Tóm tắt: Soi chiếu truyện ngắn dưới lăng kính thể loại giúp làm nổi bật những đặc trưng về kết cấu, ngôn từ, không gian – thời gian và nhân vật trong tác phẩm. Từ những phương diện của truyện kể, tác phẩm Muối của rừng là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Huy Thiệp khi ông luôn đề cập tới những vấn đề mang tính thời sự chỉ thông qua một khoảnh khắc trong cuộc sống. Mở đầu Xem xét một tác phẩm văn học dưới góc nhìn thi pháp học thể loại là một phạm vi được nghiên cứu tương đối phổ biến và giúp tạo ra một cách thức mới trong việc tiếp cận văn học. Với phương thức tiếp cận này, các tác phẩm được soi chiếu một cách toàn diện và tập trung vào những đặc trưng thể loại, từ đó thấy được giá trị bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Truyện ngắn Muối của rừng được coi là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Huy Thiệp, tuy nhiên, mới chỉ được khai thác chủ yếu qua sự liên hệ với sinh thái học. Ở trong bài viết này, truyện Muối của rừng được khai thác chủ yếu thông qua các đặc trưng của thể loại như kết cấu đối lập, ngôn ngữ và giọng điệu linh hoạt, không – thời gian giới hạn và nhân vật mang tính chất tiêu biểu. Từ đó, truyện được khám phá một cách có hệ thống, giúp tác phẩm được nhìn nhận một cách sâu sắc hơn. Đọc tiếp: Muối của rừng dưới góc độ thi pháp thể loại truyện ngắn phần 2
Kết luận: Giọng kể của Higashino Keigo có sự hài hước, chân thành, giản dị song vẫn gay cấn, khéo léo kết nối không gian và thời gian trong câu chuyện thành một trật tự đầy logic, không làm người đọc cảm thấy khó hiểu mà vẫn rất lôi cuốn. Cách kết cấu truyện trong truyện, lớp lang, móc xích: 5 chương truyện là năm câu chuyện về số phận khác nhau, tác giả khéo léo lồng ghép các câu chuyện tưởng chừng không liên quan gì tới nhau lại liên kết một cách đầy logic, cho dù thời gian, không gian và mạch truyện hoàn toàn khác hẳn nhau. Đề tài truyện được khai thác dưới góc độ đa điểm nhìn, đa bút pháp, đa phương thức thể hiện. Câu chuyện được tác giả tạo dựng trên nền hiện thực huyền ảo, thực - ảo đan xen nhưng tới khi ông “giải thiêng” yếu tố “ảo”, thì cốt lõi câu chuyện vẫn là thực tại cuộc đời. Truyện mang cấu trúc hết sức hoàn chỉnh trên khía cạnh chính nó hay trên khía cạnh tổng thể tác phẩm. Hoàn chỉnh về cách thức triển khai cốt truyện làm mỗi câu chuyện cô đọng trong tình tiết truyện ngắn như một lát cắt đời sống. Và những lát cắt ấy, tổng hòa tại một tập truyện “như một lăng kính vạn hoa ma quái”, tựa cuốn tiểu thuyết tái hiện văn hóa, con người mảnh đất Phù Tang vậy. Tập hợp câu chuyện của những kiếp người khác nhau nhưng lại đầy duyên nợ, qua những hình ảnh không gian trở đi trở lại: tiệm tạp hóa Namiya và trại trẻ mồ côi Marumitsu. Để rồi, khi lớp vỏ bí ẩn dần gỡ xuống, bao điều ngỡ rằng ngẫu nhiên, thực chất lại là mối lương duyên do tạo hóa an bài. Thế nhưng đây không phải là một cuốn sách hồi hộp kỳ ảo đọc xong rồi quên. Có rất nhiều điều khiến con người ta ngộ ra: Vốn dĩ những khúc mắc trong cuộc sống chỉ có chúng ta mới có thể gỡ rối, chứ không phải một ai khác. “Khi đối mặt với hai sự lựa chọn, hãy tung đồng xu lên… không phải ta chọn sấp hay ngửa… mà là trong lúc nó rơi xuống, ta mới biết bản thân mình đang hi vọng điều gì” Và đặc biệt nhất là đọc đến những dòng văn cuối cùng của cuốn sách, bất cứ độc giả nào rồi cũng sẽ phải bất ngờ .Từ đó, mỗi cá nhân lại nhận ra, không có sự tồn tại nào là vô nghĩa. Về sự kỳ diệu của nhân duyên .Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya đã giúp mỗi người nhận ra được làm người tốt, được nhìn nhận như một người tốt là nhu cầu của mọi người. Chúng ta chẳng thể nào biết được rằng những năng lượng tích cực, tiêu cực của mình sẽ được lan tỏa đến đâu và gây ảnh hưởng đến mức như nào. Khi gấp trang sách lại, là sự day dứt, về những câu hỏi mãi là trăn trở của cuộc đời: Ta là ai, ta sinh ra để làm gì, ta tồn tại trên đời vì mục đích gì và với những người xung quanh, ta có ý nghĩa với họ? Cuốn sách cũng như 1 bức thư dài gửi đến những cõi lòng hay trăn trở, những trái tim ưa vội vã. Cầm cuốn sách lên, ta gần như mê mị với bầu không khí kì diệu, những con sóng dồn dập trong ta dần dịu lại sau những khoảnh khắc chờ đợi thực sự. Ta phát hiện ra chính mình cũng đang trở lại những ngày tháng xa xưa với những thổn thức. Phải chăng những con người ở quá khứ – có cả chúng ta ở quá khứ – cũng đã nhận được thông điệp từ tương lai? Chính những kiến tạo trong quá khứ, dựa trên niềm tin vào một tương lai đầy phép màu, đã cho chúng ta những tấm bản đồ tỉ mỉ ở hiện tại, để ta không còn sợ bị lạc đường. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya phần 1
Thời gian hỗn loạn hiện tại, quá khứ Cuốn tiểu thuyết lấy mốc thời gian là ngày 13 tháng 9 năm 2012 làm sự kiện mở đầu cho toàn bộ câu chuyện. Đây cũng đồng thời là ngày giỗ thứ 32 của ông chủ tiệm Namiya, chỉ từ đêm đến rạng sáng ngày hôm ấy, bao nhiêu câu chuyện kì bí đã được hé mở qua những bức thư gửi đến tiệm. Thời gian kì ảo trong truyện chỉ tồn tại duy nhất ở không gian tiệm tạp hóa Namiya, cánh cửa sau nhà chính là cửa ngõ giữa thời gian thực bên ngoài và thời gian ngưng đọng trong tiệm tạp hóa. Nếu cánh cửa đóng lại, thời gian sẽ không trôi đi. Ba cậu trai vào tiệm lúc 2h26 phút đêm và khi lần đầu ra ngoài kiểm tra hộp nhận sữa thời gian vẫn là 2h26 phút. Vài ngày trong tiệm tạp hóa mà chỉ như vài phút bên ngoài. Ngoài ra, chính người con trai của chủ tiệm Namiya cũng nhận xét: thời gian như ngừng lại với bố cậu, dù mắc căn bệnh ung thư giai đoạn cuối nhưng sau đêm từ tiệm tạp hóa trở về ông sống nhẹ nhàng, thanh thản, duy trì được hơn 1 năm mới mất. Thời gian câu truyện mang chất bí ẩn, lẫn chút màu sắc trinh thám như những bộ truyện trước của Keigo. Cũng vẫn là hệ thống nhân vật dày đặc, những thủ pháp nhảy cóc về mặt thời gian và điểm nhìn quen thuộc, truyện như một bộ tranh xếp hình nghìn miếng thách thức độc giả phải lắp ráp, suy luận những sự kiện để tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh. Nhưng kết thúc của câu truyện lại tươi sáng và ấm áp khác hẳn cảm giác lạnh lẽo trong những tác phẩm “chào sân” khi trước. Thời gian hiện tại (trong câu chuyện của 3 tên trộm ở trong cửa hàng; của những người nhờ tư vấn sau 32 năm) và thời gian quá khứ (trong câu chuyện của ông Namiya và những người gửi thư) xen kẽ nhau và có sự nhảy cóc, thay đổi liên tục không báo trước đưa người đọc từ bất ngờ này sang bất ngờ khác. Mở đầu bằng thời gian thực tại và kết thúc cũng ở thời gian ấy với những thay đổi kì diệu trong tâm hồn của 3 tên trộm đã khái quát lên cái nhìn của Keigo với cuộc đời. Đó là niềm tin, hi vọng vào những điều tử tế và tốt đẹp luôn tồn tại, ươm mầm sâu trong tâm hồn mỗi người chỉ chờ được vun đắp là đâm chồi nảy lộc. Ba chàng trai đã sử dụng đêm màu nhiệm duy nhất của cửa tiệm Namiya để trả lời khá nhiều thư. Nhưng họ lại quên mất chính mình cũng đang đứng trước những biến động và cần câu trả lời. Và ông chủ tiệm tạp hóa Namiya đã giải đáp cho họ: “Bản đồ của bạn vẫn còn là tờ giấy trắn g… Vì còn là giấy trắng nên bạn có thể vẽ nên bất kỳ bản đồ nào.” Đó cũng là bức thư cuối cùng của ông chủ tiệm, bức thư đã khiến cho thời gian của ba chàng trai như ngừng lại để rồi họ có thêm can đảm khi mở tung cánh cửa vào lúc thờii gian trở lại nhịp độ bình thường. Vị phúc thần ấy đã rời xa thế giới 32 năm nhưng vẫn đem về thứ năng lượng tâm linh để gắn kết mọi trái tim. Hình ảnh cuối cùng trước khi gấp lại cuốn sách là ba đôi mắt ướt đẫm của ba chàng trai trước lá thư. Mạch truyện còn đưa chúng ta trở lại thế giới quá khứ. Đó là nước Nhật ở những thập niên 60, 70 và 80. Từng thân phận con người xuất hiện với những khó khăn riêng, và tất cả cùng tìm đến với tiệm tạp hóa Namiya để mong có được kim chỉ nam cho con đường phía trước. Độc giả sẽ cảm nhận được một thứ màu bàng bạc, hoài cổ, ấm áp của một thời xa xưa với Thế Vận Hội Moscow năm 1980, nhạc Beatles và nhất là những lá thư tay nồng hậu. Cuốn sách đưa ta về cái thời người ta hồi hộp từng ngày từng giờ để được đón nhận tin tức của những người ở xa. Người đọc cũng không ngừng bồn chồn khi chờ để được biết số phận của từng nhân vật ở đoạn sau. Tiểu thuyết còn ưa tái hiện 2 khoảng thời gian trong ngày: đêm tối và rạng sáng. Đêm tối là khoảng thời gian để các nhân vật suy tư, trằn trọc, đối diện với chính số phận, cuộc đời của mình đồng thời lắng nghe, cố gắng cứu rỗi một tâm hồn đang buồn đau, lạc lối bằng những bức thư hồi âm đầy chân thành. Còn rạng sáng là thời gian các nhân vật gửi thư đi lấy bức thư trả lời của chủ tiệm với những mong mỏi, chờ mong về một giải pháp, hướng đi cho cuộc đời. Để rồi tất cả đều nhận ra: vốn dĩ những khúc mắc trong cuộc sống chỉ có chúng ta mới có thể gỡ rối, chứ không phải một ai khác. Như ông chủ tiệm tạp hóa Namiya đã nói. “Đa số các trường hợp người nhờ tư vấn đã có sẵn câu trả lời. Họ nhờ tư vấn chẳng qua chỉ muốn xác nhận điều đó là đúng mà thôi. Vì thế có những người sau khi đọc thư hồi âm thì lại gửi thư đến tiếp. Có lẽ vì nội dung thư hồi âm khác với những gì họ đang nghĩ “. Ông cũng trăn trở: “Câu trả lời của bố có tác dụng là bởi ý chí của bản thân người đó chứ không phải vì thứ gì khác. Nếu bản thân họ không muốn sống tốt, sống hết mình thì dù có nhận được câu trả lời nào cũng thế thôi” Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya phần 6
