Không gian nghệ thuật trong tác phẩm “Mùa hoa cải bên sông” Không gian sông nước Bao trùm lên toàn bộ tác phẩm, Mùa hoa cải bên sông như chính cái tên của nó, là sự song hành của không gian sông nước mênh mông vô tận và không gian của cánh đồng hoa cải bạt ngàn. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh của dòng sông dưới ánh trăng lấp lánh, xuyên suốt là câu chuyện của những người sống với số phận bị ràng buộc bởi con sông đẹp đẽ ấy. Con sông ôm ấp, quẩn quanh, rồi lại ghì chặt, bóp nghẹt lấy gia đình ông Lư và những đứa con của ông. Gia đình ông Lư cả đời găn liền với dòng sông và bến Chùa, vì biến cố mà ông Lư cấm cả gia đình mình không được bước chân lên mặt đất. Ông trân quý dòng sông, dòng sông ban cho cả gia đình cái ăn, cái mặc và hơn cả dòng sông đón lấy người vợ quá cố chết vì căn bệnh quái ác của ông. Theo quan niệm văn hóa phương Đông, nước, hay dòng sông có khả năng gột rửa, thanh tẩy và tái sinh hay sự ban phước; ta có thể thấy rõ điều đó trong “Mùa hoa cải bên sông”. Trong truyện, cái chết của người vợ do bệnh dịch đã để lại ông một mình chăm ba đứa con nheo nhóc, ông Lư vì quá yêu thương mà không nỡ chôn cất người vợ của mình, để bà nằm trên mui thuyền suốt ba ngày ròng rã. Đến khi ông quyết định tìm nơi an táng cho vợ mình trên cạn thì những kẻ sống ở hai bên bờ sông xua đuổi họ như những kẻ ma quỷ gieo rắc bệnh dịch. Nén đau đớn, ông không còn cách nào khác phải nhờ đến sự đón nhận, bảo bọc của dòng sông. Ông chôn cất vợ dưới đáy sông, cùng hai đứa con trai đắp đá xanh tạo thành mộ cho người đàn bà xấu số ấy để tránh nước cuốn đi. Đến bước đường cùng, chỉ có dòng sông là đón nhận gia đình ông, nước sông vỗ về người đàn ông với trái tim quằn quại đau đớn ấy, tái tạo lại cuộc sống của cả gia đình. Nước sông cũng có khả năng thanh tẩy, gột rửa. Như ông Lư nói với Chinh khi hai cha con thấy xác người chết trôi qua thuyền: “Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai”. Đối với người đàn ông thô kệch này, dòng sông là điểm tựa tâm hồn, là thần linh với khả năng vô hạn, là đấng cứu thế cứu rỗi ông khỏi cái hiện thực đời sống trần trụi, vô cảm của những kẻ sống trên mặt đất. Ông không thể rời xa vị thần linh đó và cũng ép buộc những đứa con trong gia đình phải công nhận sự hào nhoáng, toàn năng của dòng sông. Niềm tin ấy khiến ông trở nên mù quáng, áp đặt và trở thành một kẻ điên ích kỉ giam hãm bản thân và gia đình trên chiếc thuyền chật hẹp trong mắt những đứa con, đặc biệt là thằng Cát hay đứa con gái đẹp đẽ mà hoang dại như Chinh. Không chỉ vậy trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều, dòng sông cũng bồi đắp cho tình yêu lứa đôi. Dòng sông đã kết duyên cho người anh cả của Chinh – Sỏi với con gái bạn thuyền của ông Lư, đám cưới linh đình với hàng chục chiếc thuyền kết thành bè lớn. Hơn cả dòng sông gắn kết, se duyên cho tình yêu của Chinh và Thao – một người lính đã giải ngũ. Nước sông gắn kết hai tâm hồn đồng điệu, làm tình yêu thuần khiết của họ thêm thăng hoa; nó thấu hiểu, bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu trong họ ngày càng lớn dần. Sông mang vẻ đẹp của nhựa sống căng tràn, của niềm hạnh phúc vỡ òa khi Chinh và Thao được gặp nhau, bên nhau, yêu nhau, giao hòa với nhau. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Quang Thiều, con sông cũng đen tối, nếu con thuyền là nhà tù thì dòng sông là dây xích, là song sắt, gông cùm giam hãm những đứa con của ông Lư. Khác với ông, chúng không cảm thấy thực sự có được yên bình hay cuộc sống nhất nhất phải phụ thuộc vào dòng sông, chúng bất mãn với cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh ở khúc sông nơi con thuyền neo đậu. Dòng sông là chất chứa nỗi đớn đau của định kiến, bất mãn, thù hận của ông Lư. Như Cát nói: “Chẳng có ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả…Trời ơi,…Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống!”. Đây là điểm mới mẻ, cách tân trong sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Từ chỗ nước có vai trò của sự thanh tẩy, tươi mát, cao vọng và có sức mạnh của đấng tối cao, nguồn cội mang đến sự tái sinh lại trở thành thứ nuôi dưỡng lòng ích kỉ, bao trùm khoái cảm giam hãm xấu xa, vị kỷ, đem đến cho con người ta sự tuyệt vọng, như là dấu chấm hết cho cuộc đời của Sỏi, Cát và cả Chinh. Không gian sông nước xuyên suốt tác phẩm, gắn chặt với cuộc đời của những con người sống dựa vào sông. Phải chăng, dòng sông là nguồn mạch, là cảm hứng văn chương vô tận với “nhà thơ của những cách tân truyền thống”. Dòng sông cùng vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo, dịu dàng với sóng nước lấp lánh dưới ánh trang gợi cho ta về những câu thơ trong bài “Sông Đáy” của Nguyễn Quang Thiều: “Sông Đáy chảy vào đời tôi/ Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả/ Tôi dụi mặt vào lưng người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm”. Dòng sông buộc chặt lấy tâm hồn của nhà thơ, dòng sông linh thiêng chứng kiến câu chuyện gian nan của những kiếp người. Cùng với đó dòng sông – nước gắn liền với hình tượng người mẹ bao dung, chở che, luôn dõi theo hành trình của con. Như với Chinh, dòng sông cũng giống như người mẹ, khung cảnh Chinh đắm mình trong dòng nước mát lành vào đêm trăng vui sướng, quẫy đạp, tự do cũng cho ta liên tưởng tới sự vỗ về, dịu dàng của người mẹ. Người mẹ cũng chứng kiến tình yêu, sự hoang dại, tha thiết yêu bờ của Chinh và chở che cho tình yêu của hai người. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong Mùa hoa cải bên sông phần 4
