũng có những người đánh mất bản thân, chạy theo sự phù phiếm xa hoa của kim tiền, dục vọng. Thế nhưng cho đến cuối cùng ta vẫn nhận ra, gia đình và những giá trị đạo đức là bến đỗ cho mỗi con người, là nơi nuôi dưỡng con người, hướng con người đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 1
Không gian “tha hương” Không gian “tha hương” là không gian gắn liền với nhân vật Cừ - một con người được xem như cái mầm hư hỏng của gia đình ông Bằng – người đã từ bỏ tổ quốc, lên tàu trốn ra nước ngoài cùng một người phụ nữ. Đó là không gian được kể trong bức thư cuối cùng Cừ gửi về nhà, cũng là bức thư cuối trước khi anh từ bỏ cõi đời để trở về với những giá trị tinh thần mà anh đã trót từ bỏ. Không gian ấy gắn liền với sự “trốn chui trốn lủi”, đó là một chiếc tàu cũ “chạy được hơn một ngày đã hết dầu”, là nơi có những con người “chỉ biết phó mặc đời cho sóng bể”, “hơn hai chục con người, bới lục từng cọng rau tới thanh gỗ mục để nhét vào mồm cho dạ dày đỡ lép”. Là nơi người ta tìm thấy hi vọng được cứu nhưng cuối cùng lại thất vọng và nhục nhã ê chề khi nhìn thấy trên chiếc tàu tới “cứu” họ lại nhảy xuống “bảy thằng Thái Lan trần trùng trục, xăm đầy ngực hình đàn bà loã thể”. Cuối cùng Cừ cũng trải qua những ngày lênh đênh trên biển, anh tới được “xứ sở” mà anh định tới, nhưng đó cũng là lúc Cừ nhận ra, đó “không phải là nơi mình định tới”. Ở đất nước Canada xa xôi, Cừ sống trong “một trại tị nạn. Công việc là xúc tuyết và đổ xăng nhớt. Lương đủ sống”. Thế nhưng, lời nói của thằng lính nguỵ, việc Ngọc Liên – người phụ nữ cùng Cừ trốn ra nước ngoài – đi làm điếm, một chuyện “cay đắng với tâm lý người có lương tâm nhưng được nhiều người cho là bình thường ở đất nước này” và ngọn nến đêm 30 Tết đã gợi lại cho Cừ những giá trị đạo đức, những kỷ niệm xưa. Ở một xứ sở xa lạ, Tết không có hoa đào, pháo đỏ, bánh chưng xanh, Tết chỉ có duy nhất một ngọn nến và nỗi nhớ gia đình, Cừ đã nhận ra rằng “mỗi người chỉ có thể thuộc về một dân tộc nhất định, từ trong tâm hồn”, và rằng “cuộc sống là sự phát hiện liên tục. Hành trình của một đời người nếu làm sáng tỏ một chân lý nho nhỏ thôi thì cũng là có ích”. Đến cuối cùng, Cừ chọn cho mình thuốc ngủ liều mạnh, như một cách giải thoát bản thân khỏi những điều thất vọng, nhục nhã, một cách để sám hối cho những tội lỗi mình đã tạo ra và cũng là một cách để bảo toàn những giá trị đạo đức mà cha anh vẫn luôn muốn truyền đạt đến con cháu. Tóm lại, không gian xã hội trong truyện không được miêu tả quá nhiều nhưng chỉ qua một vài nét bút chấm phá, người đọc cũng có thể thấy được thực trạng xã hội đương thời với rất nhiều khó khăn khi đất nước bước vào thời kì đổi mới. Trước hoàn cảnh ấy, con người phải thay đổi, phải nỗ lực thích nghi và đồng thời cũng luôn phải tự nhắc nhở bản thân để không đánh mất các giá trị đạo đức đáng quý của dân tộc. Không gian gia đình Nếu không gian xã hội trong tác phẩm chỉ được hiện lên với những nét miêu tả chấm phá thì không gian gia đình được tác giả tập trung khắc hoạ với không gian truyền thống của những ngày Tết đến xuân về, không gian căn phòng của từng gia đình ứng với đặc điểm tính cách của từng nhân vật. Không gian gia đình ngày Tết Mở đầu tác phẩm, tác giả Ma Văn Kháng miêu tả căn nhà của ông Bằng là một căn nhà ở cuối phố, “một căn nhà gác nhỏ trong một khu vườn nhỏ, có cổng sắt. Một căn nhà không toàn vẹn, sau một trận hoả hoạn cáhc đây chục năm”. Đó là một căn nhà yên ắng gần như suốt ngày và quanh năm. Căn nhà đó, vào cữ đông rét mướt của chuỗi ngày cuối năm, cũng nhộn nhịp mỗi người một việc đón chờ năm mới đến. Từ chị Lý vừa đi sắm lỉnh kỉnh những đồ đạc nào gạo, nào mì, nào thịt, nào rau, … tất cả để chuẩn bị cho mâm cúng ngày cuối năm của gia đình. Đến cả ông Bằng, người cha già của gia đình cũng khệ nệ, ì ạch “bê một chậu cúc đại đoá từ ngoài sân vào” trang trí ở góc nhà mặc lời ngăn cản và muốn giúp đỡ của hai người con dâu. Trong không khí giáp Tết, ngôi nhà nhỏ của ông Bằng đã được trang hoàng với “mâm ngũ quả, một chai rượu chanh, lấp lánh mấy khung ảnh”. Không khí dường như ngày càng tất bật với sự náo động trong căn bếp nhỏ. Lần lượt các món xào, nấu, hầm, luộc, rán, quay,… “hiện ra trên hai cái mâm đồng đánh sáng choang” dưới sự chỉ huy đâu vào đấy của Lý. Đúng giờ, lễ cúng gia tiên diễn ra trong sự trang trọng, kính cẩn, với không gian thờ cúng linh thiêng: “Hương cháy, uốn cong một đoạn tàn, bốc toả một làn khói ảo mờ. Hai cái bánh chưng bọc lá xanh tươi, buộc lạt điều, xếp cạnh mâm ngũ quả và những chén rượu xinh xắn đặt rải hàng ngang trước bệ thờ. Ngọn đèn dầu lim dim in cái chấm vàng vào dãy khung ảnh đặt sát tường. Ảnh song thân ở chính giữa; bên trái, ảnh bà Bằng mặt hoa da phấn, tóc vấn khăn nhung, phía trái, ảnh anh cả Tường áo trấn thủ ô quả trám, mũ calo nghiêng, nét trắng đen đã phôi pha”. Qua ngòi bút của mình, Ma Văn Kháng đã thành công khắc hoạ không khí tươi vui của một gia đình khi Tết đến xuân về, và ông cũng đã thành công ghi lại phong tục truyền thống lâu đời rất đáng trân trọng của dân tộc. Nhưng đến kết thúc truyện, khi một lần nữa mùa lá rụng quay lại để chờ đợi Tết đến xuân về, không khí đón chào năm mới của gia đình nhỏ trầm hẳn đi sau những biến cố đã xảy ra. Dù “căn phòng vẫn được bày biện, trang trí y hệt năm ngoái. Hai góc phòng đặt hai chậu hoa cúc đại đoá” nhưng sau khi ông Bằng qua đời, Lý bỏ vào Sài Gòn, cái không khí của “buổi chiều ba mươi làm cơm cúng tất niên. Lý la hét, sai bảo Phượng và say mê chế tác các món ăn dành cho ba ngày tết và bữa ăn tối ba mươi sum họp cả gia đình lớn” giờ chỉ còn lại trong kí ức của Phượng. Chẳng ai có thể ngờ, chỉ trong thời gian một năm ngắn ngủi mà bao nhiêu biến cố hãi hùng đã xảy ra với gia đình nhỏ nơi đầu phố yên tĩnh này. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 4
Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” Không gian xã hội Sau năm 1975, khi đất nước giành lại độc lập sau cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài, nền văn học Việt Nam cũng bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Văn chương không còn là những tác phẩm mang hơi hướng sử thi, xoay quanh cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc nữa, mà thay vào đó văn học bắt đầu tập trung chú ý vào cuộc sống thường nhật của con người. Không gian nghệ thuật của các tác phẩm cũng vì vậy mà thoát khỏi bom đạn chiến tranh, quay về cuộc sống bình yên, hối hả khi đất nước đang nỗ lực mỗi ngày một phát triển. Ma Văn Kháng sau một khoảng thời gian dài gắn bó với vùng đất biên ải xa xôi, nay ông quay trở về với cuộc sống đô thị đầy nhộn nhịp. Cuộc sống ấy đi vào trang văn của ông với không gian phố thị cùng đủ loại người, đủ loại cung bậc cảm xúc; với không gian công việc tại các xí nghiệp nghiêm túc, cần mẫn, giản dị nhưng cũng ẩn giấu đầy những mâu thuẫn, lo toan,… Không gian phố thị Với bối cảnh xã hội Hà Nội trong những ngày tháng chật vật, bí bức thời hậu chiến nghèo nàn và chế độ bao cấp nghiêm ngặt, “Mùa lá rụng trong vườn” viết về cuộc sống thành thị với lắm điều phức tạp rối ren. Thành phố Hà Nội đương thời được miêu tả qua những nét chấm phá, qua lời kể, tả của các nhân vật trong truyện. Đó là một Hà Nội đông đúc, chật hẹp, là một Hà Nội “lộn xộn” trong mắt ông Bằng với những đứa trẻ “hư”, những xe những người đi ẩu vào giờ cao điểm. Những hàng quán ăn uống xa xỉ, phung phí, nơi mà “gánh hàng xuềnh xoàng đặt trên vỉa hè. Cạnh cái cống nước chảy sùng sục”, quan khách toàn là “các ông, bà, các cô cậu béo tốt, phây phây, môi nhờ bóng, quen ăn ngon mặc đẹp” chẳng để ý đến cảnh quan ngoại cảnh, “bâu quanh gánh hàng, ngồi trên ghế dài, ghế ngắn, ngồi cả trên hòn gạch, bệt trên vỉa hè và cả dưới lòng đường”. Nơi đó bày bán những bát bún sang” giá bằng gần nửa tháng lương của Phượng, thứ mà “còn lâu, còn lâu nữa, những người lao động bình thường như Phượng mới biết được những món ăn dành cho kẻ lắm tiền nhiều của như cái món bún mọc, tức bún giò sống này”. Đó là một thành phố “đã dần hình thành một lớp tư sản mới, phá phách, khuynh đảo xã hội” theo lời của Luận, là một nơi “đường thì hẹp mà người, xe lại quá nhiều. Nhất là ở cái ngã tư Luận vừa phải dừng lại đây: người, xe cứ xô lấn chen đẩy nhau, lấn chiếm mặt đường, bất kể một quy tắc tối thiểu, mà chẳng ai chịu đứng ra chỉ huy, xếp sắp lại”. Không chỉ vậy, nơi ấy còn có những người “rõ ràng là có biển báo đường một chiều mà ba tên mặc áo phông vàng in hình tây đầm ôm nhau vẫn cứ nghễu nghện bá vai nhau đạp xe ngược chiều”… Không còn bom đạn chiến tranh, cuộc sống hối hả của những ngày đổi mới khiến cho người ta bị cuốn theo nó, thay đổi để phù hợp với nó. Nhưng rõ ràng, không phải sự thay đổi nào cũng là điều tốt, vì trong không gian phố thị, ta bắt gặp những con người đang dần đánh mất những nét đẹp truyền thống của dân tộc, đánh mất các giá trị đạo đức xưa cũ. Ví như đứa trẻ suýt va vào ông Bằng mà còn quay lại quát: “Bố già về mổ gà ăn mừng đi nhé”, hay người lái xe bò mà Phượng bắt gặp khi tan tầm đã nhẫn tâm đánh đập “phương tiện di chuyển” của mình mà không hề nhìn thấy sự khổ sở của nó. Ở không gian phố thị ấy, dòng người hối hả ngược xuôi để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy ngẫm. Không gian công sở Không gian công sở hiện lên trong tác phẩm là không gian của “xí nghiệp in cỡ trung bình, nằm ở phía tây thành phố” nơi mà Phượng làm việc. Trong suy nghĩ của Phượng, đó là một nơi “cần mẫn, giản dị” nhưng cũng là “một thế giới của phụ nữ với bao chuyện hết sức pha tạp và vui vẻ”. Nơi ấy là nơi Phượng bị công việc thu hút, say mê mải miết với những nhiệm vụ được giao, là nơi đồng nghiệp vui vẻ ầm ĩ, khăng khăng đòi kéo Phượng tham dự vào “các trò chơi tuổi trẻ của các cô”. Đó cũng là nơi có những câu chuyện trời ơi đất hỡi, những chuyện có vẻ “ngồi lê đôi mách” được kể trong giờ hành chính, có những lời yêu cầu, những lúc căng thẳng với tính nết thất thường của bà trưởng phòng, những lúc các cô “tản ra để chia len đan thuê cho mậu dịch”… Không gian công sở còn là toà soạn báo, nơi Luận công tác. Toà soạn Luận làm việc không được miêu tả nhiều, nhưng ở đó, ta có thể thấy hình ảnh người “nhân viên thường trực đeo kính lão số 4” đang đều đặn “đánh máy thuê trong giờ hành chính và đánh bằng máy cơ quan”. Không chỉ vậy, toà soạn ấy còn là nơi diễn ra cuộc chuyện trò đầy tính triết lý giữa Luận và ông Tổng biên tập, khiến cho Luận nhận ra nhiều điều về những biến cố, những mặt khác nhau của vấn đề đang diễn ra quanh mình. Rõ ràng, qua việc miêu tả không gian công sở đương thời, ta có thể thấy được đời sống sau chiến tranh ở đất nước ta vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, đồng lương ít ỏi của công nhân viên chẳng thể đáp ứng được cho cuộc sống của họ. Không gian của công việc vẫn chưa thật sự nghiêm túc và hiệu quả vì họ còn phải tranh thủ kiếm thêm thu nhập từ những công việc khác như đan len, đánh chữ thuê,… để lo cho gia đình mình. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 3