Ngoài tiệm tạp hóa Namiya, câu chuyện còn được liên kết hết sức mạch lạc, logic thông qua không gian trại trẻ mồ côi Marumitsu. “Trong tòa nhà bốn tầng bê tông cốt thép nằm giữa lưng chừng đồi, ngoài các phòng ngủ còn có nhà ăn, nhà tắm để bọn trẻ từ ẵm ngửa cho tới lứa thanh niên mười tám cùng nhau chung sống”. Đây là không gian cưu mang, nuôi dưỡng cả về thể xác lẫn tâm hồn của những đứa trẻ cơ nhỡ. Thật tình cờ là hầu như tất cả các nhân vật trong câu chuyện này đều có những kỉ niệm với trại trẻ Marumitsu: Shota, Koukei, Atsuya, Haruko (một trong những cô gái viết thư cho cửa tiệm) và Kousuke (Cậu bé có gia đình phá sản, phải trốn chạy đã từng viết thư cho cửa tiệm) đều lớn lên ở đây. Đồng thời, trại trẻ mồ côi này cũng là nơi Katsuro – chàng trai trẻ với ước mơ cháy bỏng theo đuổi con đường âm nhạc đã ra đi khi cố cứu sống một bé trai trong đám cháy. Để rồi sau này, chính người chị của cậu bé năm xưa đã viết tiếp giấc mơ của anh, đưa bài hát “Tái sinh” của anh đến khắp mọi ngóch ngách của đất nước. Thủ pháp quen thuộc trong cuốn sách là sự nhảy cóc, dịch chuyển không gian để đưa người đọc đến với những câu chuyện của các nhân vật tưởng chừng hoàn toàn chẳng có mối quan hệ với nhau: không gian căn nhà nhỏ hẹp kiêm cửa hàng bán cá của gia đình chàng nghệ sĩ Katsuro; ngôi nhà rộng lớn, giàu có với dàn loa xịn của cậu bé Kousuke; chiếc xe Civic chật hẹp của cậu con trai ông Namiya;… Cái khéo léo, tài tình của Keigo là đã để các nhân vật tình cờ gặp gỡ ở thị trấn yên ả này, liên hệ với nhau bằng những bức thư và kết thúc bằng nụ cười hay giọt nước mắt hạnh phúc, tỉnh ngộ hay tình yêu thương vô bờ bến. Ví như khi Atsuya thả bức thư trắng tinh vào khe cửa, ông Namiya đã coi bức thư ấy như tái hiện bản đồ cuộc đời của cậu – tờ giấy trắng. “Nhưng bạn hãy thử thay đổi cách nhìn. Vì còn là giấy trắng nên bạn có thể vẽ bất kì bản đồ nào. Tất cả là tùy ở bạn. Mọi thứ đều tự do, khả năng là vô tận. Điều này thật tuyệt. Tôi mong bạn hãy tin vào bản thân và cháy hết mình với cuộc đời.” Kiểu không gian nửa thực nửa ảo đan xen trong “Điều kì diệu ở tiệm tạp hóa Namiya” cũng rất phổ biến với các cuốn tiểu thuyết hiện đại những năm đầu thế kỉ XXI. Tác phẩm không đi sâu vào xây dựng một thế giới giả tưởng đồ sộ như The Giver Series, Fallen hay Twilight cũng không đào sâu vào thế giới kinh dị như Raven Pass mà kiến tạo cái cốt lõi của cuộc sống đời thường, tối giản từ đó bộc bạch hết những đau đớn, cô đơn, giằng xé trong nội tâm con người và chữa lành chúng, hướng con người đến cái thiện. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya phần 5
Không gian bình dị, thực ảo đan xen trong tác phẩm Đến với Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya, ta như lạc vào một thế giới đa chiều bí ẩn, đan xen giữa thực và ảo, lẫn chút màu sắc trinh thám. Tác phẩm là một bước ngoặt lớn, khiến độc giả phải thay đổi cái nhìn về tầm viết của Keigo Higashino. Không gian trong tiểu thuyết của Keigo không trải dài, rộng lớn, hùng vĩ mà chỉ chọn lọc những không gian nhỏ bé, chật hẹp, bình dị, quen thuộc với đời sống của người dân Nhật. Cả cuốn sách chỉ vỏn vẹn 5 chương, chủ yếu xoay quanh không gian thị trấn yên bình; cửa tiệm tạp hóa Namiya nhỏ bé, cũ kĩ; trại trẻ mồ côi Marumitsu hay ngôi nhà kiêm hàng cá của gia đình Katsuro,… Nhưng cái tài của nhà văn là đã tạo ra một sợi dây gắn kết tất cả các nhân vật cùng những địa điểm tưởng chừng chẳng hề liên quan đến nhau ấy lại. Trước hết, tìm hiểu về không gian đã xuất hiện trong nhan đề và là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt mạch truyện – Tiệm tạp hóa Namiya. Địa điểm này xuất hiện lần đầu tiên vào thời gian hiện tại (của tác phẩm) – năm 2012 như một “căn nhà hoang”, nơi trú ẩn cho 3 tên trộm: Atsuya, Shota và Koukei sau vụ đột nhập lấy cắp tài sản ở một nhà giàu có. Đây là “một căn nhà kiêm cửa hàng không to lắm. Phần nhà ở có kiến trúc nhà gỗ kiểu Nhật, phần cửa hàng với mặt tiền rộng chừng 3,64m đang đóng.” Trên cánh cửa cuốn chỉ có một khe nhét thư, cánh cửa đằng sau có một hộp nhỏ đựng sữa, biển hiệu đã cũ đến mức khó đọc được chữ. Quay ngược thời gian về quá khứ 32 năm trước (1980), đây là cửa tiệm nhỏ bán những món đồ văn phòng phẩm và nổi tiếng với dịch vụ gỡ rối tơ lòng qua những bức thư hồi âm của ông Namiya Yūji – một ông lão hiền hậu, hóm hỉnh, thông thái, luôn nghiêm túc trả lời tất cả thư mọi người gửi đến, kể cả 30 bức thư trêu đùa của một cậu ngỗ nghịch nào đó. Đây vừa là một không gian quen thuộc, gần gũi với tuổi thơ của những nhân vật trong câu chuyện, cũng như của người dân xứ sở Phù Tang vừa là không gian kì ảo, được bao trùm bởi sự bí ẩn, mầu nhiệm. Như một phép màu, những bức thư từ 32 năm trước được gửi đến tay của 3 cậu trai đã vô tình vào cửa tiệm. Như lời nhân vật Shota đã nói: “Khe nhận thư ở cửa cuốn và hộp nhận sữa kết nối với quá khứ. Nếu ai đó ở quá khứ thả bức thư vào tiệm tạp hóa Namiya của thời đó, lập tức bức thư sẽ được gửi đến tiệm của hiện tại. Khi trả thư hồi âm vào hộp nhận sữa ở phía sau nhà, thư được mang về quá khứ.” Khi đóng cánh cửa sau của tiệm tạp hóa thì thời gian dường như dừng lại, chỉ khi để mở cánh cửa thời gian mới trôi đi như bình thường. Và không gian này cũng chỉ tồn tại vào đúng đêm ngày 13 tháng chín, tức ngày giỗ thứ 32 của chủ tiệm tạp hóa. Chính cách xây dựng không gian nghệ thuật này đã tạo nên điểm đặc biệt hấp dẫn độc giả của câu chuyện. Cái kì ảo trong không gian nghệ thuật là cây cầu để mở ra số phận, cuộc đời cùng những tâm tư, trăn trở của toàn bộ nhân vật trong câu chuyện. Nhờ tiệm tạp hóa Namiya cùng những bức thư hồi âm đến từ tương lai mà cô gái trẻ 19 tuổi Muto Haruko đã vượt qua gánh nặng kinh tế, từ bỏ cám dỗ trở thành tình nhân của một người đàn ông đã có vợ và sống một cuộc đời có ích. Cũng tại cửa tiệm này, ông Namiya vượt qua nỗi đau mất vợ, sự cô đơn, lạc lõng cùng căn bệnh ung thư gan để sống trọn vẹn, nhiệt huyết, say sưa với công việc lắng nghe, giải đáp khúc mắc của những người gửi thư. Đồng thời, chỉ một đêm tình cờ nghỉ lại nơi đây đã gieo vào lòng 3 tên trộm những hạt giống tươi đẹp của lòng tốt, tình yêu thương và niềm tin rằng họ cũng là những con người có ích. Bởi vậy, ta có thể hiểu, đây là không gian nghệ thuật mang tính chữa lành, gột rửa căn bệnh tinh thần cho con người. Những con người nhận thư hay gửi thư cũng đều mang nỗi đau sâu kín trong tâm hồn, giống như nhân vật Atsuya luôn luôn tỏ vẻ thờ ơ, không quan tâm, thậm chí cáu kỉnh, viết thư hồi đáp cục cằn, thậm chí dùng lời lẽ châm biếm, gay gắt, mắng mỏ nhưng ẩn sâu bên trong là một cậu bé nhạy cảm, đau đớn vì tuổi thơ bất hạnh có người mẹ là một cô gái tiếp viên, bị đánh đập bởi rất nhiều người đàn ông và bị đưa vào trại trẻ mồ côi ít lâu sau đó. Nhưng chính trong thời gian ở tiệm tạp hóa, cậu đã sẵn sàng dang tay cứu giúp một cô gái trẻ đang trong hoàn cảnh lầm đường, lạc lối giống mẹ cậu ngày trước. Cuối cùng, cậu quyết định trả lại tài sản đã lấy cắp và ra đầu thú. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya phần 4
NỘI DUNG: Mở đầu Higashino Keigo (4/2/1958) là một tác giả người Nhật Bản nổi tiếng với dòng văn bí ẩn đậm chất xã hội, đặc biệt thành công với thể loại truyện trinh thám. Ông hiện đang là một trong những nhà văn bán chạy nhất của Nhật Bản với kho tàng lên đến hơn 50 bộ phim chuyển thể, trên 80 tác phẩm và không ít giải thưởng. Vào năm 1999, ông đã thắng Giải thưởng Văn học Trinh thám Nhật Bản với tiểu thuyết Bí mật của Naoko. Năm 2006, ông giành giải Naoki lần thứ 134 với Phía sau nghi can X (Yōgisha X no Kenshin), giải thưởng mà ông đã từn g năm lần được đề cử. Tiểu thuyết này đồng thời cũng thắng tại giải Honkaku lần thứ 6 và được xếp đầu tiên trong danh sách Kono Mystery ga Sugoi! 2006 và Honkaku Mystery Best 10, danh sách các tiểu thuyết trinh thám được xuất bản tại Nhật Bản hàng năm. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 đến năm 2013. Không chỉ viết tiểu thuyết trinh thám mà Higashino Keigo còn viết cả tiểu luận văn học cũng như tác phẩm dành cho thiếu nhi. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung ông thường hiếm khi đưa quá nhiều nhân vật vào một tác phẩm mà thường đào sâu vào tâm lý nhân vật. Những tác phẩm của ông đến với Việt Nam không đột ngột gây tiếng vang ngay từ đầu như Murakami Haruki, nhưng Keigo Higashino đang ngày càng trở thành cái tên lớn mạnh trong lòng bạn đọc Việt. Bởi lẽ, Keigo Higashino là một nhà văn đầy sáng tạo với những cốt chuyện mới lạ, táo bạo khi dám động chạm đến nhiều đề tài khó. Vốn là kỹ sư chế tạo máy, những tác phẩm của Higashino thường mang yếu tố khoa học công nghệ, chất tỉnh táo, logic và lắt léo. Tuy nhiên biệt tài của ông không phải là tạo ra một vụ án hay tình tiết biến ảo ly kỳ, mà là làm giằng xé tâm can độc giả. Ông không quan tâm đến chuyện đưa những vụ án ra ngoài ánh sáng hay kết thúc những tác phẩm của mình một cách toàn vẹn. Ông cũng không trả lời cho những câu hỏi chính mình đã đặt ra, không phán xét cách xử lý vấn đề của nhân vật là sai hay đúng. Thứ đọng lại trong lòng độc giả khi gấp lại cuốn sách là mọi ngọt bùi đắng cay nhân vật đã phải trải qua. “Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya” ra mắt độc giả vào năm 2012 và đã để lại những ấn tượng khó quên trong lòng bạn đọc. Ngắn gọn, “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” là câu chuyện xoay quanh một hòm thư tư vấn. Vào năm 1980, tiệm tạp hóa Namiya trở nên quen thuộc với cư dân trong vùng sau khi chủ tiệm Namiya Yūji mở một dịch vụ “gỡ rối tơ lòng” miễn phí cho tất cả mọi người (do một trò đùa từ những đứa trẻ con đã đọc trật tên cửa tiệm thành ”Nayami” – đồng âm với “Namiya”, có nghĩa là phiền muộn, lo lắng). Khi cửa tiệm đóng cửa, khách hàng có thể nhét thư qua khe trên cửa cuốn của tiệm, có vai trò như một hộp thư. Sáng hôm sau họ sẽ nhận được thư trả lời viết tay của chủ tiệm để ở thùng nhận sữa bên ngoài tiệm. Vào năm 2012, ba cậu con trai Atsuya, Shota và Kouhei sau khi đột nhập bất hợp pháp vào một ngôi nhà nhằm mục đích trộm cắp tài sản đã tình cờ chạy trốn vào cửa tiệm nay đã bỏ hoang. Trong thời gian ở tiệm đêm đó, ba cậu nhận được những bức thư nhờ tư vấn được gửi qua khe cửa cuốn mặc dù không hề có ai ở bên ngoài. Những bức thư này theo truyền thống được người gửi hỏi ý kiến về những lo lắng băn khoăn của mình. Các cậu đọc thư và nhận ra chúng được viết vào thời điểm 32 năm trước đó là năm 1980. Khi Kouhei quyết định trả lời, điều kỳ diệu đã xảy ra khi những lá thư trả lời của họ vượt không gian và thời gian để đến được người nhận, thay đổi cuộc đời của họ và trở thành những phép màu đan xen cuộc đời của những nhân vật dường như không có sự liên quan. Năm chương truyện là năm câu chuyện khác nhau, xen kẽ giữa tương lai và hiện tại. Đầu tiên là câu chuyện về một vận động viên đấu kiếm không biết có nên tiếp tục tập luyện để có thể tham gia thi đấu theo nguyệ n vọng của người yêu cũng như chính cô hay dừng lại để dành thời gian bên cạnh người mình yêu khi anh bệnh nặng chuẩn bị qua đời. Tiếp đó là chàng nghệ sĩ vô danh phải đứng giữa sự lựa chọn giữa nên tiếp quản cửa hàng của gia đình hay tiếp tục ước mơ âm nhạc với tương lai mông lung đã khiến anh bỏ học để theo đuổi. Chương ba là câu chuyện một người tên Green River – người mang trong mình đứa con với một người đàn ông đã có vợ cùng với việc ông Namiya muốn trở lại tiệm tạp hóa yêu quý của mình để đọc những lá thư hồi đáp từ tương lai. Hai chương cuối kể về Kousuke – một cậu bé con nhà giàu nhưng phải đi trốn cùng bố mẹ vì gia đình phá sản và một cô gái đang phân vân giữa các ngã rẽ cuộc đời. Hai người đều ở trại trẻ Marumitsu, đều được tiệm Namiya tư vấn chỉ khác là một người được ông Namiya tư vấn còn một người được ba cậu con trai tư vấn. Kết thúc tác phẩm, Atsuya thử gửi một tờ giấy trắng để xem ông Namiya sẽ trả lời ra sao. Sau khi nhận được thư trả lời từ ông Namiya, khuyên nhủ nên trở thành người tốt, ba cậu đã quay lại ngôi nhà đột nhập để đầu thú với cảnh sát. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya phần 3
TÓM TẮT: Không gian nghệ thuật trong văn học là một dạng thái hình tượng nghệ thuật, là một bìn h diện biểu hiện hình thức bên trong của tác phẩm, góp phần thể hiện tính xác định và tính chỉnh thể của tác phẩm. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc sống, thể hiện nhà văn nhìn nhận và phản ánh sự vật, con người trong những khoảng cách, góc nhìn và kênh thẩm mỹ nào đó. Vì vậy, không có nhân vật nào, hình tượng nghệ thuật nào không có một không gian nghệ thuật.Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hìn h tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự trần thuật, miêu tả trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Do đó, để tìm hiểu sâu rộng hơn các bình diện của tác phẩm ta cần đào sâu vào không – thời gian nghệ thuật của tác phẩm. “Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya” ra đời vào những năm đầu thế kỉ XXI, là minh chứng rõ rằng cho tầm viết cũng như xây dựng không thời gian nghệ thuật trong các sáng tác văn xuôi gần đây. Không tạo dựng không gian sử thi chiến trận hùng vĩ, cuốn tiểu thuyết thuyết phục người đọc bằng những câu chuyện bình dị, đời tư, ngắn gọn cùng những trăn trở thường nhật của con người hiện đại được xây dựng qua không – thời gian xoay chiều, nhảy cóc, thực -ảo đan xen liên tục. Từ khóa: Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya phần 2
Đặc điểm không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư Không gian đời tư Điểm đặc sắc trong không gian nghệ thuật tản văn của Nguyễn Ngọc Tư là ở chỗ: Chị xây dựng được trong tác phẩm của mình không gian vừa riêng biệt, cá nhân, mang ý nghĩa tả thực, vừa truyền tải tư tưởng của bản thân về đời sống. Trong những tản văn của mình, Nguyễn Ngọc Tư không ngần ngại đưa vào khai thác những không gian từ nhỏ bé, riêng tư nhất như căn phòng, ngôi nhà cho đến những túp lều, gợi ra sự gần gũi, thân mật, gắn bó và khơi gợi cảm xúc chân thành trong lòng người đọc. Trong “Trăm năm thắp lửa bên lề”, hình ảnh vách nhà treo hình cô Vẹn được tái hiện thật chân thực. Đó là bức chân dung hồi cô hai mươi sáu tuổi, tay cắp nách một đứa con còn một đứa khác đứng bên chân, tay níu ống quần mẹ. Đó còn là hình ảnh của tiệm bánh mì cô Vẹn vẫn đứng vững dẫu bao nhiêu mùa bàng thay lá, bao biến cố ngoài đời lẫn trong nhà, từ việc đứa con trai đi du học mọc rễ bên Tây, rồi đến vụ việc đứa con gái thất tình tự tử may sao không chết, thậm chí cả khi ông chồng lén vét tiền vàng đi vượt biên cùng nhân tình, biệt tích. Rồi đến không gian vườn cây của Ngoại trong nhà cậu Năm trong tản văn “Neo lại bóng mình”. Chính từ vườn cây ấy, hình ảnh một người đàn bà cứ thế cả đời ẩn hiện trong bếp, ngoài vườn và trên mảnh ruộng của mình, đến lúc về với đất mẹ lại không để lại gì ngoài tấm ảnh thờ và mấy cây ăn trái trong vườn”. Không gian ấy ảnh hưởng cả đến nếp sống sinh hoạt và thói quen của những người còn ở lại, của những thế hệ sau. Dường như hình ảnh “mấy góc nhà giắt đầy túi ni-lon mục rã, suốt từ hàng ba tới bếp là những thứ đồ dùng sứt sẹo” trở thành những món đồ thân quen, khiến Năm – đứa con trai của Ngoại - cũng không nhận ra rằng chính mình là một bản sao hoàn hảo khi lặp lại việc tái hiện không gian căn nhà mình y như vậy, và cũng khiến cho người ra đi chưa bao giờ bị quên lãng trong hồi ức của người ở lại. Như vậy, những câu chuyện có phần “riêng tư” như vậy lần lượt được tái hiện để tạo nên không gian đời tư của các nhân vật, qua đó truyền tải tư tưởng của nhà văn về cuộc sống. Đó là một cuộc sống khi con người được tự do thể hiện những gì là mình nhất bằng tất cả sự chân thành. Không gian sinh hoạt văn hoá truyền thống Nam Bộ Trong tản văn Nguyễn Ngoc̣ Tư, những nếp sống sinh hoạt, lao động quen thuộc của người dâ n Nam Bộ đã được tái hiện một cách độc đáo. Những vấn đề trong cuộc sống người dân Nam Bộ được tái hiện đi từ truyền thống đến hiện đại, đậm chất nhân văn. Đọc tản văn Nguyễn Ngọc Tư, người đọc như chìm đắm trong không gian văn hoá đậm đà bản sắc với những phong tục, lề thói, nề nếp đặc trưng của người dân Nam Bộ. Trước hết, không gian sinh hoạt văn hoá mở ra với những món ăn truyền thống từ những đôi bàn tay khéo léo của con người Nam Bộ. Đến với tản văn “Trăm năm thắp lửa bên lề” là đến với một tiệm bánh mì kẹp thịt mà tiếng ngon đồn xa đến tận quận Mười Ba: “Ngay từ đầu tiệm đã không có bảng hiệu gì, sáu mươi bốn năm sau cũng không một chữ, nhưng người ta vẫn tìm được bánh mì cô Vẹn ở góc ngã ba Cây Bàng, vì khách xúm đông”. Lại có một cách định vị khác, “thấy tiệm nào có bà già tóc trắng như đội bông bắc cái ghế ngồi đằng trước, cứ ghé là ngay chóc”… Cách xác định không gian thật đặc biệt: Không gian văn hoá ẩm thực được định vị bằng đặc trưng của những con người đã tạo nên không gian đó. Người đọc còn không khỏi bất ngờ khi được chứng kiến một bức tranh phong tục tập quán đậm đà bản sắc người dân Nam Bộ trong một đám cưới đặc biệt: “Đám cưới rừng”. Đám cưới đấy khiến khách không nhiṇ đươc̣ trầm trồ bởi một đám cưới ở giữa khu rừng, nhưng vẫn đầy đủ, huyên náo y chang ngoài chơ,̣ có khi khoa trương, ồn ào gấp bội. Đám cưới ấy phảng phất hơi thở thơm phức mùi hương của rừ ng, xuyê n qua những vaṭ tràm, lan rộng khắp nơi như gió chướng. Trong cái không gian trong đaị của đời người ấy, đôi vợ chồng thằng Moṭ cũng đươc̣ đắm mình trong những thứ sặ c sỡ nhất của hoa cỏ núi rừng, gần như không có khoảng cách