Nội dung Khái niệm không gian, thời gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”. Với PGS.TS Trần Đình Sử, không gian nghệ thuật là “hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật”. Với ông “không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó”. Không gian nghệ thuật là một “hiện tượng nghệ thuật”, một phạm trù nghệ thuật; là “sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ” nhằm thể hiện quan niệm về mô hình thế giới. Không gian nghệ thuật cũng góp phần tạo dựng tinh thần để con người bộc lộ bản thân đồng thời góp phần thể hiện chiều kích tâm hồn của người nghệ sĩ. Như với Nguyễn Quang Thiều, tuy lên thành phố sinh sống và công tác nhiều năm, nhưng chất liệu sáng tác trong văn thơ ông vẫn là không gian làng quê, nông thôn xưa cũ, nơi có làng Chùa, dòng sông Đáy quê hương. Có thể nói, Nguyễn Quang Thiều ám ảnh về quê hương - nơi có Làng Chùa và dòng sông Đáy. Bằng chứng rõ rằng, trong suốt đời hoạt động nghệ thuật của mình, nhà thơ nhà văn Nguyễn Quang Thiều không bao giờ ngừng viết về quê hương. Trong một bài phòng vấn, Nguyễn Quang Thiều từng nói: “Tôi nghĩ rằng còn rất nhiều điều ở làng Chùa mà mình có thể viết mãi không hết, viết mãi cũng chưa chạm được vào điều mình muốn viết, những điều lớn lao chứa đựng trong vùng đất nhỏ bé.” Ông luôn tâm niệm rằng trái tim và số phận của mình luôn gắn liền với con người, mảnh đất thân thuộc này “Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy/ Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ được giàn dụa nước mưa sông.”(Sông Đáy – Nguyễn Quang Thiều). Quê hương với những cánh đồng, dòng sông Đáy nước trong và nhịp sống thôn dã của những con người nơi đây là đề tài, cảm hứng bất tận trong những sáng tác sau này của Nguyễn Quang Thiều – nhà thơ của những cách tân “truyền thống”. Thời gian nghệ thuật Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học của Trần Đình Sử, tác giả đã định nghĩa cụ thể “Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật. Đó là thời gian mà ta có thể trải nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều dài hiện tại, quá khứ hay tương lai”. Vậy thời gian nghệ thuật là “một phạm trù nghệ thuật”, là “một hình tượng nghệ thuật”, là “phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật”. Đó là “sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ” để thể hiện quan niệm về thế giới. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà người đọc có thể cảm nhận được, trải nghiệm được ở trong tác phẩm với độ dài - ngắn khác nhau, với tốc độ nhanh - chậm khác nhau, với chiều dài hiện tại - quá khứ - tương lai cũng khác nhau. Thời gian nghệ thuật mang tính hữu hạn vừa mang tính chủ quan, mang tính tâm lí; phụ thuộc vào trạng thái, cảm xúc, tình cảm của con người. Thời gian nghệ thuật mang tính quan niệm/tượng trưng; là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời, về con người. Thời gian nghệ thuật giúp người đọc nhìn thấy được, cảm nhận được nhịp điệu của bức tranh cuộc sống mà nhà văn miêu tả, giúp ta tìm hiểu được tâm trạng của con người, là cách thức phân tích tâm lí của nhân vật cũng như là phương thức để ta tìm hiểu về quan niệm về cuộc sống, về con người của nhà văn. Truyện ngắn “Mùa hoa cải bên sông” Truyện kể về bi kịch của gia đình ông Lư. Vốn sinh sống trên sông nhưng trước đó khi vợ ông còn sống, gia đình ông hòa thuận với những người sống hai bên bờ, vợ ông vẫn dắt con gái đi chợ, cho con trai cả đi học. Nhưng cuộc sống tốt đẹp ấy không kéo dài lâu khi vợ ông chết do bệnh dịch, người sống trên đất liền sợ lây bệnh nên không cho ông chôn cất vợ. Hết cách, ông chỉ đành chôn vợ dưới dòng sông. Vì yêu thương vợ hết mực nên cái chết ấy đã khiến ông Lư trở thành người độc đoán, thù hận với những quan niệm ấu trĩ để rồi đẩy đời ông và các con, đặc biệt là Chinh vào một bi kịch lớn. Chinh khác với hai anh, cô mạnh mẽ và táo bạo, làm trái lời cha, Chinh lên bờ, yêu và có mang với Thao. Biết chuyện, ông Lư trở nên điên cuồng, đánh đập Chinh và nguyền rủa Thao. Kết truyện mở, để lại những ám ảnh cho độc giả, những lời thêu dệt về người đàn bà và đứa nhỏ khiến Thao ngày càng đau đớn và bất lực; cánh đồng hoa cải mỏng manh đẹp đẽ gợi ra hình bóng Chinh. Đọc tiếp: Không gian và thời gian nghệ thuật trong Mùa hoa cải bên sông phần 3