Tóm tắt: Sau năm 1975, khi đất nước ta bước vào giai đoạn mới sau chiến tranh, sự chuyển dịch kinh tế, thay đổi cơ cấu thị trường theo hướng hiện đại hoá đã khiến các tác phẩm văn học có sự thay đổi nhất định. Không còn hướng ngòi bút theo khuynh hướng sử thi, chú ý tới các vấn đề chiến đấu của đất nước nữa, văn chương thời kì bấy giờ quay trở lại với những vấn đề thế sự, những vấn đề con người. Điều ấy được thể hiện rõ nét qua thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm văn học. Bài viết này đề cập tới không gian nghệ thuật – một phạm trù quan trọng để xây dựng thế giới nghệ thuật – trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của nhà văn Ma Văn Kháng để thấy rõ những đặc điểm thi pháp và những biến chuyển về nội dung tư tưởng sau năm 1975 được khắc hoạ trong tác phẩm. Mở đầu Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng việc tìm hiểu thi pháp học, là một chìa khoá giúp cho người đọc có thể hiểu được những quan niệm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Với Ma Văn Kháng, ông rất dụng công xây dựng không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của mình, qua đó truyền tải những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm của mình tới người đọc. “Mùa lá rụng trong vườn” chính là một tác phẩm được ông chú ý khắc hoạ không gian như thế. Nội dung Vài nét về không gian nghệ thuật Trong Từ điển thuật ngữ văn học, không gian nghệ thuật được định nghĩa là “Hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định. Qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quán tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, tiếp nối, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài, tạo thành viễn cảnh nghệ thuật”. Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian vật lý hay không gian địa lý. Không gian vật chất là không gian tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Không gian vật chất chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi được tác giả cảm nhận và miêu tả về nó. Như vậy, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Việc nghiên cứu không gian nghệ thuật có thể cho ta biết được tâm lý nhân vật, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người, đồng thời thể hiện quan niệm về thế giới của người nghệ sĩ. Về tác giả Ma Văn Kháng và tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” Ma Văn Kháng là một trong những cây bút xuất sắc có nhiều đóng góp quan trọng trong việc cách tân văn xuôi đương đại Việt Nam. Trước thập kỉ 80, văn chương của Ma Văn Kháng mang hơi hướng sử thi hoà cùng không khí đấu tranh sôi nổi của đất nước. Nhưng khi đất nước bước sang một trang sử mới ông lại hướng ngòi bút của mình đến những vấn đề thế sự, hướng tới con người cá nhân trong cuộc sống thường nhật. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm của ông không còn đơn tuyến mà đa tuyến, nhiều chiều, ông quan tâm đến con người trong nhiều quan hệ, hoàn cảnh khác nhau và cố gắng thể hiện con người một cách đầy đủ nhất trong tính đa dạng và toàn vẹn như nó vốn có. “Mùa lá rụng trong vườn” là một tiểu thuyết của tác giả Ma Văn Kháng. Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, cuốn tiểu thuyết phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời kì bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình – một tế bào của xã hội. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh gia đình ông Bằng. Ông Bằng có năm viên ngọc quý, anh cả Tường đã hy sinh ngoài mặt trận, vợ anh là Hoài đã tái giá nhưng vẫn thường xuyên viết thư thăm hỏi gia đình. Người con thứ hai là Đông, một trung tá đã xuất ngũ, sống cuộc sống đơn giản với Lý – một người con dâu đảm đang, nhanh nhẹn, tháo vát. Luận là con trai thứ ba, một nhà báo có nhiều trăn trở và suy tư về cuộc sống, vợ anh là Phượng, một người tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Trái ngược với các anh chị em, người con thứ tư – Cừ - lại là một mầm mống hư hỏng, không nghe lời cha mẹ, đã từng bị đuổi khỏi quân đội và bỏ ra nước ngoài. Cuối cùng là em út Cần đang đi học ở Liên Xô, sắp về nước. Câu chuyện về gia đình ông Bằng diễn ra trong trọn vẹn một năm, thế nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, có rất nhiều biến cố đã xảy ra với gia đình ông. Đầu tiên là chuyện Cừ trốn ra nước ngoài rồi tự tử, vợ Cừ bị nông trường sa thải khiến ba mẹ con phải dắt díu nhau lên Hà Nội nương nhờ nhà ông Bằng. Nhận cú sốc ấy, bệnh cao huyết áp của ông Bằng tái phát phải nhập viện, rồi qua đời. Chuyện của Cừ chưa nguôi ngoai thì bi kịch khác lại ập đến. Lý cảm thấy mệt mỏi chán chường khi sống cùng Đông, chị bị ông trưởng phòng vật tư ở cơ quan dụ dỗ. Vốn là người ít học, lại nhiễm lối sống thị thành xô bồ, Lý đi lạc hướng. Chị bỏ chồng, theo ông ta vào Sài Gòn ở hẳn. Chỉ tới lúc đã đi khỏi nhà, chị mới nhận ra những suy nghĩ sai lầm của mình, viết thư tỏ ý muốn quay lại. Câu chuyện kết thúc vào một đêm giáp Tết, khi mọi người đọc thư của Lý. Nhìn chung, trong tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn”, nhà văn Ma Văn Kháng đã đặt ra những vấn đề hết sức thiết thực và cấp thiết trong xã hội đương thời. Tác phẩm là bức tranh hiện thực cuộc sống được tác giả khắc hoạ một cách rõ nét, mọi sự kiện, mọi vấn đề, mọi sự bề bộn phức tạp được tác giả đặt ra đều chất chứa những hiện tượng xã hội đáng được quan tâm thời kì bấy giờ. Dưới ngòi bút của tác giả, khi đến với cuốn tiểu thuyết này, người đọc như thực sự được sống, được trải nghiệm đất nước Việt Nam những năm đầu thời kì đổi mới. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Mùa lá rụng trong vườn phần 2