giữa chợvà quê , giàu và nghèo. Không gian sinh hoạt văn hoá trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư còn là không gian gợi dẫn, không gian của những khoảng không rộng mở. Ta được chứng kiến trong văn Nguyễn Ngọc Tư biết bao con người Nam Bộ đôn hậu, chân thành và nơi ăn chốn ở của họ thể hiện rất rõ phẩm chất này. Có lẫn, Nguyễn Ngọc Tư và những người bạn đã vượt cả quãng đường dài đến mười bảy hải lí chỉ để chứng thực cảnh tượng những “gian nhà không cánh” ngay gành Chướng: “Cửa khép như chơi, bạn có thể bước vào bất cứ căn nhà nào mà không bị mấy con chó lườm nguýt.” (Trích “Gió qua cõi tạm”). Đó là nét đẹp trong không gian sinh hoạt văn hoá hàng ngày của con người Nam Bộ: luôn cởi mở, thân tình, đằm thắm và hiếu khách. Bên cạnh đó, chính vì thiên nhiên dữ tợn, hung bạo của vùng đất Nam Bộ, con người Nam Bộ dường như sát lại cùng nhau để vượt qua hoàn cảnh, tạo nên không gian sinh hoạt gắn kết. Người đọc ấn tượng hình ảnh của những người dân cùng chung tay, góp sức vực dậy tinh thần của nhau vượt qua cơn bão lớn trong “Mưa mai là mưa khác”: “Ngày ba bữa, đám người mắc kẹt có dịp gặp nhau, chào nhau bằng mỗi câu: “Không biết chừng nào mưa mới ngớt” nhưng chẳng một giông bão nào ngăn cản được hình ảnh con người vẫn ra ngoài bến chơi giỡn với những con sóng cao ngang đầu người, quất cái ngọn ngầu bọt vào thềm đá”. Không gian dữ tợn ấy được khắc hoạ đối lập với hành động của con người, càng tô đậm tinh thần và ý chí nghị lực kiên cường của người dân Nam Bộ. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 4
Vận dụng đặc trưng thi pháp học về không gian nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư để dạy học Đọc - hiểu tản văn Nguyễn Ngọc Tư trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 Nhận thấy được những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật cũng như những đóng góp của tản văn Nguyễn Ngọc Tư cho nền văn học nghệ thuật nước nhà, các tác giả của nhiều bộ sách đã lựa chọn các tác phẩm của chị để đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Trong bối cảnh người viết sách được tự do chọn lựa tác phẩm (trừ các tác phẩm bắt buộc đã được quy định trong chương trình tổng thể), truyện của Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện trong tất cả các bộ sách ngay từ chương trình khối Trung học cơ sở. Đọc hiểu thể loại tản văn là một trong những yêu cầu cần đạt đối với học sinh lớp 7. Tính đến thời điểm hiện tại (tháng 05/2023), có đến 2/3 bộ sách đều lựa chọn tản văn của Nguyễn Ngọc Tư làm ngữ liệu giảng dạy cho học sinh, cho thấy vị thế và tầm quan trọng của các tản văn này đối với nền văn học nước nhà. Đó là hai tản văn: “Trở gió” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) và “Mùa phơi sân trước” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Chân trời sáng tạo). Xác định mục tiêu Trên cơ sở và yêu cầu dạy học phát triển năng lực, khi thiết kế dạy học Đọc hiểu một tác phẩm văn học nói chung và tản văn Nguyễn Ngọc Tư nói riêng, giáo viên cần xác định mục tiêu dạy học, cụ thể người học sẽ phát triển được những năng lực chung và năng lực đặc thù bộ môn nào. GV khi thiết kế bài dạy cần chủ độ ng xác đinh đưa các năng lực này vào phần muc̣ tiêu bài hoc̣ và trình bày cụ thể các năng lực được thể hiện qua các hành vi như thế nào. Đặc biệt, khi thiết kế các tiết dạy học đoc̣ hiểu văn bản, GV cần dựa vào cơ sở vă n bản đoc̣ hiểu đó phù hơp̣ với việc phát triển loại năng lực nào, nhiều hay ít hoặc GV chủ đinh đưa nhóm năng lực nào vào tiết daỵ Về năng lực chung, HS cần bồi dưỡng để phát triển các năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác và năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Với hai văn bản “Trở gió” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) và “Mùa phơi sân trước” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Chân trời sáng tạo) của chương trình Trung học cơ sở, những biểu hiện cụ thể của các năng lực chung có thể kể đến như: Năng lực tự chủ và tự học: Biết chủ đôṇ g, tích cưc̣ chuẩn bi ̣và soaṇ bài theo yêu cầu, hướng dẫn của giáo viên; Nhâṇ biết tình cảm, cảm xúc của bản thân thông qua viêc̣ cảm nhâṇ và phân tích tình cảm, cảm xúc của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện qua tác phẩm; Nhâṇ ra và điều chỉnh đươc̣ những sai sót haṇ chế của bản thân khi đươc̣ giáo viên và baṇ bè góp ý, chủ đông tìm kiếm sự giúp đỡ của người khác trong quá trình học tập; Vâṇ dung môṭ cách linh hoaṭ những bài hoc, kinh nghiêṃ đươc̣ rút ra từ các tác phẩm tản văn của Nguyễn Ngọc Tư (bảo tồn thiên nhiên, giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống, tránh mai một trong thời hiện đại,…) để giải quyết các tình huống có trong đời sống;… Năng lực giao tiếp và hợp tác: Biết lắng nghe và có phản hồi tích cực trong giao tiếp; Biết chủ động đề xuất mục đích hợp tác khi được giao các nhiệm vụ học tập; biết xác định được những công việc có thể hoàn thành tốt nhất bằng hợp tác theo nhóm; Biết chủ động và gương mẫu hoàn thành phần việc được giao, góp ý điều chỉnh thúc đẩy hoạt động chung;… Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Xác định được và biết tìm hiểu các thông tin liên quan đến Nguyễn Ngọc Tư và đặc điểm tản văn Nguyễn Ngọc Tư; Biết đặt các câu hỏi khác nhau về một sự vật, hiện tượng, vấn đề; Biết chú ý lắng nghe và tiếp nhận thông tin, ý tưởng với sự cân nhắc, chọn lọc;… Về các năng lực đặc thù, HS cần bồi dưỡng để phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. GV cần nghiên cứu yêu cầu cần đạt của chương trình Ngữ văn THCS tương ứng với lớp 7 để xác định các yêu cầu năng lực đặc thù phù hợp. Với dạy học đọc hiểu thể loại tản văn dựa trên đặc trưng thi pháp học về không gian nghệ thuật với hai văn bản “Trở gió” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) và “Mùa phơi sân trước” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Chân trời sáng tạo), GV cần bồi dưỡng và phát triển năng lực đặc thù của HS như sau: Năng lực ngôn ngữ: HS nhận biết được tình cảm, cảm xúc của người viết thể hiện qua ngôn ngữ văn bản (lời văn giàu hình ảnh, nhạc điệu, cách sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, so sánh, nhân hoá,...) khi tái hiện không gian mảnh đất Nam Bộ đầy nắng và gió; Biết so sánh không gian nghệ thuật trong vă n bản này vớ i không gian nghệ thuật trong văn bản khác; Liên hệ với những trải nghiệm cuộc sống của cá nhân, từ đó có những cảm nhận riêng về cuộc sống, làm giàu đời sống tinh thần; Trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc của bản thân về không gian nghệ thuật trong tác phẩm; Có thái độ tự tin và sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ điệu bộ thích hơp̣ khi trình bày;… Năng lực văn học: Cảm nhận được những đặc trưng về không gian nghệ thuật được xây dựng trong các tác phẩm tản văn thể hiện qua hai văn bản (không gian đời tư, không gian thiên nhiên, không gian sinh hoạt và không gian đặt trong nguy cơ đổi thay); Phân tích đươc̣ tác dung của một số yếu tố tạo nên không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư; Trình bày đươc̣ cảm nhận, suy nghĩ về và tác động của tác phẩm đối với bản thân; bước đầu taọ ra đươc̣ Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 1
Không gian đặt trong nguy cơ đổi thay Mặc dù luôn thể hiện chất nhân văn trong việc miêu tả không gian văn hoá của những người dân Nam Bộ , Nguyễn Ngọc Tư cũng không ngần ngại khi đề cập đến bối cảnh của những sự đổi thay đang diễn ra như một mạch ngầm dần dần xâm lấn đời sống con người hiện nay. Con người Nam Bộ bị ̣đặt trong trong trạng thái thụ động, đối diện với hoàn cảnh khó khăn, thậm chí đương đầu trước những sóng gió cuộc đời, để rồi có những phút giây yếu lòng, sa ngã. Người đọc thấy rất rõ điều này trong tản văn “Bên cuộc nổi trôi” khi con người bị đặt trong sự lựa chọn giữa việc bỏ đi không gian thuộc về văn hoá truyền thống để tiến đến những thứ hiện đại phục vụ cho lợi ích kinh tế. Hàng ngày, cả gia đình được chứng kiến cảnh tượng những ngô i nhà cũ giữa trung tâ m thành phố khiến con người ta phải trầm trồ vì baṭ ngàn xa hoa. Đó là những thứ khiến bất kì ai khi nhìn vào cũng thấy lòng mình rung động và bỗng chốc thổi bùng lên những ngọn lửa dục vọng ngùn ngụt trong lòng. Ở khu phố Tây vẫn còn vài sót lại vài căn nhà cũ kĩ, khác biệt hoàn toàn với một thế giới xa vời, xuống cấp đến mức tường bạc màu, lở vách, vô nhiễm với mùi đô-la của du khách, ấy vậy mà chỉ vài mét vuông vỉa hè cũng đủ cho cuộc kiếm tiền. Ông cụ cũng thừa hiểu nếu bán căn nhà đi sẽ kiếm được bạc tỉ, còn không thì hoàn toàn có thể cho thuê rồi cả nhà sẽ dời tới một chỗ rộng rãi, tiện nghi mà tiền thì rủng rỉnh. Nhưng cuối cùng, ông cùng con cháu mình đã quyết định kháng cự lại những lời gọi mời để giữ lại truyền thống của gia đình. Với tản văn “Đến hồi tan vỡ”, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi gắm một phát ngôn của bản thânvề thời thế lúc bấy giờ qua tác phẩm: “Nghe thì cao siêu, nhưng cá ch con ngườ i đá nh mất nhiều thứ nho nhỏ, tương không đáng kể, một ngày nà o đó bỗng trở thà nh những khoảng trống.”