Tóm tắt: Nguyễn Quang Thiều là một nhà thơ, nhà văn nổi bật của nền văn học Việt Nam với những tác phẩm đặc sắc và cũng mang nhiều tranh cãi. Trong đó, Mùa hoa cải bên sông là một truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của tác giả. Được chuyển thể thành phim “Lời nguyền của dòng sông” và giành Huy chương Vàng Liên hoan phim truyền hình quốc tế tại Bỉ năm 1993. Tác phẩm mang đến cho độc giả nỗi ám ảnh, day dứt, một câu chuyện bi kịch đầy những định kiến, tối tăm về số phận con người. Tái hiện không gian đẹp đẽ, huyền ảo của cánh đồng hoa cải trái ngược với câu chuyện kì dị, đau thương của những nhân vật trong truyện trong thời gian đồng hiện, đảo lộn; Nguyễn Quang Thiều với lối kể chuyện tài hoa đã mở ra một thế giới, một câu chuyện vừa gần gũi, vừa xa lạ và đầy tính nhân văn. Mở đầu: Nghiên cứu không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong “Mùa hoa cải bên sông” là đi tìm cái hay, cái đẹp, cái mới lạ trong sáng tác truyện ngắn cNguyễn Quang Thiềuủa . Dưới góc độ thi pháp học, đây là hai phạm trù quan trọng để người đọc có thể nhận ra những quan niệm về con người, về cuộc sống; những tư tưởng nhân văn và phong cách sáng tạo nghệ thuật riêng biệt của tác giả. Là nhà văn/ nhà thơ nổi bật của nền văn học đương đại, các tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều đều được đánh giá cao với ngôn từ trau chuốt, tập trung vào khắc họa thế giới nội tâm nhân vật và hơn cả đó là sự dày công trong việc xây dựng không gian và thời gian nghệ thuật. Và Mùa hoa cải bên sông là một tác phẩm có giá trị như thế. Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Mùa hoa cải bên sông phần 2
Nhân vật Nhân vật con người Như đã phân tích ở trên, nhân vật “tôi” – người ba trong gia đình, chính là người kể chuyện, thuật lại toàn bộ hành trình sổ lồng của con khướu và đưa đến những quan niệm nhân sinh sâu sắc. Nhân vật đứa con thể hiện sự ngây thơ, trong sáng của mình, hốt hoảng, hoang mang lo sợ trong lần đầu tiên con khướu yêu quý sổ lồng, bỏ nhà bay đi. Rồi sau đó khi thú cưng quay về thì vui vẻ, mừng sướng khôn xiết. Những lần tiếp theo con khướu bay đi rồi quay lại nhà như chuyện bình thường, cả nhà bắt đầu cảm thấy quen thuộc với những lần du ngoan bất chợt của con khướu nhà mình. Rồi đến lần cuối cùng, khi con khướu đã tìm được người bạn đồng hành, nó quyết tâm bỏ lại lồng giam chật hẹp để đến với thế giới rộng lớn ngoài kia, để bay đến những bầu trời cao rộng hơn trong tương lai. Lúc này, dù người bố, với kinh nghiệm của bản thân, đã hiểu và chấp nhận rằng con khướu chắc hẳn không quay lại, thì người con vẫn nuôi hy vọng, ngày ngày mong ngóng chú khướu sẽ quay trở lại lồng chim ấm áp, đầy đủ kia. Nhân vật con khướu Con khướu được miêu tả với ngoại hình “không đẹp như họa mi hay sơn ca, so với con cưỡng nó cũng không bằng. Lông một màu đen, trên đầu có một cái chóp trắng, trông nó như một lão già lụ khụ lúc nào cũng đội kết. Tuy vậy, nó có ưu điểm là sở hữu giọng hót nổi bật, dễ chịu: “tiếng hót của nó vừa vui vừa xao xuyến. Những buổi chiều mệt nhọc từ ngoài đồi trở về, ngồi trên mảnh vườn nghe nó hót, lòng bỗng thấy thanh thản, thấy gần với trời đất.” Con khướu được nuôi dưỡng rất chu đáo: nơi ở của nó là cái lồng tuyệt đẹp; trong lồng có ba cái lọ sứ Tàu để đựng thức ăn thức uống; quanh lồng có cây cảnh với phong lan, tuy không mưa nắng, nhưng vẫn nhìn thấy khoảng trời mênh mông... Con khướu đem đến niềm vui, tiếng cười, những giây phút thư giãn cho cả gia đình, từ lúc nào đó con khướu đã trở thành một phần không thể thiếu trong lòng mỗi thành viên gia đình này. Con khước đã có hành động sổ lồng lần đầu tiên khiến cả gia đình hốt hoảng, đây cũng là sự kiện đánh dấu bước phát triển của hình tượng nhân vật này. Tuy nhiên, vài ngày sau nó lại trở về. Có lẽ sự “ưu ái”, điều kiện sống “thần tiên" chính là nguyên nhân để con khướu sau khi sổ lồng bay đi vẫn tìm đường trở về. Khi con khướu quay lại, mọi người trong nhà vui mừng và bàn cãi nhau về nguyên nhân. Có người bảo căn cứ vào “nhu cầu vật chất” của con khướu (quen với việc được uống nước đường); lại có người chú ý “nhu cầu tinh thần" (nó đã bị giam hãm quá lâu, bây giờ thấy cô đơn, quá nhỏ bé trước bầu trời). Cho rằng việc con khướu trở về do “yếu tố tinh thần” là cách lí giải có ý nghĩa góp phần thể hiện chủ đề của truyện. Lần thứ hai con khướu bay đi, cả gia đình không còn lo lắng, trằn trọc như lần đầu nữa. Họ tin rằng nó sẽ quay trở lại, sẽ sà vào chiếc lồng và hót vang. Có thể thấy, niềm tin ấy được dựng xây, phát triển nhờ lòng gắn kết, thấu hiểu. Cậu con trai lớn của nhân vật "tôi" lại hành động giống lần trước, mang chiếc lồng ra treo ngoài trời để đón thành viên gia đình trở về. Không ai phập phồng, trông mong từng giây từng phút khoảnh khắc con chim bay vào lồng nữa, ngoại trừ con trai út. Chuyện con khướu bay đi mất rồi quay trở về đã chẳng còn là câu chuyện li kì, hấp dẫn sự bàn tán của mọi người. Câu chuyện ấy bình thường đến mức người ta có thể bình thản đối diện, không chút vội vã hay cuống quýt. Khi con khướu cánh kề cánh cùng chim mái, bay vút lên trời cao rồi từ đó, không bay về nữa, nhân vật người con lớn vẫn kiên nhẫn chờ. Một sự đợi chờ trong vô vọng, trong tối tăm. Ai cũng tưởng rằng con chim sẽ thuộc lối về, bay đi rồi bay về. Nhưng