Không gian bên trong và bên ngoài Không gian nghệ thuật trong thơ trữ tình của Puskin còn bao chứa trong nó là sự đối lập giữa không gian bên ngoài và không gian bên trong. Đặc trưng tiêu biểu nhất vẫn là tâm lý nhân vật được giải phóng với nỗi buồn và sự vượt thoát. Ngay ở khổ thơ mở đầu, nỗi buồn và tâm trạng cô đơn của nhân vật được khai phóng trực tiếp qua những hình ảnh thiên nhiên dữ dội, to lớn “làn sương” và “mảnh trăng” trong không gian mênh mông không kém “lai láng” với “giăng xa” cùng với những động từ mạnh như “xuyên” và “chiếu”. “Xuyên những làn sương gợn sóng Mảnh trăn g mờ ảo chiếu qua Buồn dải ánh vang lai láng Trên cánh đồng buồn giăng xa” Ấy vậy mà, trong không gian rộng lớn, lạnh lẽo ấy lại chỉ có một con người cô độc và lẻ loi, đang tự gặm nhấm lấy chính nỗi buồn của mình – nỗi buồn ấy trải rộng ra khắp mọi triền không gian còn con người như cố gắng thu bé tất cả sự tồn tại của mình. Thiên nhiên rộng lớn của mùa đông nước Nga nuốt chửng con người – một con người thấu cảm toàn bộ nỗi đau, nỗi buồn, cô đơn và tuyệt vọng của chính mình. Sự đối lập bên trong và bên ngoài rõ rệt hơn nhiều khi không gian ngày càng to lớn, nỗi buồn lo cô đơn lại càng rộng nhưng lại chẳng bao chứa nỗi buồn của một con người cô độc với nỗi buồn cô lẻ. Nhưng nổi bật lên trong thi pháp đối cực của Puskin lại chẳng phải là nỗi buồn mà phải là một “nỗi buồn sáng trong. Nỗi buồn của Puskin nhuốm đẫm vào cảnh vật, mở rộng theo chiều kích của không gian: “Trên con đường mùa đông vắng vẻ Cỗ xe tam mã băng đi Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ Đều đều khắc khoải lòng quê” Sự xuất hiện của con đường ngay lập tức đi cùng với nỗi buồn, đó là sự “vắng vẻ” và “mùa đông”. Hình ảnh con đường xuất hiện làm người đọc liên tưởng đến sự giải thoát nhưng dường như vì nằm tron g không gian mênh mông của nỗi buồn nên con đường ở đây không còn ý nghĩa như ban đầu. Ta biết rằng con đường được đặt trong bối cảnh không gian thời gian u buồn vào màn đêm vắng lặng trong mùa đông lạnh lẽo, nó chạy qua cánh đồng mênh mông không một ánh lửa mái lều, nghĩa là cuộc hành trình ấy của con người ấy không có điểm dừng nghỉ ngơi, không có hơi ấm con người mà chỉ có một cỗ xe tam mã băng băng đi về phía trước, “xe vun vút lao đi”. Hình ảnh cỗ xe tam mã (loại xe nhỏ, có 1-2 người ngồi, do Puskin phác họa nên) đi nhanh như “băng” trên mặt đất đã thể hiện cho ý chí vượt lên hoàn cảnh. Hình ảnh cỗ xe tam mã ã trở thành biểu tượng cho sự vận động bay lên của văn học Nga. Nhưng tất cả chỉ góp phần tạo nên một không gian buồn bã mênh mông mà không có điểm dừng. Trong không gian vắng vẻ đìu hiu, nhân vật trữ tình luôn mơ về một mái ấm, nơi xuất hiện ánh lửa ấm nồng. Thế nhưng chỉ có những “cột cây số” hữu tình mà vô cảm đang ngược chiều, chạy tới, không gian đã trải rộng lại càng rộng thêm ra. Tác giả lấy những cái hư vô của ngoại cảnh để nói những cái hữu hình trong tâm tưởng nhân vật. Các cặp đối lập giữa ấm cúng trong tâm tưởng với sự lạnh lẽo và sự thật ở bên ngoài càng làm khắc sâu hơn tâm trạng xuyên suốt bài thơ của nhân vật. Ta thấy con đường xuất hiện với sự cô đơn trong khung cảnh lạnh lẽo tô đậm nỗi buồn của nhân vật nhưng đồng thời hình tượng con đường ấy còn là biểu trưng cho sự vận động hướng về phía trước, và nỗi buồn vì thế mà trở thành sáng trong. Khổ thơ thứ tư với vị trí bản lề đã tạo nên bước chuyển quan trọng trong tâm tưởng nhân vật, đó là dù bị bủa vây bởi không gian nhưng tâm trạng của nhân vật đã được tách ra để thấy được những khắc khoải trong lòng. Kết luận Có thể thấy rằng không gian trong tác phẩm “Con đường mùa đông” không chỉ làm nền cho bối cảnh của thơ mà nó trở thành đối tượng nhận thức khám phá, phản ánh của Puskin. Một không gian quen thuộc đặt trong dòng chảy của thời gian lặp, có tác động lớn tới hình tượng nhân vật, một không gian với đầy những xung đột bên trong, bên ngoài … Đặc biệt hơn, tác giả còn dẫn dắt người đọc đi sâu khám phá bản chất bên trong của con người thông qua các kiểu không gian để khơi ra trong đó những tồn tại, hạn chế mà không phải lúc nào chúng ta cũng đủ tỉnh táo và bản lĩnh để thấu suốt. Cả một thi phẩm khắc họa đầy đủ trong nó tất cả những đối cực trong đặc trưng cao nhất của thi pháp văn học nói chung và nền văn học Nga nói riêng - bản chất của chúng không nhằm để khắc họa một không gian thực mang theo tính chất vật lý hay địa lý; để nhấn mạnh hay ẩn dụ về nỗi buồn con người mà qua đó làm nổi bật lên sự vượt thoát không gian, vượt ra khỏi những gì tẻ nhạt, buồn chán Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 1