. Nguyễn Ngọc Tư mượn hình ảnh không gian trong một bữa ăn của những đứa trẻ với món cá trèn dân dã, rồi tự đặt ra câu hỏi làm thế nào để tụi nhỏ cũng có thể cảm nhận đươc̣ cái hương vị của giẻ thiṭ mát mềm của thứ cá đó tan trong đầu lưỡi? Chỉ một không gian sinh hoạt giản dị như vậy nhưng đã tái hiện được sự đổi thay của cuộc sống hiện đại đã len lỏi vào cả những khoảng trống nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày của con người. Trong tản văn “Thừa ra con người”, ngay từ tên nhan đề tản văn đã gợi nhắc đến sự thừa thãi của con người. Vì sao vậy? Là vì những không gian sinh hoạt văn hoá cùng tạo nên những món ăn truyền thống của con người đã dần bị thay thế bởi không gian của máy móc kĩ thuật hiện đại. Đó là một xưởng làm bánh pía với nhiều cô ng nhâ n lành nghề người Khmer mà dần dần bị đổi thay bởi lò nướng, cô ng nghệ làm bánh bán tựđộ ng. Đám thanh niên cũng lần lượt rời bỏ quê hương, rời bỏ những ngành nghề truyền thống để tới làm việc ở những khu cô ng nghiệp trong ca ngày ca tối. Nhưng đến cả chúng cũng tự ý thức được sớm muộn gì bản thân cũng sẽ bi ̣thay thế bằng những thứ máy móc tự động thôi. Cả những không gian sinh hoạt văn hoá của dần bị mai một, lãng quên. Trong tản văn “Đợi xa xôi”, Nguyễn Ngọc Tư đề cập đến hình ảnh của một khu chợ khuất sau mấy vaṭ rừng, chỉ cách khu du lịch một vài cây số. Chợ vốn là nơi đông đúc, tụ họp của người dân, ấy vậy mà giờ cũng chẳng ai buồn dọn dẹp vì khách đâu ngó tới. “Những kỷ niệm bạn có với cái chợ nhỏ này là những đêm buồn tẻ, mà tiếng gà đập cánh, giọng ươìi của đứa trẻ cũng bi ̣ sông nước làm cho bớt giòn”. Đến với tản văn “Đảo mùa đông”, Nguyễn Ngọc Tư bày tỏ sự thất vọng về một không gian đổi thay hoàn toàn khi “hễ chỗ nào hơI đep̣ là đám đông xúm vào nhớn nhác” để tạo nên những chốn du lịch. Chị bày tỏ khát khao giữ lại những gì ban sơ, hoang dã và tự nhiên nhất ở mảnh đất này với “những ngôi nhà đất Mũi từng thả phè cửa, xóm Cheṭ của ngoại bạn họ buộc xuồng dưới bến qua đêm, nhớ làng mạc chừng chuc̣ nă m trước chẳng cần rào dậu”. Có lẽ giờ đây, tất cả chỉ còn là những kí ức khi dần dần không gian cho những sinh hoạt làng xã đều bị thay thế bởi những khu công nghiệp, khu du lịch để phục vụ cho mục đích kinh tế. Con người thay đổi, mang những nhu cầu mới mẻ và vô tình đang phá vỡ đi những gì thuộc về không gian tự nhiên vốn có. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 6
Không gian thiên nhiên Nam Bộ Không gian thiên nhiên vùng đất Nam bộ từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thế hệ nhà văn, nhà thơ như Phan Khôi, Lư Khê, Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Đoàn Giỏi,… Nói như vậy để thấy được rằng thiên nhiên Nam Bộ trở thành “mảnh đất màu mỡ” hấp dẫn, làm nên chất liệu sáng tác trong các tác phẩm văn học. Đến với Nguyễn Ngọc Tư, chị vốn là một người con của mảnh đất đầy nắng và gió này, chính vì vậy mà chị được đắm chìm trong thiên nhiên và chứng kiến tất cả nền văn minh thôn dã nơi đây. Trong những sáng tác tản văn của mình, chị gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi hình ảnh những cánh đồng bát ngát, mênh mông, những ngả đường được bao bọc giữa cây trái của các thôn xóm, hệ thống kênh rạch chằng chịt,… Có thể đúc kết ra được thiên nhiên trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư là thiên nhiên với những vẻ đẹp vừa dân dã, mộc mạc, đặc trung cho mảnh đất nhiệt đới Nam Bộ nhưng cũng vừa độc đáo, có phần tráng lệ. Đó là thiên nhiên có phần “hung hãn”, “dữ tợn” với những cơn mưa bão xối xả, những đợt nắng gay gắt đến cháy da cháy thịt, những thác nước hung bạo đổ ào ào xuống lòng sâu không khác gì một cơn cuồng nộ của tự nhiên. Người đọc không thể quên được hình ảnh một cơn mưa bão trên đảo Phú Quốc khiến con người ta kẹt cứng giữa cuồng phong, reo rắc vào lòng người nỗi kinh sợ, lụi tàn dần hi vọng. “Nước tiếp nước đổ ào xuống đảo. Lì lợm, dẳng dai.” (Mưa mai là mưa khác). Dường như cơn mưa không có điểm dừng, nước cứ thế tuôn xối xả và xoáy vào lòng người, cười cợt vào tâm trí cả đám người ngây thơ vì nghĩ rằng hôm nay sẽ có thể rời khỏi chốn này. Hi vọng yếu ớt của con người dần phụt tắt đi theo màu trời tối sầm khi liên tiếp lại thêm cơn áp thấp nữa theo đuổi cơn bão vừa tan. Một cảnh tượng hung bạo, mờ mịt với màn nước giăng kín như một mối đe doạ cả đến tính mạng con người. Không chỉ có sự hung bạo, không gian thiên nhiên trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư có đôi phần “kì dị”. Sự kì dị ấy được tạo nên một phần chính nhờ ngôn ngữ độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư. Chị coi thiên nhiên thật sự như một sinh thể sống động, có những cảm xúc, suy nghĩ như con người. Cái nắng trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phải là cái nắng sinh động như sau: “Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy.” Cái kì dị của thiên nhiên còn thể hiện ở những thứ kì quái, những thứ thần dược từ muôn loại có cây mốc meo. Không gian được tô điểm bởi những quán xá đu trên vách đá, những đền đài miếu mạo, cây cối hoang dại mọc um tùm không theo trật tự,… Tất cả tạo nên một vẻ đẹp hoang sơ nhưng cũng có phần kì bí, khơi gợi trí tò mò của người đọc. Hoang sơ, kì bí, thần tiên diệu kì là vậy nhưng Nguyễn Ngọc Tư cũng rất thành thực khi miêu tả sự thay đổi trong cảnh thiên nhiên núi non. Dần dần, thiên nhiên cũng trở nên khác biệt, phá tan sự kì vĩ vốn có mà thay thế cho những thứ tầm thường khác để phục vụ nhu cầu căn bản của con người. Người đọc thấy rất rõ điều này trong “Đến hồi tan vỡ”. Trong tác phẩm tản văn này, Nguyễn Ngọc Tư đã đau xót mà phải thốt lên rằng: “Người ta bắt đầu dần quen vớ i mộ t thiê n nhiê n gầy mòn, cạn kiệt; Giờ nhắm mắt cũng nhìn thấy rõ sản vật tự nhiên của rừ ng ruộ ng sắp cạn kiệt, gầy còm.”. Đau đớn thay, ta phải chứng kiến một sự đổi thay của thiên nhiên và muôn loài sinh vật trong chốn thiên nhiên ấy, để rồi giữa vùng rừng, vùng biển cũng không còn sẵn cá, tôm để đãi người. Muôn loài sinh vật bị nuôi nhốt chậ t chội, lớn bằng thức ăn nhân tạo để phục vụ lợi ích con người. Thậm chỉ đến tuị con nít cũng phát hiện ra sự thay đổi của thiên nhiên, của tôm cá trong bữa ăn hàng ngày để rồi chúng cứ thế nối cái nguýt dài theo luô n. Giờ đây, nếu lỡ thèm cái hương vi ̣tôm cá hoang dã thì phải chờ đợi đến quãng từ đầu Chap̣ tới cuối tháng Ba mà cũng không có để mua vì chúng ngày càng đắt đỏ. Nguyễn Ngọc Tư đã đau xót mà nhìn vào sự thật ấy để thấy được rằng chính con người đã và đang tác động, huỷ hoại đến thiên nhiên hoang sơ vốn có của vùng đất Nam Bộ này. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 5
Nội dung Biểu hiện của không gian nghệ thuật trong tản văn văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 Nếu ở thời kì trước đó, cảm hứng sử thi và cảm hứng lãng mạn được đề cao, tôn vinh trong các tác phẩm văn học với những vấn đề to lớn, mang tính tập thể, đậm chất anh hùng ca thì đến giai đoạn này, văn học nói chung và tản văn nói riêng dần được thay thế bằng cảm hứng đời tư, thế sự. Cảm hứng thay đổi dẫn đến những không gian nghệ thuật trong văn học cũng thay đổi, thiên về tái hiện những không gian đời thường, cá nhân của con người. Lí giải cho sự đổi thay về không gian nghệ thuật này là do chiến tranh đã đi qua. Vì vậy, đây là cơ hội để văn học dần trở lại với bản chất thực thụ. Tản văn là mảnh đất màu mỡ để những nhà văn khai thác, bộc bạch những trải nghiệm và cá tính của bản thân. Không gian trong tản văn trở thành nơi để con người phô bày tất cả những cái sần sùi, thô ráp đời thường, thế tục với nhiều những đổi thay thời đại, tiếp cận các vấn đề đạo đức thế sự. Con người đối diện với thực tại cuộc sống muôn hình vạn trạng, được đặt trong các mối quan hệ: giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người công dân, con người xã hội và con người tự nhiên, từ đó mà luôn soi chiếu, đưa ra những suy ngẫm, trăn trở về cuộc đời. Các tác giả tản văn còn trực tiếp bày tỏ thái độ trước những thay đổi của cuộc đời khi con người ta dần đánh mất bản thân, những sụp đổ về tư cách đạo đức, những can thiệp thô bạo của con người đến thiên nhiên. Vì vậy, trên bề mặt những trang sách là không gian hiện thực nhưng ẩn chứa sau câu chữ là tất cả sự nhức nhối, đau đớn, xót xa. Ngoài ra, tản văn là thể loại phù hợp với nhịp sống nhanh, sôi động, hối hả của cuộc sống vào thời điểm bấy giờ, dễ dàng tái hiện nhiều mặt đời sống. Hiếm có thể loại văn học nào có khả năng bám sát đời sống và có hiệu ứng cộng cảm cao như thể loại tản văn. Các không gian chủ yếu được tái hiện trong các tác phẩm tản văn giai đoạn này rất phong phú, đa dạng, có thể kể đến như: vẻ đẹp thiên nhiên, phong cảnh, phong vị quê hương; những nét đẹp truyền thống trong phong tục tập quán, văn hóa dân tộc;… qua đó các tác giả thể hiện cảm quan về xã hội. Có thể kể đến một số những tác giả nổi bật đã để lại những tản văn có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong thời kì này như: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Mai Văn Tạo, Y Phương, Băng Sơn, Tạ Duy Anh, Đỗ Phấn, Lý Lan, Nguyễn Khắc Phê, Đỗ Chu,… Những sáng tác của họ thực sự đã làm nên sự đa diện của tản văn cũng như sự đa diện của hiện thực đời sống. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 3