không, ở thế giới bao la ngoài kia, nó đã tìm được nơi đáng sống. Cuối cùng, giống như bao lần trước, chỉ có người ba - nhân vật "tôi" mới thực sự bừng tỉnh và thấu hiểu. "Tôi" cảm thấy bản thân có thể cho nó chiếc lồng đầy đủ, tiện nghi nhưng không thể cho nó tự do và đôi cánh tình yêu. Sau cùng, chim thì phải bay, phải cất cao đôi cánh tự do trên bầu trời xa xăm kia. Những ý nghĩ của "tôi" ở kết thúc truyện đã cho thấy nhận thức đúng đắn của nhân vật. Nhà văn khéo léo đan cài tạo sự so sánh giữa chi tiết tiếng hót của con chim ở trong lồng và khi nó thoái ra ngoài, có người bầu ban. Ở trong lồng, tiếng hót của con khướu: “vừa vui vừa xao xuyến”. Tiếng hót của nó khi bay lượn giữa trời: “Tiếng hót của đôi chim rộn rã quấn quýt như tiếng cười tiếng khóc trong giọng rối rít của đôi tình nhân hàng thế kỉ mới tìm gặp nhau, vừa xôn xao vừa vang động cả trời chiều”. Như vậy, sống trong lồng, tiếng hót của con khướu có vẻ cô độc; khi sổ lồng bay đi, tiếng hót của con khướu không còn là tiếng hót cô độc của mình nó nữa, mà là bản hoà ca của đôi chim tự do bay lượn giữa bầu trời mênh mông. Sự khác nhau giữa hai kiểu hót cho thấy, chỉ khi tự do, con khướu mới thực sự là nó, nghĩa là mới thể hiện tất cả những tố chất đặc biệt của nó, qua tiếng hót. Hình tượng con khướu tượng trưng cho những con người hiện đại đang bị trói buộc vào những mối quan hệ, những sự ràng buộc mà không thể tìm đến với tự do. Truyện ngắn không chỉ nhắc nhở mọi người bài học về tình yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với tự nhiên mà còn ẩn chứa trong đó thông điệp: hãy cố gắng bứt phá, thoát khỏi vòng kìm kẹp giam hãm để đến với tự do, hạnh phúc mà chúng ta hằng mong cầu. Tổng kết Qua việc sử dụng thi pháp học thể loại để phân tích tác phẩm “Con khướu sổ lồng” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, ta thấy được rõ nét những đặc trưng của thể loại truyện ngắn được thể hiện trong tác phẩm. Từ đó, ta dễ dàng vận dụng được trong việc soạn giáo án, định hướng học sinh tìm hiểu tác phẩm, rút ra đặc trưng thể loại truyện ngắn và áp dụng vào việc đọc hiểu những văn bản truyện ngắn tiếp theo. Đọc tiếp: Vận dụng thi pháp học vào dạy học văn bản Con khướu sổ lồng phần 1
Điểm nhìn, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật Truyện “Con khướu sổ lồng” được kể theo ngôi thứ nhất, người kể xưng “tôi” chính là nhân vật người ba trong gia đình. Người kể chuyện tham gia vào các sự việc, nên có thể bao quát cảm xúc, hành vi của các nhân vật khác cũng như tái hiện khách quan các sự việc xảy ra. Trong truyện, người kể chuyện đã trưởng thành, đã lớn, nên có đủ khả năng để lý giải các sự việc bên cạnh việc tái hiện. Khi lần đầu tiên con khướu sổ lồng, “tôi” cảm thấy hụt hẫng, các con thì hốt hoảng, hoàng mang. Lúc con khướu bay trở về thì các nhân vật đều vui vẻ, sung sướng: “Cả nhà reo lên.” Sung sướng khi chim quay lại, sung sướng khi đã đưa chim quay lại cái lòng: “Cả nhà vừa lao ra vừa reo lên”. Nhưng riêng người ba trở nên suy tư, trầm ngâm về việc cái lồng giam hãm chim khướu quá lâu khiến nó chới với khi bay ra ngoài. Khi chim khướu sổ lồng lần thứ hai: các nhân vật không lo lắng như lần trước, vì đoán thế nào chim cũng quay trở về. Khi biết chim khướu không quay trở về nữa: người con trai vẫn kiên nhẫn chờ đợi, ngóng trông mong chim khướu bay trở lại, còn người ba đã thấu hiểu và chấp nhận sự thật. Việc đặt điểm nhìn từ nhân vật người ba có tác dụng khái quát cảm xúc của cả gia đình, với tư cách là người thân, một người từng trải và có nhiều kinh nghiệm sống, nhân vật “tôi” có thể đúc kết ra những triết lý, bài học cuộc sống từ việc đi tìm lại tự do của con khướu khi nó khước từ cuộc sống tuy nhàn nhã mà ngột ngạt trong lồng cũi. Về ngôn ngữ trần thuật, truyện ngắn “Con khướu sổ lồng” sử dụng đan xen ngôn ngữ đối thoại và độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ đối thoại thể hiện qua những cuộc hội thoại giũa các thành viên trong gia đình qua những lần con khướu sổ lồng bay đi mất, rồi lại quay về, và tiếp tục đi kiếm tìm sự tự do trên bầu trời rộng lớn. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm được thể hiện ở nhân vật “tôi” – người ba trong tác phẩm, hiện diện trong câu chuyện, vừa là người quan sát, bộc lộ những nhận xét từ cách cảm nhận, suy nghĩ, dự đoán riêng của mình. Mặc dù rất quý con khướu và muốn tận hưởng cảm giác thanh thản yên bình mỗi khi nghe nó hót trong lồng, nhưng qua những ý nghĩ đó, dường như nhân vật “tôi” lại thể hiện sự “đồng tình” với việc sổ lồng của con khướu. Có hai lần độc thoại nội tâm thể hiện quan điểm của “tôi”, lần đầu tiên là khi con khướu quay trở về nhà trong niềm hân hoan chào đón của cả gia đình: “Riêng tôi, tôi nghĩ khác nhưng không nói. Nói đến tự do, người ta thường nghĩ đến đôi cánh. Khi nói đến đôi cánh, người ta thường nghĩ đến sự tự do, đôi cánh với tự do như đồng nghĩa. Con Khướu này, đôi cánh của nó đã dang ra bay vút trên bầu trời tự do rồi, sao nó lại khép cánh trở lại cái lồng nhỏ hẹp này. Có lẽ cái lồng này đã giam hãm đôi cánh nó quá lâu, khiến đôi cánh nó chới với và cái lồng ngực của nó bị ngộp thở trước cảnh mênh mông của đất trời. Có lẽ nó bỗng thấy cô đơn, bỗng thấy mình quá nhỏ bé giữa bầu trời?”