Không gian hiện tại và tương lai Pushkin thường xây dựng trong thơ trữ tình của mình hai không gian tráo đổi lẫn nhau giữa hiện tại, tức không gian nỗi buồn mà nhân vật trữ tình đang tồn tại và tương lai, tượng trưng cho không gian thoát khỏi nỗi buồn mà nhân vật trữ tình tưởng tượng ra. Việc xây dựng hai thời điểm của không gian như vậy gắn với quan niệm nhân sinh của Pushkin về quy luật vận động của đời sống cũng là quy luật vận động của tâm thức con người, nhân vật trữ tình nhận thức được rằng nỗi buồn đang trải qua ở hiện tại là nhất thời và giữ vòng xoay không ngừng của đời sống, nỗi buồn rồi sẽ qua đi và niềm vui, hạnh phúc sẽ tới. Quan niệm về sự vận động luân hồi của cuộc sống trở thành một trong những điểm tựa tinh thần quan trong giúp nhân vật “tôi" tự tin bước đi trong nỗi buồn thực tại. Về cách thức tổ chức, Pushkin chủ đích để nhân vật trữ tình thoát khỏi khổ đau ở hiện tại trong phút chốc bằng một điểm nhìn về tương lai thế nhưng đó không phải kiểu thoát ly như tuyên ngôn của các nhà lãng mạn chủ nghĩa. mà nhân vật trữ tình của ông cuối cùng vẫn trở về thực tại với một niềm tin vững chắc và ý chí sống mãnh liệt hơn, không còn sợ nỗi buồn nữa và như vậy nỗi buồn trở thành “nỗi buồn sáng trong". Nghệ thuật tổ chức không gian và thời gian tâm tưởng như vậy cũng thể hiện rất rõ sự dụng công khéo léo của Pushkin khi ông để nhân vật trữ tình vượt thoát khỏi không gian khổ đau để đến với không gian hạnh phúc rồi lại soi chiếu vào không gian cũ để thấy nỗi buồn không đáng sợ nữa mà tiếp tục bước đi, hướng về phía trước. Sự luân chuyển giữa hai không gian hiện tại và tương lai được khắc họa rõ thông qua tác phẩm “Con đường mùa đông". Tại đây, nhân vật trữ tình tồn tại trong một không gian hiện tại với nỗi buồn và sự cô đơn. Con đườn g được đặt trong bối cảnh không gian và thời gian buồn vào ban đêm vắng lặng trong mùa đông lạnh lẽo, nó chạy qua cánh đồng mênh mông không một ánh lửa hay mái lều, nghĩa là cuộc hành trình của con người ấy chẳng có điểm dừng nghỉ ngơi, không có hơi ấm con người mà chỉ có độc một cỗ xe tam mã băng đi về phía trước, “xe vun vút lao đi”. “Xuyên những làn sương gợn sóng Mảnh trăn g mờ ảo chiếu qua, Buồn rải ánh vàn g lai láng Lên cánh đồng buồn giăng xa. Trên đường mùa đông vắng vẻ Cỗ xe tam mã băng đi Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ Đều đều khắc khoải lòng quê. Bài ca của người xà ích Có gì phảng phất thân yêu: Như niềm vui mừng khôn xiết, Như nỗi buồn nặng đìu hiu. Không một mái lều, ánh lửa… Tuyết trắng và rừng bao la… Chỉ những cột dài cây số Bên đường sừng sững chào ta. Ôi buồn đau, ôi cô lẻ…” Bỗng chốc, không gian của nhân vật trữ tình thoát khỏi khung cảnh của nỗi buồn để vượt thoát đến một không gian tương lai “Ngày mai", nơi mà nhân vật được sống gần ên “em" với “lò lửa đỏ" và những vòng xoay nhịp nhàng sẽ “xua lũ người tẻ ngắt". Đây là không gian tâm tưởng của Pushkin xuất phát từ ý thức quy luật vận động của cuộc sống, niềm tin vào một “ngày mai" không còn khổ đau và “cỗ xe tam mã" sẽ đến được điểm cuối của con đường, nơi chỉ còn đọng lại niềm vui và hạnh phúc. “Trở về với em ngày mai Nhina, bên lò lửa đỏ Ngắm em, ngắm mãi không thôi. Kim đồng hồ kêu tích tắc Xoay đủ những vòng nhịp nhàng, Và xua lũ người tẻ ngắt Để ta bên nhau trong đêm.” Kết thúc không gian “ngày mai" với niềm hạnh phúc đong đầy, nhân vật trữ tình trở lại với không gian thực tại, nơi vẫn còn nỗi buồn tẻ nhạt và sự cô đơn bao trùm thế nhưng với một tâm thế khác, một tâm trạng vững vàng không còn sợ nỗi khổ đau. Với niềm tin vào “ngày mai" và Nhina- nhân vật đến từ tương lai hiện lên trong tâm thức nhân vật ở thực tại như một đức tin và sức mạnh giúp người tự tin hơn trên “con đường mùa đông" của chính mình. “Sầu lắm, Nhina, đường xa vắng, Ngủ quên bác xà ích lặng im Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm, Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng.” Trở lại với không gian của thực tại, nỗi buồn của nhân vật vẫn còn nhưng đã được “sáng trong" hoá bởi nhân vật không còn sợ hãi trước nỗi buồn mà đã vững tin bước qua nó, chấp nhận nỗi buồn như một quy luật tất yếu trong vòng quay cuộc sống. Đến đây, tư tưởng về nỗi buồn của Pushkin mới thực sự sáng rõ, nỗi buồn tồn tại trong con người như một tất yếu, khổ đau không đáng sợ mà chính nỗi sợ khổ đau mới là thứ tồn tại như màn đêm lạnh lẽo sẽ nuốt chửng con người. “Nỗi buồn sáng trong" từ đây được nảy sinh trong thơ trữ tình Pushkin như một điểm sáng, thể hiện một tuyên ngôn sống vững chãi và lạc quan: tâm thế con người mang nhiều khổ đau nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt và vượt thoát khỏi nỗi buồn. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 4