Tóm tắt: Bài viết bàn luận về những biểu hiện không gian nghệ thuật trong tản văn văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 nói chung và đặc điểm không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư nói riêng. Đó là không gian để những nhà văn khai thác, bộc bạch những trải nghiệm, cá tính của bản thân, phô bày tất cả những đổi thay thời đại. Từ việc nghiên cứu về những đặc điểm không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư, vận dụng vào thiết kế bài dạy dạy học đọc hiểu các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư trong chương trình Giáo dục phổ thông 2018 với hai tác phẩm “Trở gió” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) và “Mùa phơi sân trước” (Ngữ văn 7 – Bộ sách Chân trời sáng tạo). Từ khoá: tản văn, Nguyễn Ngọc Tư, thế sự, đời tư, thiên nhiên Nam Bộ, Trở gió, Mùa phơi sân trước. Mở đầu Nguyễn Ngọc Tư là một nữ nhà văn mộc mạc, bình dị sinh ra từ mảnh đất thôn quê Nam Bộ đầy nắng và gió. Các sáng tác của chị đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ độc giả qua lối kể chuyện dung dị, dân dã, đậm màu sắc phương Nam. Trong đó, không gian nghệ thuật trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư một mặt thể hiện chất đời thường, miền quê dân dã qua những trang viết thấm đẫm tình cảm của những con người Nam Bộ chân chất, hồn hậu, mặt khác thể hiện những suy tư, trăn trở của chị về sự đổi thay của mảnh đất máu thịt này. Nếu như trước đây, Nguyễn Ngọc Tư có hơi chút “bảo thủ” khi chỉ khai thác cảnh vật, thiên nhiên quê hương mình với cái lí do “cái cảm giác mình chỉ chạm tới lớp áo ngoài của miền đất này khiến tôi nghĩ mình sẽ ở lại lâu hơn” thì càng ở những tác phẩm về sau, không gian nghệ thuật tạo cảm hứng cho nhà văn dường như đã rộng và xa hơn, thậm chí có chút “thành thị”. Thời đại mà chị đang sinh sống thật hiện đại nhưng lại gấp gáp và xô bồ, khiến nhiều lúc tưởng chừng trở nên ngột ngạt, mờ ảo, mịt mù, bó hẹp. Tất cả gói gọn trong một chữ “buồn”, nỗi buồn ấy phảng phất trong không gian như một dấu hiệu để mở ra những suy tư về con người, cuộc đời và về kiếp nhân sinh. Chính vì những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tản văn Nguyễn Ngọc Tư đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở nhiều bộ sách. Trong đó, nhất thiết phải tìm hiểu về không gian nghệ thuật trong các tác phẩm này để thấy được những đặc sắc trong không gian nghệ thuật trong tản văn văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 và giá trị của tản văn Nguyễn Ngọc Tư nói riêng. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư phần 2
Cô Hà Huyền, một giáo viên văn nổi tiếng với phong cách giảng dạy hấp dẫn và đầy sáng tạo, luôn tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa sự sáng tạo và niềm đam mê học tập. Lớp học của cô không chỉ là nơi truyền đạt kiến thức mà còn là môi trường nuôi dưỡng tinh thần chủ động và khả năng tư duy logic của học sinh thông qua việc áp dụng nhiều phương pháp dạy học đa dạng. Cô thường kết hợp thảo luận nhóm, hoạt động nhóm và các dự án cá nhân, giúp học sinh không chỉ hiểu sâu về văn học mà còn rèn luyện kỹ năng phân tích, biểu đạt ý kiến một cách rõ ràng. Sự quan tâm và nhiệt huyết trong giảng dạy của cô thể hiện qua việc cô khuyến khích học sinh tự do bày tỏ quan điểm và cùng nhau khám phá những khía cạnh mới mẻ trong từng tác phẩm. Cô Hà Huyền không chỉ chú trọng vào kiến thức lý thuyết mà còn giúp học sinh mở rộng vốn từ vựng, kỹ năng giao tiếp thông qua việc khuyến khích đọc sách và tìm hiểu từ thực tế cuộc sống. Mỗi tiết học của cô trở thành một hành trình khám phá đầy cảm hứng, nơi học sinh được tự do phát triển tư duy và kỹ năng cá nhân. Nhờ vào sự sáng tạo trong cách giảng dạy và sự tận tâm của mình, cô đã xây dựng được một lớp học văn đầy sôi động, nơi học sinh tham gia tích cực và luôn hào hứng đến lớp. Các buổi thảo luận về tác phẩm văn học mà cô tổ chức không chỉ mở rộng hiểu biết mà còn khơi gợi khả năng phân tích và tranh luận, giúp các em tự tin hơn trong việc thể hiện ý kiến và góc nhìn cá nhân. Hơn nữa, cô luôn khuyến khích học sinh đọc sách nhiều hơn, từ đó nuôi dưỡng tình yêu văn học và mở ra cánh cửa tri thức mới mẻ. Tóm lại, dưới sự dẫn dắt của cô Hà Huyền, lớp học văn không chỉ là nơi học sinh tiếp thu kiến thức mà còn là môi trường tràn đầy cảm hứng sáng tạo. Sự nhiệt huyết và phương pháp giảng dạy tương tác của cô đã biến mỗi giờ học thành một không gian đầy năng lượng, nơi học sinh không chỉ yêu thích môn văn mà còn phát triển toàn diện các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống.
Câu chuyện được mở đầu bằng một bữa ăn như thế và được tiếp tục bằng những hồi tưởng của tác giả, những suy nghĩ của nhân vật “tôi”, thời gian hiện tại – quá khứ được đan xen, không có bắt đầu cũng không có kểt thúc trong toàn bộ tác phẩm. Trong tác phẩm, nhân vật “tôi” được sinh ra trong một gia đình tướng Cộng hòa, mẹ là một bà mẹ Việt Nam mẫu mực, một anh ba là sĩ quan quân đội và một người anh tư thiên tài có trí tuệ uyên bác, nhưng lại bị tình yêu hủy hoại. Dọc theo dòng suy nghĩ là những sự kiện xảy ra trong gia đình nhân vật tôi cùng với những sự kiện lịch sử lúc bây giờ. Dường như những cảnh, sự kiện được tác giả kể chỉ là cái cớ cho những suy nghĩ, lí giải cho tâm trạng nhân vật “tôi” hoặc là những nhân vật khác. Chính vì vậy, thời gian của những sự kiện ấy không được sắp xếp theo một trình tự tuyến tính nào mà lại mang tính chủ quan. Các mốc thời gian cùng các sự kiện được sắp xếp theo dòng suy nghĩ của nhân vật “tôi”. Tác giả kể câu chuyện về cuộc gặp gỡ Bùi Giáng – một thi sĩ có chút gì đó “điên”. “Tôi” gặp nhân vật ông già ăn mày gần đại học Vạn Hạnh, ông ta đang bị đám đông bao quanh đánh, chửi bới vì đã xé rách một mảnh vải và bóp vào ngực cô bán vải. Có lẽ ông già ăn mày ấy là Bùi Giáng. Câu chuyện được nhân vật “tôi” kể có thật không? Điều đó có lẽ chỉ nhân vật “tôi” mới có thể trả lời. Tác giả viết về Bùi Giáng nhưng dường như lại không phải là Bùi Giáng. Chiến tranh đi qua khiến con người ta đau đớn, bức con người ta đến “điên”. Chiến tranh luôn là kẻ thù của nhân loại. Chiến tranh được phản chiếu vào nghệ thuật nhưng nó vẫn giữ y nguyên sự đáng sợ của nó. Tác giả kể về vụ thảm sát năm 1937 do Hitle thực hiện. Vụ thảm sát ấy đã được Picasso đưa vào tác phẩm Guernica. Bức tranh sử dụng màu đen, trắng, xám để tái hiện khung cảnh chiến tranh, trong bức tranh ấy là một con người, một con bò, ngọn lửa đang gào thét... Bức tranh đã có ảnh hưởng vô cùng lớn ở Tây Ban Nha lúc bấy giờ. Và đến năm 1974 nghệ sĩ Tony Shafraxi đã dùng sơn xịt lên bức tranh dòng chữ “Hãy giết chết bọn dối trá” để phản đối chính quyền Nixon đã tha bổng cho William Calley trong vụ thảm sát Mĩ Lai. Những con người có thật trong lịch sử, những con người yêu chuộng hòa bình vẫn luôn tìm cách phản đối chiến tranh. Câu chuyện vẫn tiếp tục với dòng suy nghĩ miên man của nhân vật “tôi”. Anh ta nghĩ về anh bạn tên Khanh, cô gái Samartha xinh đẹp cùng người tình Joe đã chết của cô ta, nghĩ về cuộc sống không lí tưởng, không hoài bão, cuộc sống mải tìm niềm vui trong những cuộc ăn chơi, những ham muốn thể xác của mình,… Trong khi đó những cuộc biểu tình vẫn dâng cao, những cái chết của những những người trẻ như Trân Văn Ơn trong phong trào sinh viên khiến cuốc biểu tình càng mạnh mẽ. Nhân vật “tôi” kể một câu chuyện gặp Trịnh Công Sơn tại nhà của ông: “Giờ ông đang ngồi trước mặt tôi, trầm ngâm và tư lự”. Những sự kiện như hòa vào với nhau, không theo một trật tự nào. Dòng thời gian của các sự kiện như những lát cắt có độ dài ngắn khác nhau, đan xen vào nhau. Trong dòng suy nghĩ của nhân vật “tôi”, thời gian hiện thực với mộng ảo, hiện tại với quá khứ hòa quyện với nhau không phân biệt được. Kết luận Trong tiểu thuyết này, ta thấy tác giả dựa trên lịch sử, trên những gì đã có thật để xây dựng một không gian, thời gian nghệ thuật, từ đó thể hiện cái nhìn của bản thân, khắc họa nội tâm nhân vật chính “tôi”. Qua không gian, thời gian nghệ thuật ấy, tác giả tập trung vào khắc họa góc khuất của chiến tranh, những suy tư của con người trong cuộc. Mạch văn của toàn tác phẩm không theo một trật tự không gian, thời gian cố định nào mà đi theo dòng suy nghĩ của nhân vật “tôi”, quá khứ - hiện tại, lịch sử - cuộc sống, sự thật - hư cấu đan xen nhau suốt toàn tác phẩm. Tác phẩm dựa trên lịch sử, lấy lịch sử làm nền tảng để xây dựng nên câu chuyện riêng. Qua đó, đọc giả thấy được được sự sáng tạo độc đáo, mới lạ của tác giả. Sở dĩ tác phẩm “Mộ phần tuổi trẻ” hấp dẫn chính là vì tác giả đã có con mắt tinh đời, biết cách nhìn lịch sử để chắt lọc tài liệu, sự kiện, nhân vật, cộng với bút lực có lửa, có hồn khi xây dựng một không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật đặc sắc là bối cảnh cho nhân vật thể hiện suy nghĩ, hành động. Huỳnh Trọng Khang đã đưa đến cho chúng ta một tác phẩm vừa mang hơi thở lịch sử lại vừa hấp dẫn lôi cuốn bởi những trang văn với sự đan xen giữ cung bậc cảm xúc của tình yêu đôi lứa, tình yêu đất nước và cả tình yêu giữa những mảnh đời đầy đau khổ, bất hạnh trong thời kỳ đất nước phân chia. “Giữa những cuộc chiến là tình yêu,” hay cũng có thể là hận thù, như nhân vật “tôi” đã tự luận giải, nhưng nhìn kỹ hơn, chẳng ý nghĩa nào tồn tại được giữa chiến tranh, như ấn tượng về những mảnh rời rạc trong Mộ phần tuổi trẻ để lại cho người đọc. Tóm lại, việc phân tích tìm hiểu về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật giúp người đọc có thể hiểu rõ hơn về các yếu tố tác động đến nội tâm, tinh thần, tâm lí của nhân vật để hiểu hơn về nhân vật và qua đó thấy được sự độc đáo, sáng tạo của tác phẩm. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 1