. Lần thứ hai là khi con khướu đã quyết tâm rời xa lồng tìm đến nơi tự do mà nó thuộc về, nhân vật người ba cũng rút ra những chiêm nghiệm quý báu: “Lần này nó có đôi cánh của tình yêu, đôi cánh tình yêu đã đưa nó về với cảnh thênh thang của đất trời. Và nó là chim, mà chim thì phải bay. Chim bay...”. Thái độ của nhân vật “tôi” giúp người có thể rút ra được ý nghĩa của tác phẩm: Con người sống cần phải có tự do, phải sống là chính mình. Cần phải vượt qua giới hạn của bản thân để thoả sức tung bay trên bầu trời rộng lớ n. Dường như, tác giả đã gửi gắm tiếng lòng, tư tưởng nhân sinh của mình qua những lời bộc bạch, phát biểu của nhân vật “tôi” trong tác phẩm. Về giọng điệu, tác giả kể lại với giọng điệu nhẹ nhàng, khoan thai, chậm rãi nhưng chứa đựng trong tác phẩm nhiều triết lý, bài học nhân sinh sâu sắc. Thời gian, không gian trần thuật Không gian trong tác phẩm chủ yếu chia thành không gian trong nhà nhân vật “tôi”, nơi có lồng giam con khướu và không gian bầu trời cao rộng – nơi con khướu bay đi để tìm về với tự do. Hai không gian lồng chim và bầu trời đối lập, tương phản, do đó khi con khướu sổ lồng, quyết định bay về với bầu trời cao rộng, nơi vốn thuộc về nó, điều đó thể hiện khát vọng mong cầu tìm được tự do, hạnh phúc cá nhân. Thời gian trong tác phẩm là thời gian tuyến tính, truyện ngắn được kể theo trật tự thời gian, các sự kiện lần lượt nối tiếp nhau. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc hành trình sổ lồng, thoát kén, quay trở về nhà cũ rồi lại tiếp tục bay đến những chân trời cao rộng mới của con khướu. Từ cuộc hành trình ấy, nhà văn phát biểu lên những tư tưởng, triết lý mình đúc kết được từ cuộc sống. Đọc tiếp: Vận dụng thi pháp học vào dạy học văn bản Con khướu sổ lồng phần 4
Nội dung Kết cấu cốt truyện “Con khướu sổ lồng” được viết theo cốt truyện đơn tuyến. Câu chuyện kể về gia đình nhân vật “tôi” có nuôi một con khướu hót rất hay. Trong lần sơ ý, con chim đã sổ lồng khiến cả nhà ai cũng lo lắng. Buổi chiều hôm sau, con chim đã quay lại với chiếc lồng. Thế nhưng, lần thứ hai, nó không trở về nữa. Qua câu chuyện về con chim khướu, tác giả muốn ngầm nhấn mạnh một quy luật của tự nhiên: tạo hóa cho loài chim với đôi cánh là để bay. Vậy nên, nơi ở của nó phải là bầu trời chứ không phải cái lồng. Từ đó, nhắc nhở mọi người bài học về tình yêu, lối sống hòa hợp với tự nhiên. Tác giả xây dựng cốt truyện nhẹ nhàng nhưng vẫn thành công trong việc mang đến giá trị tốt đẹp cho độc giả. Đầu tiên, tác giả giới thiệu hình ảnh chú khướu của gia đình “tôi” với không gian sống “nuôi trong cái lồng tuyệt đẹp, mái lồng như mái đình, quan h lồng được chạm trổ hình hoa văn”. Nơi ở của khướu sung sướng tới mức có thể khiến cho những con chim khác phải ghen tị. Chiếc lồng là nơi khướu không phải lo mưa, nắng và còn có cả thức ăn, nước uống đủ đầy. Đọc đến đây, chúng ta đều nghĩ rằng đó là môi trường sống thật đầy đủ, hoàn mĩ. Con khướu thật may mắn khi được bao bọc trong sự an toàn, hưởng thụ cuộc sống yên bình đến thế. Vậy chắc hẳn, nó phải thấy hạnh phúc và mãn nguyện? Không chỉ miêu tả nơi ở, tác giả còn miêu tả ngoại hình của khướu. Hình ảnh con khướu được giới thiệu trong câu chuyện không phải quá đẹp đẽ “lông một màu đen, trên đầu có một cái chóp trắng”. Nhưng điểm đặc biệt thu hút người khác đó chính là tiếng hót vừa vui, vừa xao xuyến lòng người của nó. Những buổi chiều mỏi mệt, nhân vật “tôi” chỉ cần lắng tai nghe âm thanh đó là bỗng thấy lòng thanh thản hơn. Khướu được sinh ra từ tự nhiên, là loài chim với đôi cánh để bay. Cho nên trong nó luôn khát khao sự tự do. Vậy nên, khi thằng con lớn của nhân vật “tôi” sơ ý mở cửa ra, khướu đã bay vút đi “dang cánh bay thẳng lên bầu trời như một mũi tên”. Cách nó bay lên thể hiện sự dứt khoát, khao khát tự do đượ c trở lại thế giới của mình. Trước sự việc con khướu sổ lồng, cả gia đình nhân vật “tôi” ai cũng thấy trăn trở, thiếu vắng. Đặc biệt là thằng con út cứ thao thức rồi hỏi ba “Ba ơi! Trời mưa lại có gió nữa, con khướu bay đi, nó có sao không ba?”. Có lẽ, cả nhà nhân vật “tôi” có tâm trạng như vậy bởi họ coi con khướu là một thành viên không thể thiếu. Và giây phút con khướu quay trở về cả nhà ai cũng reo lên, vui mừng. Lí do mà nó trở về với cái lồng có thể như cách nghĩ của nhân vật “tôi”. Cái lồng đã giam hãm đôi cánh quá lâu khiến cho nó cảm thấy cô đơn, nhỏ bé trước cái bao la, rộng lớn của trời đất. Qua lần sổ lồng đầu tiên, ta tưởng chừng chú khướu sẽ không bao giờ bay đi nữa. Thế nhưng, chú khướu vẫn có lần sổ lồng thứ hai. Khác với lần thứ nhất, lần này mọi người không còn lo lắng như trước nữa và đoán rằng lần này nó sẽ lại bay về. Thằng con trai lớn của nhân vật “tôi” lại treo cái lồng ra ngoài trời chờ đợi. Chỉ có riên g thằng út là háo hức tìm chỗ rình xem. Lần thứ hai, chú khướu trở về vẫn vang lên một tiếng hót quen thuộc. Nhưng khoảnh khắc chú đang lao xuống thì nghe thấy tiếng hót của con chim lạ và quyết định của chú khướu đã thay đổi, nó “ưỡn ngực, dựng ngược đôi cánh xiên thẳng lên cái nền xanh của bầu trời” vừa bay vừa hót. Có lẽ, tiếng hót của đồng loại đã tiếp thêm cho nó dũng khí để trở lại với thế giới tự do, bản lĩnh để sải cánh bay khỏi chiếc lồng chật hẹp. Đọc tiếp: Vận dụng thi pháp học vào dạy học văn bản Con khướu sổ lồng phần 3