Thi pháp không gian trong thơ trữ tình Pushkin Không gian của các đối cực Bàn về thơ trữ tình Pushkin, ta không thể bỏ qua nghệ thuật phân cực trong kết cấu không gian của ông. Nét đặc trưng này bắt nguồn từ truyền thống văn hoá dân tộc Nga, người dân Nga thường có xu hướng kết hợp các đối cực khó kết hợp trong cùng một chỉnh thể nghệ thuật. Đối với Pushkin, việc xây dựng nên kết cấu phân cực trong sáng tác là một sự tiếp nối nhưng cũng đồng thời là một bước tiến mới trong truyền thống văn học Nga, thể hiện cách nhìn, cách cảm độc đáo về cuộc đời và con người. Pushkin xây dựng một kết cấu phân mảnh như chính sự giằng xé, mâu thuẫn bên trong của nhân vật nhưng bản thân nhà thơ lại luôn có ý thức rất rõ về sự hài hoà. Bởi vậy, đọc thơ Pushkin, người đọc có thể nhận ra sự phân cực tồn tại xuyên suốt trong từng khổ thơ và thậm chí là trong cùng một câu thơ, đó là sự phân mảnh của hai đối cực như giằng xé nhưng lại như đan vào nhau. Nhân vật trữ tình trong thơ Pushkin được khắc họa ban đầu trong ấn tượng về sự giằng xé nội tâm, mâu thuẫn giữa các đối cực, Pushkin để cho hai đối cực mâu thuẫn cùng lúc tồn tại và tăng tiến hết mức rồi bất ngờ chúng gặp nhau tại một điểm giữa nào đó trong không gian và chính tạo đây, ấn tượng nghệ thuật về sự hài hoà được khắc họa sâu sắc. Sự phân mảnh không gian trong thơ Pushkin thường gắn với hai đối cực của nỗi buồn và nỗ lực vận động vượt thoát khỏi nỗi buồn. Trong khi không gian nỗi buồn thường là không gian tĩnh tại của bóng tối và lạnh giá hay nỗi cô đơn thì không gian vượt thoát khỏi nỗi buồn lại là một chiều kích động, là nơi mà nhân vật trữ tình không ngừng nỗ lực vượt thoát khỏi bóng tối và cái lạnh giá. Kết cấu không gian phân cực xuyên suốt tác phẩm “Con đường mùa đông", thể hiện sự đối chọi giữa nỗi buồn và ý thức vượt thoát khỏi nỗi buồn. Hai đối cực đó tồn tại trong mọi khung cảnh, trong mọi sự vật của bức tranh mùa đông. Đối cực của nỗi buồn là những sự vật tĩnh tại, buồn tẻ trái lại với đối cực vượt thoát nỗi buồn, nơi những cảnh vật dường như muốn bung ra, muốn vượt thoát khỏi màn đêm và sự lạnh giá: “Trên con đường mùa đông, buồn tẻ Xe tam mã lao đi, Lục lạc đơn điệu Mệt mỏi rung lên.” Trong cùng một khung cảnh mùa đông, hai đối cực hiện lên giữa một bên là con đường “buồn tẻ" với một bên là cỗ xe tam mã “lao đi". Trên cái nền của nỗi buồn lại hiện lên hình ảnh lao đi của cỗ xe tam mã biểu trưng cho sự vượt thoát khỏi nỗi buồn. Trên cỗ xe đó, tiếng chuông lục lạc ngân lên “đơn điệu" nhưng vẫn kiên trì rung lên mãi, dù mệt mỏi nhưng con người vẫn lặng lẽ bước đi và cỗ xe vẫn đơn độc di chuyển. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 3
Đặt vấn đề Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học là “hình thức tồn tại của chủ quan hình tượng”. Mọi nhân vật, sự kiện, chi tiết… trong tác phẩm đều tồn tại trong không gian, vì thế không gian nghệ thuật có vai trò quan trọng “chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hiện tượng nghệ thuật” [5, tr.110]. Vấn đề không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học ngày càng được quan tâm hơn vì nó có ý nghĩa riêng, đời sống riêng không phụ thuộc vào nhân vật, cốt truyện. Nghiên cứu,, tìm hiểu rõ về không gian nghệ thuật là sẽ chìa khóa hữu ích giúp cho người đọc có thể cắt nghĩa được những quan niệm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm Puskin – mặt trời vĩ đại của thi ca Nga. Tác phẩm của ông không chỉ hấp dẫn về nội dung mà nghệ thuật cũng đạt tới độ tinh xảo. Có thể nói : ở Puskin người ta tìm thấy tâm hồn Nga đẹp đẽ nhất, con người Nga hoàn chỉnh nhất. Đặc sắc trong phong cách nghệ thuật nổi bất nhất của Puskin chính là sự hài hòa về nghệ thuật và nội dung, đó là sự hài hòa của một chỉnh thể động. Nhà phê bình Belinsky từng nhận định: “trong thơ của Puskin bao giờ cũng có bầu trời nhưng bầu trời đó lúc nào cũng hòa với mặt đất…” “Con đường mùa đông ” là bài thơ được ra đời trong những ngày tháng nhà thơ bị đi đày ở miền Bắc xa xôi.Tâm trạng bao trùm lên cả bài thơ là nỗi buồn - một nỗi buồn nặng trĩu. Sự hấp dẫn của bài thơ không dừng lại ở nội dung mà tác giả truyền tải mà nó còn cuốn hút độc giả bởi không gian nghệ thuật trong việc bộc lộ cảm xúc của nhân vật chữ tình. Việc vận dụng thi pháp học để giải mã bài văn qua không gian nghệ thuật sẽ giúp ta có cái nhìn bao quát trong việc hiểu được tâm lí nhân vật, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người, đồng thời thể hiện quan niệm về thế giới của người nghệ sĩ. Nội dung Khái quát về không gian nghệ thuậ t Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng việc tìm hiểu thi pháp học. Đây là một chìa khóa giúp cho người đọc có thể hiểu được những quan niệm, tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Vậy trước hết, chúng ta cần hiểu được rõ thế nào là “không gian nghệ thuật”. Có thể thấy rõ rằng, không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian vật lý hay không gian địa lý. Không gian vật chất là không gian tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Không gian vật chất chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi được tác giả cảm nhận và miêu tả về nó. Như vậy, “không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Việc nghiên cứu không gian nghệ thuật có thể cho ta biết được tâm lý nhân vật, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người, đồng thời thể hiện quan niệm về thế giới của người nghệ sĩ”. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong Con đường mùa đông phần 2