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ Khái quát về thời gian nghệ thuật Song hành cùng với không gian nghệ thuật chính là thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật cũng là một yếu tố quan trọng để góp phần tạo nên thế giới nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là một hình tượng nghệ thuật, là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ để thể hiện quan niệm về thế giới. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài ngắn khác nhau, với tốc độ nhanh chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại, quá khứ, tương lai khác nhau. Thời gian nghệ thuật mang tính hữu hạn (đặt trong sự đối sánh với thời gian vật chất trong cuộc sống). Nó xác định rõ ràng, mở đầu, kết thúc (là thời gian trần thuật). Thời gian nghệ thuật là thời gian mang tính chủ quan, phụ thuộc cảm nhận tâm lí, trạng thái, cảm xúc, tình cảm của con người. Thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời, con người. Việc tìm hiểu thời gian nghệ thuật là một trong những cách thức hữu hiệu nhất để đi vào khám phá giá trị tác phẩm bởi văn học là nghệ thuật thời gian. Tìm hiểu thời gian nghệ thật còn giúp ta nhìn thấy nhịp điệu cuộc sống mà nhà văn miêu tả. Không chỉ vậy mà nhờ tìm hiểu thời gian nghệ thuật, đọc giả còn hiểu được tâm trạng con người, tâm lí nhân vật. Thời gian tâm lí, đồng hiện trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ Như đã nói ở trên, tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ lấy bối cảnh Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ XX, khi đất nước đang bị phân chia 2 miền Nam, Bắc và chế độ Cộng hòa đang thống trị Miền Nam. Trong tác phẩm, do cách viết dòng ý thức, các tuyến thời gian chia cắt nhau như những đại lộ chằng chịt mà người đọc cảm thấy mình lạc lối trong chính câu chuyện, nỗi hoang mang của các nhân vật. Cảm thấy như mình bị ngập ngụa trong khói thuốc, men rượu để phiêu du cùng những suy tưởng bất tận của chàng thanh niên trẻ xưng “ tôi” cũng chính là người trần thuật – chứng nhân lịch sử. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 6
Không gian gia đình Tác giả còn khắc họa nên không gian trong gia đình nhân vật “tôi”. Nhờ đó, độc giả thấy được bi kịch thời đại đã bao chùm lên bi kịch gia đình, cá nhân. Trong gia đình “tôi”, bố “tôi” là một viên tướng Cộng hòa, chắc hẳn gia đình ấy được bảo vệ cẩn thận, nằm ngoài tầm ngắm của chiến tranh. Nhưng không chiến tranh đã tàn phá tất cả và đây lại là cuộc chiến tranh phi nghĩa và vô lí. Anh Ba tham gia chiến tranh như sự trốn chạy nghiệt ngã trước cái bất lực của sự phản bội, và để chứng minh sự nam tính của mình là sắt thép nhưng cuối cùng anh đã chết khi trong chiến tranh. Còn anh Tư vốn là người thông minh hoc giỏi, được hiều người quý mến, nhưng chỉ sau tình một đêm với Janis đã biến anh trở thành một con người hoàn toàn khác. “Tình yêu đã cướp đi nửa mạng sống của anh, còn nửa mạng còn lại anh đem nó cho chiến tranh… Anh không có lí tưởng cũng chẳng tham lam, anh bước vào cuộc chiến chỉ để chạy trốn cuộc đời, chạy trốn tình yêu… Anh trở về, một sự trở về còn nghiệt ngã hơn cả cái chết”, anh hóa điên dại và kết thúc cuộc đời mình trong căn phòng tăm tối, đóng kín cửa của mình. Thân thể anh mục giũa và thối nát hòa cùng mùi thức ăn hôi tanh, những con mối mọt gặm nhấm thân thể anh. Cái chết đầy đau đớn. Còn ai đau khổ và xót xa hơn người mẹ của họ, một người đàn bà phải chứng kiến hai đứa con trai của mình chết, cái chết do chiến tranh ban tặng. Nếu ở đầu tác phẩm nhân vật tôi nói “trước mặt tôi là chiến tranh, sau lưng tôi là chiến tranh, giữa chiến tranh là tình yêu”. Nhưng đến cuối tác phẩm giữa chiến tranh không còn tình yêu nữa mà thay vào đó là sự hận thù. Một mối tình ngang trái giữa con trai của ngài tướng quân Cộng hòa với My - người con gái biệt động, dũng cảm kiên cường. Hai con người thuộc hai giới tuyến khác nhau, họ yêu nhau nhưng chẳng thể đến được với nhau. “Nếu mãi mãi là xa cách Mãi mãi là ly biệt Đất nước Bắc – Nam hai bờ đoạn tuyệt … Phải chi đừng chia ly Không sông Gianh, Bến Hải Không kẻ ở người đi” Có lẽ họ sẽ yêu nhau và hạnh phúc nếu không có cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy. Khắc họa bối cảnh không gian thời chiến ấy cho ta thấy chiến tranh không mang lại cho ta những điều tốt đẹp, trái lại chỉ là sự chết chóc và hận thù. Nhân vật “tôi” một sinh viên ban Triết, sống bên lề của lịch sử, tưởng chừng chiến tranh sẽ chẳng thể làm anh ta tổn thương nhưng điều chẳng thể ngờ chính nhân vật “tôi” lại là nạn nhân chính của chiến tranh, phải sống trong sự đau đớn dằn vặt, hận thù và yêu thương, anh ta phải chạy trốn trên chính quê hương của mình. Bi kịch thời đại chẳng bỏ xót một ai, nó bao chùm cả nước, con dân vô tội hai bờ Nam – Bắc sống trong cảnh lầm than, chia ly. Qua những không gian được xây dựng, ta thấy được những bi kịch của một thời đại lịch sử được nhuộm bởi màu của máu và nước mắt. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 5
Người đọc có thể thấy được một thể chế chính trị đen tối cùng những âm mưu thủ đoạn chiến tranh bao chùm lên nền trời miền Nam Việt Nam. Vậy xã hội sẽ như thế nào, con người sẽ đi về đâu dưới bầu trời tối kịt ấy? Mở rộng ra, ta còn thấy tác giả đã dựng lên cả không gian rộng – đó là Sài Gòn trong giai đoạn này. Bằng mạch hồi tưởng đứt đoạn của mình tác giả cho chúng ta gặp lại một Sài Gòn trong những thập niên 1960. Ở phương Tây có phong trào tuổi trẻ nổi dậy hướng đến tự do tư tưởng, phong cách năng động cởi mở, cách sống thoáng hơn thật hơn, giải phóng tính dục khác hẳn lối sống Á Đông. Và thế là Sài Gòn đã trở thành “chốn tuyệt vời để hưởng thụ và sa ngã”, “hiện sinh của chủ nghĩa tràn ngập, bọn hippi vong thân”. Một Sài Gòn nông nổi, ngập ngụa trong men rượu, trong những thứ triết lý hư vô để trốn chạy thực tại đầy phũ phàm đầy mất mát. Trong không gian ấy, con người quằn quại, mất phương hướng. Họ cho rằng “Con người có quyền tranh ngôi với thượng đế, là siêu nhân bất diệt. Đám nhân quần sẽ phải phủ phục. Những dân tộc nhỏ mọn chỉ có thể suốt đời làm nô lệ sâu bọ. Cuộc cách mạng nào, không có một cuộc cách mạng nào cả, tất cả sẽ chết, chết hết, cho đến khi có một vị cứu tinh xuất hiện. Tình yêu là tôn giáo duy nhất của chúng ta. Hiện sinh đi, cởi bỏ lớp vỏ trần tục, trần trụi đi, ngập ngụa đi”. Nàng sơn ca Samartha luôn day dứt và dằn vặt với người bạn trai đã chết trận Joey, là nhân vật Khanh lúc nào cũng sẵn sàng tham dự vào một cuộc chiến chỉ để chứng minh mình đang sống, là Amelie không bao giừ thôi thoài nhớ về tình yêu với ngài họa sĩ của nàng. Dường như tất cả các nhân vật đều không phải là những con người hành động, họ luôn ám ảnh trăn trở, day dứt với quá khứ, muốn khao khát làm người cho xứng đáng, muốn được yêu thương hơn nữa là yêu thương người khác. Nhưng dường như tất cả đều vô vọng. Các câu chuyện các số phận cứ lần lượt đen xen nhau dệt thành những đoạn hồi ức miên man, dấp dính những biến động lịch sử. Chiến tranh vẫn đang diễn ra, tiếng súng, tiếng bom hòa chung tiếng người than khóc. Cái chết luôn sẵn sàng chào đón họ. Những con người hiện sinh của chủ nghĩa ngập tràn, sống không lí tưởng, không hoài bão, cũng chẳng đấu tranh. Họ đứng bên lề của lịch sử. Họ chìm đắm trong men rượu chếnh choáng hòa cùng làn khói thuốc mờ ảo hai màu đen trắng. Họ vùi mình vào những cuộc chơi, đám chơi và nhất là tình dục. Trong cái không gian ấy, tác giả đã lột tả lối sống “thoải mái” của bọn hippi: “Vâng, đời là thế! Nào chiến hữu, uống nhé, say nhé, rượu nữa nào, nhạc to lên. Ừ ta bao tất, uống hết đi rồi chết mê li. Những con đĩ ngựa, hãy chổng mông lên nào, kẻo chết mà không kịp hối. Này mấy con