Tóm tắt: Thi pháp học là một phạm trù quan trọng trong nghiên cứu văn học. Hiện nay, việc ứng dụng thi pháp học thể loại trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học là điều vô cùng cần thiết. Trong bài này, tôi vận dụng lý thuyết thi pháp thể loại để hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm “Con khướu sổ lồng” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Từ khoá: thi pháp học thể loại, “Con khướu sổ lồng”, Nguyễn Quang Sáng Mở đầu Thi pháp học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật, tìm hiểu các yếu tố đã góp phần tạo nên tính độc đáo của tác phẩm văn học. Đó là các thành tố về con người, thời gian, không gian, hình tượng tác giả, thể loại…, tất cả góp phần tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Xem xét một tác phẩm văn học dưới góc nhìn thi pháp học thể loại là một phạm vi được nghiên cứu tương đối phổ biến và giúp tạo ra một cách thức mới trong việc tiếp cận văn học. Với phương thức tiếp cận này, các tác phẩm được soi chiếu một cách toàn diện và tập trung vào những đặc trưng thể loại, từ đó thấy được giá trị bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Truyện ngắn “Con khướu sổ lồng” là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Quang Sáng, hiện được đưa vào sách giáo khoa lớp 10 làm ngữ liệu để học sinh tìm hiểu thể loại truyện ngắn. Ở trong bài viết này, tác phẩm được khai thác chủ yếu thông qua các đặc trưng của thể loại như kết cấu cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật, không – thời gian giới hạn và nhân vật. Từ đó, truyện được khám phá một cách có hệ thống, giúp tác phẩm được nhìn nhận một cách sâu sắc hơn. Đọc tiếp: Vận dụng thi pháp học vào dạy học văn bản Con khướu sổ lồng phần 2
Nhân vật hiện lên trong cảnh như thực, tính cách suy nghĩ hợp với bối cảnh khiến người đọc không thể không nở một nụ cười khi đọc những vần thơ này. Cả chàng trai và cô gái trong bài thơ đều dùng những từ ngữ tả hình ảnh của thế giới hữu hình để gợi, để diễn tả thế giới tình cảm vô hình. Nhiều khoảnh khắc trong chuyến đi ta cảm giác như cả hai đắm chìm trong mộng, trong trạng thái mơ màng của những rung động tình cảm nhưng những âm thanh của cuộc sống lại đưa ta trở lại với cảnh sắc thiên nhiên thực tại. Người đọc cứ lần theo mạch chuyện được nhân vật kể lại hết sức chân thực và hồn nhiên đến ngộ nghĩnh, ta dần bị cuốn vào thế giới tâm tình rất đỗi đáng yêu và thú vị của cô gái, không chỉ trong các chi tiết về lễ hội và phong cảnh, mà quan trọng hơn nhiều là mối tình mới nhóm trong lòng cô gái dành cho chàng văn nhân "tướng mạo trông phi thường", một mối tình đầy chất sét đánh, đến ngay vào tuổi đầu đời lại diễn ra giữa một cảnh trí say lòng và nên thơ hiếm có. Có thể nói, người kể chuyện đã dựng dậy mọi biểu hiện vừa diễn ra rất nhanh, nhưng vẫn có trật tự, lớp lang của một quá trình của một cảm xúc tình yêu. Kể ra thì dài dòng, nhưng tựu trung là câu chuyện gồm hết các cung bậc tình cảm; từ cảm mến ngạc nhiên, đến bất chợt "ngẩn ngơ", từ một thứ cảm tình tựa như duyên số không thể cắ t nghĩa, đến nhận thứ lý tính "Chàng cũng cho như thế - Ra ta hợp tâm đầu", từ niềm vui thầm khấp khởi khi lửa tình mới nhóm: .. “Đêm hôm ấy em mừng! Mùi trầm hương bay lừng. Em nằm nghe tiếng mõ Rồi chim kêu trong rừng. … Em nghe bỗng rụng rời! Nhìn ai luống nghẹn lời! Giờ vui đời có vậy Thoảng ngày vui qua rồi!”… “Ngày vui qua rồi” dường như là một thứ định mệnh khắc nghiệt cho những điều đang diễn ra quá đẹp, cõi mộng dừng lại cũng chẳng cũng chẳng thể đổ nguyên do vì đâu. Âm “ừng” kết thúc khổ thơ khiến cho câu chuyện đang vui bởi những lời thơ ngân nga giai điệu tươi vui bỗng khựng lại bởi thực tại. Quãng thời gian mộng kết thúc là dấu lặng cho không gian mộng, khúc hát mộng. Thơ Nguyễn Nhược Pháp giàu tính nhạc là vì vậy. Cuộc vui nào cũng có những khoảng lặng làm điểm nhấn ngân nga hướng đến hồi kết. Nhưng cái kết của Nguyễn Nhược Pháp không sầu muộn, khổ đau tuyệt vọng như các nhà thơ đương thời mà ông gieo vào lòng người đọc một chút bồi hồi, một chút lo lắng khắc khoải và cả những tín hiệu, những dự đoán về một tương lai Trời – Phật sẽ đưa con người tới với lẽ công bằng của tao hóa: … “Ngun ngút khói hương vàng Say trong giấc mơ màng Em cầu xin Giời Phật Sao cho em lấy chàng… …Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện.” Lời tiên đoán kết cục vui vẻ, tinh nghịch và có duyên đến nỗi mấy lời chú thích ấy đã thành ra một bộ phận không thể tách rời của bài thơ. Điệu nhạc đang trầm, tâm tư đang tiếc nuối được cởi nút thắt đầy tinh tế, sáng tạo. Nó tạo ra điểm nhấn duyên