Chi tiết Sự kiện, tình huống trong truyện ngắn không nhiều bởi vậy các chi tiết cũng chỉ xoay quanh làm nổi bật nội dung, chủ đề mà tác phẩm đang muốn đề cập tới. Tác phẩm là tiếng nói cảm thông, thương cảm những người mẹ Việt Nam anh hùng cô đọc có những người con hi sinh trong cuộc chiến tranh khốc liệt, đồng thời là tiếng nói tố cáo chiến tranh, phê phán lối sống ích kỷ, vô ơn của những người Việt Nam thuộc tầng lớp thượng lưu hiện đại. Tác phẩm được đặt tên là Mây trắng còn bay, chi tiết “mây trắng” cũng vì thế xuất hiện đến năm lần trong suốt câu chuyện. Trong lời nói hiếu kỳ của bà cụ về những đám mây hay những câu miêu tả máy bay qua những đám mây của nhân vật tôi. Đám mây trắng trôi bồng bềnh gợi sự nhẹ nhàng, thanh thản như tâm trạng của con người đối với quá khứ. Bà cụ đã thực hiện được ước nguyện đến nơi con trai hi sinh, nhân vật tôi sau khi chứng kiến hành động của bà cụ cũng hóa giải được phần nào tâm trạng trong lòng. Những đám mây trên trời vẫn tiếp tục bay không ngừng nghỉ mang ý niệm về sự chảy trôi của cuộc đời, quá khứ qua đi con người vẫn phải vượt qua nó và tiếp tục sống hướng về phía trước. Một chi tiết đắt giá khác được đặt trong tác phẩm là hành động “xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh” của nhân vật tôi. Nhân vật này từ đầu chỉ đứng ở góc độ quan sát, nhưng đến cuối tác phẩm mới có hành động trực tiếp tham gia vào câu chuyện. Hành động ấy tưởng chừng như rất nhỏ nhưng đã khẳng định được lòng cảm thông, trân quý những bà mẹ Việt Nam anh hùng có con hi sinh trong chiến trận và lòng biết ơn công lao những người lính của tác giả. Cả chi tiết “người phi công trong ảnh còn rất trẻ” cũng gợi lên sự tàn khốc của chiến tranh. Chiến tranh không chỉ cướp đi sự tự do của dân tộc, sự đoàn tụ của mỗi gia đình mà còn cướp đi tuổi thanh xuân của nhiều chiến sĩ trẻ tuổi. Họ còn có cả một tương lai ở phía trước nhưng đã tình nguyện hiến dâng mình cho Tổ quốc. Họ mất đi để lại công lao to lớn cho đất nước nhưng cũng để lại sự mất mát không thể nào lấp đầy trong gia đình của mình. Ngôn ngữ và giọng điệu Chiến tranh qua đi, các tác phẩm truyện sau năm 1975 bắt đầu hướng tới cảm hứng thế sự đời thường. Bởi vậy, ngôn ngữ và giọng điệu hết sức đa dạng, vừa có sự bình dị, gần gũi vừa có sự suy tư, sâu lắng. Văn bản sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại với ngôn từ bình dị. Chẳng hạn như trong lời nói của bà cụ xuất hiện nhiều các từ hô ứng “các bác kìa”, “bác nhỉ”, “thưa các bác” hay việc bà cụ ví mây “y thể cây lá ngoài vườn”. Cả trong câu “Thảo nào hai lượt tàu bay những triệu bạc”. Không những thế, trong lời đối thoại với cô tiếp viên, bà cụ còn xưng hô nhân vật này là “con”: “Sắp đến sông Bến Hải chưa con?”, “Lát qua đấy con bật dùm già cái cửa tròn này con nhé”. Phải nói rằng, việc bà cụ sử dụng các từ ngữ này trong lời nói đã thể hiện được bà cụ là người nông dân hiền lành, chất phác, thật thà, cởi mở. Giọng điệu chủ yếu của tác phẩm là giọng điệu triết lý, suy ngẫm. Nó hòa vào với dòng suy tư của nhân vật tôi để thể hiện những vấn đề hiện thực của cuộc sống. Đi theo trình tự tuyến tính của tác phẩm dưới điểm nhìn của nhân vật tôi. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy giọng điệu buồn, nhiều suy tư của nhân vật tôi từ đầu chuyến bay. Nhân vật này cũng là một người vừa trải qua chiến tranh mang nhiều tâm tư. Trước cảnh tượng bà cụ bày mâm giỗ con trai trên chuyến bay, khiến cho nhân vật tôi xúc động đến lặng người. Cảnh tượng ấy đã khiến cho nhân vật này dường như quên đi mọi mệt nhọc suốt chuyến bay mà suy ngẫm về những đau thương mà chiến tranh để lại và hi vọng vào một tương lai hòa bình, ấm no. Quả thật niềm hạnh phúc chiến thắng với nỗi đau mất mát trong lòng người không dễ dàng tách bạch. Kết luận Mỗi thể loại văn học sẽ có một đặc trưng riêng, mang đến cho người tiếp nhận những cảm nhận riêng khi đọc tác phẩm. Khi soi xét tác phẩm của Bảo Ninh từ góc độ thi pháp thể loại, ta sẽ cảm nhận được những nét đặc sắc về phong cách và phương diện nghệ thuật làm nên thành công truyện ngắn của nhà văn. Có thể nói, từ những đặc trưng nghệ thuật trên ta có thể khẳng định phong cách, tài năng của Bảo Ninh khó trộn lẫn được với một nhà văn nào. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 1
Nhân vật – điểm nhìn Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn không đồ sộ như tiểu thuyết, tính cách của nhân vật cũng không được thể hiện thông qua đối thoại như kịch. Nhân vật trong truyện ngắn được đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, được xây dựng theo nguyên tắc điển hình hóa. Ở Mây trắng còn bay, văn bản có bốn nhân vật gồm: bà cụ, tay vận complet, cô tiếp viên hàng không và nhân vật “tôi”. Trong đó, hai nhân vật được tác giả chú trọng miêu tả là bà cụ và tay vận complet. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là bà cụ, những tư tưởng nghệ thuật, tình huống truyện đều được tác giả gửi gắm thể hiện qua nhân vật này. Bên cạnh đó, nhân vật trong tác phẩm đều không có tên cụ thể mà chỉ được gọi tên bằng đặc điểm. Cách xây dựng nhân vật không có tên riêng là dụng ý riêng của nhà văn, ông muốn mượn những nhân vật này để nói bao quát toàn bộ tầng lớp xã hội hiện đại Việt Nam sau năm 1975. Bà cụ đại diện cho những người mẹ anh hùng cô độc, tay vận complet đại diện cho tầng lớp thượng lưu sống hưởng thụ không biết ơn quá khứ. Nhân vật “bà cụ” chỉ một bà cụ già yếu, lần đầu được đi máy bay với ngoại hình “bé nhỏ, teo tóp” như “chìm lấp vào thân ghế”, “lưng còng” và hai bàn tay “gầy guộc” khắc họa rõ nét vẻ ngoài lam lũ, khắc khổ, nhọc nhằn của người mẹ Việt Nam thời xưa. Tính cách của nhân vật được thể hiện qua từng hành động, từ việc không muốn nhận khay đồ ăn, dồn hết đồ ăn trên khay vào chiếc làn mây, chẳng ăn gì chỉ uống một chút nước lọc. Đến lời nói chủ yếu là các từ ngữ đưa đẩy như “các bác kìa, bác nhỉ, thưa các bác…” hay ví đám mây như cây lá ngoài vườn. Bà cụ đại diện cho một tầng lớp nông dân xưa với tính cách cởi mở, chắt chiu, tiết kiệm. Nhưng qua đó cũng thể hiện một mảnh đời cơ cực, vất vả. Lần đầu tiên được lên máy bay, không dám ăn đồ trên máy bay vì sợ tốn tiền, hồn nhiên hỏi cô tiếp viên mở cửa sổ cho thoáng. Sau ba chục năm con trai hi sinh, cụ mới có cơ hội được đi đến nơi con ra đi, bày biện ban thờ nhỏ ngay trên máy bay chật hẹp. Chứng kiến cảnh bà cụ sợ sệt, van xin tay vận complet ta càng cảm thấy xót xa, thương cảm cho số phận những người mẹ Việt Nam anh hùng sau chiến tranh. Đối lập với bà cụ là “tay vận complet”, người đọc có thể ngay lập tức cảm nhận được sự sang trọng của nhân vật này qua bộ complet mà hắn mặc. Nghe bà cụ hỏi hết câu này đến câu khác, hắn không đáp lại mà cứ bày ra vẻ “quàu quạu”, thơ ơ khó chịu với từng câu hỏi của bà cụ. Hắn còn thản nhiên châm điếu thuốc ngay trên máy bay trước biển báo cấm hút thuốc, quát nạt bà cụ khi thấy bà bày ban thờ ra, rồi cả việc “sang trọng đứng dậy” mắng cô tiếp viên, sau đó “gần như bước xéo lên đùi tôi, xấn ra lối đi”. Tất cả những hành động đó của nhân vật này đều thể hiện hắn là một kẻ độc đoán, ích kỷ, bất lịch sự đối lập hoàn toàn với diện mạo sang trọng bên ngoài. Nhân vật này cũng không có tên gọi cụ thể, hắn đại diện cho một tầng lớp thượng lưu hiện đại, không coi trọng quá khứ mà chỉ quan tâm đến hiện tại và bản thân mình. Câu chuyện được kể bằng ngôi thứ nhất, qua điểm nhìn của nhân vật “tôi” một hành khách trên chuyến bay đó và ngồi cạnh bà cụ. Với điểm nhìn này, câu chuyện sẽ thêm phần khách quan, tăng tính xác thực và chân thật, bên cạnh đó còn có thể thay tác giả bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ. Câu chuyện chuyển sang góc nhìn đa chiều khi bà cụ bày ra đồ cúng con mình trên máy bay: cái nhìn cảm thông, đồng cảm của nhân vật tôi, cô tiếp viên và cái nhìn khinh miệt của tay vận áo complet. Mỗi nhân vật sẽ có một điểm nhìn, các đánh giá khác nhau tùy thuộc vào suy nghĩ của nhân vật đó. Bằng việc xây dựng sự đối lập về góc nhìn, suy nghĩ của mỗi nhân vật trước hành động của bà cụ, sự khác biệt giữa bà cụ và tay vận complet. Nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc thông điệp: bên cạnh những người nâng niu, trân trọng quá khứ, biết ơn những chiến sĩ hi sinh vì Tổ quốc thì có những người sống vô tình, quên đi sự hi sinh của bao thế hệ trẻ vì đất nước. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 4
Cốt truyện - kết cấu Văn bản được viết bằng thể loại truyện ngắn, một hình thức tự sự cỡ nhỏ. Câu chuyện được đề cập đến trong truyện ngắn chỉ là một lát cắt nhỏ của đời sống nhưng vẫn mang ý nghĩa sâu sắc. Truyện ngắn Mây trắng còn bay là câu chuyện nhân vật “tôi” kể về sự kiện diễn ra trong chuyến bay của mình. Tình huống đẩy câu chuyện lên cao trào là việc bà cụ mang đồ cúng bày ra ban thờ nhỏ ngay trên máy bay. Một tình huống bất ngờ không có dự báo trước. Câu chuyện được lấy bối cảnh trong khoang máy bay nhỏ và được kể theo trình tự tuyến tính từ khi máy bay cất cánh, cho đến giữa chuyến bay. Bắt đầu bằng việc chuyến bay cất cánh trong tình trạng thời tiết xấu, nhân vật “tôi” dường như mang một tâm trạng buồn, hối hận vì đã lên chuyến bay trong thời tiết xấu. Suốt từ đầu, câu chuyện mang một nét buồn, u sầu, ảm đạm trong một không gian chật hẹp. Mọi thứ diễn ra chậm rãi, im lặng duy chỉ có bà cụ ngồi cùng hàng ghế của nhân vật “tôi” đã phá tan đi sự im ắng ấy. Tiếng nạt khẽ của tay vận complet đã “đánh thức” câu chuyện, kéo nhân vật “tôi” ra khỏi dòng suy nghĩ miên man, u uất. Bà cụ bày ra một bàn thờ nhỏ ngay trên máy bay khiến ai cũng phải bất ngờ nhưng chỉ khi mọi người thấy tấm ảnh một thanh niên trẻ được cắt ra từ tờ báo cũ được dựng trên ban thờ ấy, nhân vật tôi cùng cô tiếp viên hàng không chỉ im lặng. Hóa ra cụ muốn thắp hương tưởng nhớ đứa con trai ở ngay nơi anh đã hi sinh vào ba mươi năm trước. Ai cũng biết hành động của bà cụ là trái với quy định an toàn bay. Nhưng cô tiếp viên lại im lặng, chẳng hề can ngăn bà cụ làm điều đó. Sự im lặng ấy đã nói lên được nhiều điều, đó là sự cảm thông, xúc động với một thế hệ thanh niên trẻ đã xả thân vì nền độc lập của Tổ quốc. Đến đây, câu chuyện kết thúc, nó kết thúc bằng sự lặng im của các nhân vật trong khung cảnh “đại dương khí quyển ngời sáng”. Lúc trước tiết trời mưa bão còn khiến những đám mây xám xịt, bầu trời u tối thì giờ đây bầu trời lại sáng hơn như mở ra một cánh cửa mới bên trong tâm hồn nhân vật tôi. Ánh sáng của bầu trời thể hiện một tương lai sáng ngời, cho dù chiến tranh qua đi đã để lại nhều mất mát nhưng nhà văn vẫn muốn gửi gắm tinh thần lạc quan, hi vọng về tương lai đất nước, muốn người đọc hiểu và trân trọng sự hi sinh của những chiến sĩ phi công bảo vệ vùng trời của Tổ quốc. Đọc tiếp: Mây trắng cò bay nhìn từ góc độ thi pháp thể loại phần 3