ngựa đực đáng thương, những chàng thủy thủ lạc lối sắp đắm tàu, giương buồm lên nào, tuốt vũ khí đi, chúng bây sẽ không giết ai được với cái của ấy cả, bây chỉ có thể làm người ta sướng thôi. Đời thì phải sướng chứ, tại sao phải kiềm hãm sự sung sướng. Nào cùng nhau ta gieo mầm sống ấy, phun nó ra khắp nhâ gian, xưng tụng tên Chúa nào, vì cái nền hòa bình chết tiệc, nào thì Amen”. Hay khi tác giả miêu tả tiếng cười lanh lảnh của Janis – người yêu anh ba “tra tấn những tâm hồn thiếu nữ non tơ, những trái tim gái già khao khát của những người làm công”, hơn thế tiếng cười ấy còn “khiến lũ gà mái sau nhà mắn đẻ hơn”. Và hơn thế là tình một đêm giũa cô gái phương Tây phóng khoảng ấy – người yêu anh Ba với anh Tư. Một mối tình đã hủy hoại hoàn toàn một trí tuệ uyên bác, một con người tài giỏi được tất cả mọi người yêu quý. Tác giả còn tập trung khắc họa mối tình giữa nhân vật “tôi” và Neige, họ yêu nhau bình thản như chẳng hề có chiến tranh. “Tôi” bình thản chải tóc cho Neige trong dinh tổng thống, mặc ngoài cánh cửa sắt của dinh phủ là một cuộc biểu tình đẫm máu, họ bình thản chải tóc cho nhau trong khi “tiếng súng xa xa, những chiếc dùi cui đánh tới tấp vào cơ thể co rút của một thanh niên, máu phun ra từ những cái đầu vỡ”… Họ lờ đi như chẳng có chiến tranh, lép mình bên lề của lịch sử, chỉ biết ăn, chơi, và làm tình. Thật khốn nạn! Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 4
Nội dung Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ Khái quát về không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới. Không gian nghệ thuật tồn tại trong thế giới nghệ thuật, tồn tại cùng các phạm trù nghệ thuật khác (quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, điểm nhìn)…. Mỗi nhà văn khi sáng tác luôn tự xây dựng một thế giới nghệ thuật riêng. Thế giới đó tồn tại hai trục: trục không gian và trục thời gian. Trong trục không gian và thời gian đó, con người được tạo nên như thế nào. Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, thể hiện quan niệm về mô hình thế giới của nhà văn đó. Không gian vật lí, địa lí ở ngoài chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi thể hiện quan niệm về mô hình thế giới của nhà văn. Không gian nghệ thuật góp phần tạo dựng môi trường tinh thần cho con người hoạt động, con người được bộc lộ bản thân; thể hiện chiều kích tâm hồn của người nghệ sĩ, không gian đa chiều; và còn mang đậm tính dân tộc. Không gian xã hội Trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ, tác giả đã dựng lên câu chuyện hấp dẫn về một thời kì biến động của đất nước, viết về thời kì quá vãng của cha ông, một giai đoạn với nhiều biến cố rối ren, quá nhiều sự kiện trong suốt khoảng thời gian từ cuối những năm 1950 đến năm 1989 và tập trung vào năm 1967, trước sự kiện chiến cuộc Mậu Thân năm 1968. Tiểu thuyết xây dựng dựa trên bối cảnh lịch sử thời đại, đất nước hai miền chia cắt, theo hai thể chế chính trị khác nhau. Miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thống nhất đất nước, còn miền Nam là sự nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (Mỹ gọi là Việt cộng). Miền Nam – người anh em ruột thịt của miền Bắc dưới sự thao túng của đế quốc Mỹ đã thành lập thể chế Việt Nam Cộng hòa với Ngô Đình Diệm là tổng thống đầu tiên. Sau khi Ngô Đình Diệm bị ám sát trong cuộc đảo chính do tướng Dương Văn Minh cầm đầu năm 1963, một loạt chính quyền quân sự được thành lập nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau đó nắm quyền trong giai đoạn 1967 - 1975 với một chính quyền dân sự do người Mỹ hậu thuẫn. Trong tiểu thuyết Mộ phần phần tuổi trẻ Huỳnh Trọng Khang đã hư cấu trong chính cái lịch sử không thể xê dịch, của cái đã rồi, cái người ta đã nhúng vào và không bao giờ có thể làm lại, nhất là chiến tranh. Từ đó cho chúng ta thấy rõ bi kịch thời đại: “Những đất nước bị chia cắt, những dân tộc không có quyền định đoạt số phận của mình. Những dân tộc cô đơn chịu án lưu đày trên mặt đất. Lũ thực khách phàm ăn bội bạc ngồi đây chúng quyết định cắt đôi nó. Ai cho chúng cái quyền làm điều đó, cái quyề n phân tách, chia cắt cả một dân tộc, trao vào tay hai anh em thanh kiếm và xui họ giết hại lẫn nhau”. Huỳnh Trọng Khang đã phản ánh không gian hiện thực bối cảnh xã hội hai miền Nam – Bắc lúc bấy giờ. Mượn bối cảnh không gian ấy, tác giả cất cao nên tiếng nói của chủ nghĩa nhân đạo, lên tiếng tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ bằng câu hỏi tu từ “Ai cho chúng cái quyền làm điều đó, cái quyền phân tách, chia cắt cả một dân tộc, trao vào tay hai anh em thanh kiếm và xui họ giết hại lẫn nhau”. Tội ác kinh tởm nhất của bọn đế quốc là dùng người Việt trị người Việt. Trong mỗi trận đánh, chiến lược của chúng đều thay đổi nhưng có một điều chẳng bao giờ thay đổi là âm mưu “dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Chúng gieo giắc những âm mưu, làm nảy mầm mâu thuẫn dân tộc, anh em một nhà tương tàn lẫn nhau. Và chúng – những kẻ xâm lược chỉ việc đứng sau giật dây, ngư ông đắc lợi. Thử hỏi anh em một nhà giết hại lẫn nhau, một cuộc chiến vô nghĩa liệu có ai là không xót xa? Mở đầu tác phẩm, Huỳnh Trọng Khang đã xây dựng nên không gian một bữa tiệc của những người đứng đầu phe Cộng Hòa. Qua đó, người đọc thấy rõ được bộ mặt thể chế Việt Nam Cộng hòa. Tác giả đã khéo léo xây dựng nên bối cảnh để con trai tướng quân có cơ hội ăn tiệc với ông Diệm, ông Nhu, ông Thiệu và cả các tướng lĩnh để có thể mô tả chân tướng giớ i chóp bu Sài Gòn một thời. Cảnh mở đầu này không phải chỉ đơn giản là một bữa tiệc lớn mà “ngay cả trên bàn tiệc này, người ta cũng đang âm mưu cho một cuộc chiến tranh”. Mỗi miếng ăn đưa vào miệng nhân vật lại như mở ra một phân đoạn quá khứ hay tương lai. Những miếng ông Nhu nhai trệu trạo vì thèm thuốc là dấu hiệu của một nền chính trị sau này bị đục khoét đến mọt rỗng bởi á phiện mà nền văn minh phương Tây giáng xuống cõi Á Đông này. Không có một thứ vũ khí nào lợi hại cho bằng nó, nó mạnh mẽ công phá từ cá nhân đến gia đình, đục khoét các ngân khố đến mức trống rỗng. Hay cái thủ lợn giữa bàn là điềm báo trước cảnh hàn h quyết tổng thống và ông cố vấn ngay giữa thủ đô ngụy quyền yêu dấu của ông… Như vậy, có thể thấy, không gian là yếu tố quan trọng để con người hoạt động, bộc lộ bản thân. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 3
Tóm tắt: Vấn đề nghiên cứu thi pháp học luôn là một vấn đề được quan tâm. Chỉ có tiếp cận tác phẩm từ góc độ thi pháp học mới có thể rút ra được những kết luận về phương diện nghệ thuật của văn học, giúp ta nghiên cứu văn học với tư cách là một bộ môn nghệ thuật. Tiếp cận văn học từ góc nhìn thi pháp học còn giúp ta có sự nhìn nhận đúng đắn hơn về bản chất của văn học nghệ thuật. Nghiên cứu thi pháp cho thấy nghệ thuật không phải sự mô phỏng, bắt chước mà là sản phẩm sáng tạo, mang tính chủ quan của người nghệ sĩ. Thế giới trong tác phẩm là thế giới nghệ thuật, không đồng nhất với thế giới hiện thực, là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, có điểm tương đồng nhưng không đồng nhất, có không gian, thời gian, con người riêng. Nghiên cứu thi pháp học là đi nghiên cứu về các phạm trù như cốt truyện, kết cấu, thể loại, quan niệm về con người, không gian, thời gian nghệ thuật… trong tác phẩm. Bài viết này sẽ trình bày việc phân tích phạm trù không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ của Huỳnh Trọng Khang để từ đó thấy được mối quan hệ giữa văn chương và sự thật lịch sử, thấy được sự sáng tạo của tác giả. Mở đầu Văn học bắt nguồn từ hiện thực, tái hiện lại hiện thực. Tuy nhiên khi viết văn tác giả không thể chỉ sao chép máy móc hiện thực mà phải từ cái nền tảng ấy sáng tạo nên câu chuyện của riêng mình, dưới con mắt nhìn của mình, tạo nên nét độc đáo của cá nhân. Khi sáng tạo văn học, nhà văn có quyền hư cấu những con người, sự kiện, hoàn cảnh “ngoài sử” để khắc họa thêm chiều sâu của tính cách nhân vật, dựng lên những bức tranh xã hội có dung lượng hiện thực lớn, cuốn hút công chúng. Bức tranh xã hội ấy hay còn chính là một thế giới nghệ thuật mà trong đó nhà văn thỏa sức tung tẩy ngòi bút, thả sức tưởng tượng, làm nổi bật lên những mảnh đời và số phận con người. Thế giới nghệ thuật trước hết được cấu thành bởi không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Bằng những đan xen của hiện thực và quá khứ, giữa tình yêu và chiến tranh, giữa văn chương và sự thật lịch sử, tác phẩm Mộ phần tuổi trẻ của tác giả Huỳnh Trọng Khang đã thành công xây dựng một thế giới nghệ thuật thú vị đưa đến cho bạn đọc góc nhìn hoàn toàn mới lạ nhưng không kém phần hấp dẫn, lôi cuốn. Viết về một quá vãng biến động, với lối viết già dặn nhuần nhuyễn bằng chính ngòi bút sắc sảo của mình, tác giả đã xây dựng nên không gian nghệ thuật cùng thời gian nghệ thuật đặc sắc dựa trên diễn biến của những sự kiện lịch sử, thời đại xã hội lúc bấy giờ. Đọc tiếp: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong Mộ phần tuổi trẻ phần 2