dáng, đáng yêu cho cả bài thơ làm độc giả bao thế hệ đắm say, lưu luyến mãi. "Văn tức là người" - chỉ với một bài thơ xinh xắn và có duyên như bài thơ này, thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp đã khiến hậu thế yêu mến chàng biết chừng nào, nhất là khi ta biết chàng trai đa cảm, đa tài và tinh tế nhường ấy lại phải giã biệt cõi đời quá sớm. KẾT LUẬN Nguyễn Nhược Pháp (1914 – 1938) là một thi sĩ tài năng trong thơ ca cận hiện đại Việt Nam. Tuy quãng thời gian hoạt động thơ ca của Nguyễn Nhược Pháp ngắn ngủi nhưng hồn thơ ông chứa đựng cả một gia tài về tình yêu thương và những nét đep văn hóa phương Đông. Thơ ông lãng mạn nhưng chân thực, sống động, giàu cảm xúc. Ngòi bút tinh tế của ông đã chạm đến những vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn mỗi con người, hồn thơ trẻ trung nhưng sâu lắng, có bề dày tri thức ấn tượng. Thơ ông là kết tinh vẻ đẹp của văn hóa phương Đông và phương Tây. Kết quả của sự kết hợp ấy chính là những vần thơ mới lạ trong thế giới thơ vừa chân thực, vừa lãng mạn tươi sáng; vừa hiện đại vừa ngợi ca tính dân tộc sâu sắc. Nếu như số phận cuộc đời không lấy mất Nguyễn Nhược Pháp thì có lẽ độc giả sẽ còn biết đến, quý trọng ông như một nhà thơ, nhà văn tài hoa hơn nữa. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 1
Ngôn từ của thế giới nội cảm và giàu biểu tượng, tính nhạc: Nguyễn Nhược Pháp là một trong những nhà thơ khơi nguồn cho thơ ca lãng mạn hiện đại nhưng ông vẫn mang đến cho thơ mình hơi thở của cuộc sống thực tại qua hệ thống ngôn từ đầy gợi cảm, tượng trưng và mang âm hưởng, giai điệu của tình yêu con người, yêu cuộc sống và những yếu tố văn hóa dân tộc. Bài thơ “Chùa Hương” không phải ngẫu nhiên được xếp vào hàng những bài thơ hay, nội dung của nó rất dài nhưng ý thơ tất cả đều sáng tỏ, người đọc sễ nhận ra cái hay trong rất nhiều chi tiết và có nhiều câu chữ thần tình mang tính đặc thù, dễ hiểu dễ nhớ nhưng để lại nhiều vương vấn, suy tư. Trước hết, nét đặc sắc của bài thơ nằm ở chỗ hình thức của nó là bài thơ nhưng nội dung lại như một câu chuyện nho nhỏ, bài thơ kể chuyện. Tính hấp dẫn, mới lại của bài thơ cũng đến từ tính truyện của bài thơ này. Cốt truyện trong bài thơ được nhìn từ lăng kính của cô gái, trong vai người kể chuyện “ngày xưa”. Qua lời kể, người đọc biết rằng cô gái chừng 15 tuổi, đang ở độ tuổi mới lớn và cảm giác có lẽ cô được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nề nếp, gia giáo bởi lời ăn, tiếng nói, cách cảm, cách nhìn nhận của cô đầy sự tinh tế, chỉnh chu, nhã nhặn. Vẫn còn đâu đó cái nhìn hồn nhiên, sự ngây ngô của một thiếu nữ lần đầu tiên được đi chơi xa, đi chảy hội ở một không gian rộng lớn như chùa Hương. Trong bài thơ Chùa Hương, tác giả nhắc đến những hình ảnh có thực và sử dụng cả những hình ảnh ước lệ nhưng là gợi nhắc trong tâm tưởng, trong trí nhớ để diễn đạt những ý niệm mà người đọc cần phải dùng các giác quan, thậm chí cả trực giác để nắm bắt, cảm nhận. Những hình ảnh, những cảm xúc trong bài thơ này không chỉ là sự khách thể hóa một cảm xúc của cái tôi trữ tình; không phải là những hình ảnh dễ dựng lại bằng hội họa, cũng không thể nói nó được nắm bắt cụ thể bằng giác quan nào; cũng không thể giải tích mạch lạc bằng lý trí. Người đọc chỉ có thể cảm nhận vẻ đẹp lung linh, đa nghĩa bằng trực giác thông qua sự chiêm nghiệm của tổng hòa các giác quan mà thôi. Mỗi lần đọc bài thơ, người học lại một lần được sống, được khám phá lại cuộc sống thời dĩ vãng xưa. Nguyễn Nhược Pháp không chỉ tài tình khi tái hiện lại được không gian mộng, cảnh sắc xưa mà còn tái hiện lại cả tâm hồn, tình cảm của con người thời son trẻ ngày xưa đầy ngây thơ, trong sáng, đáng yêu vô cùng: … “Em đi, chàng theo sau Em không dám đi mau Ngại chàng chê hấp tấp Số gian nan không giàu… … Em mơ, em yêu đời, Mơ nhiều... Viết thế thôi Kẻo ai mà xem thấy Nhìn em đến nực cười”... Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 8
Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ tự nhiên, giản dị Với sự nhạy cảm và tinh tế trong lời viết của mình, Nguyễn Nhược Pháp đã tạo ra những bài thơ trữ tình đầy cảm xúc và sâu sắc, giúp cho người đọc cảm nhận được tình yêu và những cảm xúc trong đó một cách chân thật và tình cảm. Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp đã ghi danh vào lòng người đọc với tình cảm và lòng yêu mến sâu sắc. Tài năng đa dạng, tâm hồn nhạy cảm và sự tinh tế của ông để lại dấu ấn khó phai trong lịch sử văn học Việt Nam. Ngôn từ trong thơ rất tự nhiên, gần với ngôn ngữ của tiếng nói giúp gợi nên một thế giới mang vẻ đẹp lạc quan vừa mơ màng, vừa sống động, chân thực và chi tiết đến ngỡ ngàng. Cụ thể, khi đọc bài thơ bài thơ Chùa Hương ta thấy nội dung của bài rất dài, nhiều câu từ chi tiết và chân thực đến thần tình, tất cả đều được tái hiện lại sáng rõ như những sự việc ấy đang diễn ra trước mắt độc giả. Bởi vậy, toàn bộ bài thơ giống như một câu chuyện được kể theo hình thức thơ dưới con mắt quan sát của nhưng người trẻ trung vậy. Trước đây, trong văn học trung đai Việt Nam đã có tác phẩm mang dấu ấn như vậy như: truyện Kiều (Nguyễn Du),…Tuy nhiên, truyện Kiều mượn lại tích cũ và sử dụng thể thơ luc bát để thuật lại cốt truyện nên không tránh khỏi việc bị gò bó trong nội dung tư tưởng văn hóa trung đại và hệ thống niêm luật của thơ cũ quy định. Những biến chuyển trong tiếp biến giữa văn hóa phương Đông và phương Tây ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đã tạo ra nhu cầu muốn thoát khỏi vỏ bọc nhân thế hoài cổ, tìm đến những lối viết mới mẻ hơn. Vì vậy, bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp đã đáp ứng phù hợp với nhu cầu của độc giả thời đại lúc bấy giờ. “Khăn nhỏ, đuôi gà cao Em đeo dải yếm đào Quần lĩnh, áo the mới Tay cầm nón quai thao”… … “Thuyền nan vừa lẹ bước Em thấy một văn nhân. Người đâu thanh lạ nhường! Tướng mạo trông phi thường. Lưng cao dài, trán rộng. Hỏi ai nhìn không thương?”… Đọc bài thơ Chùa Hương, ta thấy Nguyễn Nhược Pháp viết thơ theo lối tự nhiên, dung dị, phóng khoáng, không hề có dấu vết của việc gọt dũa câu từ, khác hẳn với lối mòn của thơ ca trung đại. Tác giả không sử dụng nhiều biện pháp tu từ, nếu có sử dụng thì các phép tu từ thường giản đơn, mềm mại. Nhờ vậy cả bài thơ gần gũi như một câu chuyện thú vị nho nhỏ, ý tứ rất trong trẻo, dễ gần, dễ phải lòng yêu mến mà lại tạo sự nhớ nhung, thiện cảm sâu sắc. Ngôn từ mới mẻ làm lạ hóa nội dung xưa cũ: Thơ Nguyễn Nhược Pháp có chủ đề xuất phát từ vấn đề truyền thống. Bài thơ “Chùa Hương” cũng bắt nguồn từ cảm hứng một câu chuyện kể về buổi du xuân trong lễ hội chùa Hương, một điểm đến tâm linh nổi tiếng ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách dẫn truyện, lời lẽ trong từng câu thơ lại gợi cho người đoc nhiều suy tư khác lạ, không sáo mòn như trong thơ ca cổ. Cả bài thơ giống như một bức tranh không gian đa chiều đẹp đầy mộng ảo, rất thơ, rất tình cảm và non trẻ. Tài năng của nhà thơ thể hiện ở chỗ, Nguyễn Nhược Pháp tạo ra sự kết hợp từ ngữ rất mới, táo bạo nhưng không gây sốc, trái lai rất dễ chịu, mang hơi thở êm dịu của thời đại. Ông dày công tạo nên nhân vật trữ tình với diện mạo mới trẻ trung, không còn già nua, u sầu với nhân tình thế thái nhưng cũng không hề Tây hóa; vẫn giữ nét rất duyên dáng trong tổng hòa giữa mối quan hệ mang vẻ đẹp truyền thống nhưng lại toát lên nét hóm hỉnh, hồn nhiên, trong sáng và quan điểm hiện đại về tình yêu, về cái tôi rõ rệt, đĩnh đạc trong hành động ứng xử. Đó chính là biểu hiện mang tính lãng mạn, tính hiện đại, là luồng gió mới lạ đối với người đọc. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 7
Những cách tân của Nguyễn Nhược Pháp trong nghệ thuật Thơ mới: "Với vài ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Thơ ông đậm đà những nét phong tục xưa, những nếp văn hoá truyền thống được thể hiện qua những nét tinh tế mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc nhưng không thể thấy dấu tích một nhà thơ xưa nào. Người mất năm 24 tuổi, tấm lòng trắng trong như hồi còn thơ" - Hoài Chân. Bằng những phác họa giản đơn, tác giả đã làm sống lại một thời xưa đậm đặc vẻ đẹp văn hóa truyền thống. Thơ ông không mang dấu tích thi pháp của bất kỳ nhà thơ nào trong quá khứ. Bằng ngôn ngữ thơ hiện đại, thể thơ tự do mới lạ, ông lại để lại cho người đọc một tấm lòng trắng trong như chính nghệ thuật thơ mới còn non trẻ. Về thể loại: Trong số các sáng tác thơ của Nguyễn Nhược Pháp, đa phần các bài thơ được ông sáng tác theo thể thơ tự do năm chữ. Thể thơ của bài thơ “chùa Hương” cũng thuộc thể thơ này. Do đó, hình thức thơ trong thơ Nguyễn Nhược Pháp không còn bị gò bó như trong thơ ca Việt Nam trung đại. Bên cạnh những hình ảnh, cấu tứ truyền thống, những ý tứ hiện đại cũng được tác giả đưa vào bài thơ một cách tự nhiên, có trình tự hợp lý. Mạch thơ nhờ vậy được mở rộng, tứ thơ bay bổng, giàu tình ý thiết tha, trong sáng, góp phần tao nên hồn thơ mới thanh khiết, tươi mới nhưng cũng đầy rạo rực, sâu sắc, say mê. Với những sáng tạo mới mẻ, Nguyễn Nhược Pháp đã góp những nền móng quan trọng, tích cực vào diện mạo của thơ ca Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX trên phương diện thể loại. Bằng những thay đổi mới lạ trong việc phá vỡ hình thức câu thơ, vần luật không gò bó như hình thức thơ truyền thống để tạo cho thơ mới một sức sống, một linh hồn mới giàu tính nhạc, thơ mộng; là cầu nối vừa mang âm hưởng truyền thống, vừa hiện đại. Tài năng và sự sáng tạo của ông đã góp phần tạo nên đăc trưng của Thơ mới. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 6
Nhận diện hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương: Hình tượng Nguyễn Nhược Pháp trong cái tôi lãng mạn, trữ tình, nhạy cảm và tinh tế của bài thơ: Khi đọc bài thơ, người đọc sẽ thấy toàn bộ nội dung bài thơ nói về tập chung miêu tả về hai nhân vật trữ tình: Ngay từ đoạn thơ đầu tiên, Nguyễn Nhược Pháp đã tả về nhân vật trữ tình thứ nhất là một cô gái trẻ tinh khôi, thanh tao và đằm thắm, tạo cho người đọc một cảm giác thanh tịnh, yên bình. Hình ảnh của Chùa Hương và hoa cỏ mờ hơi sương làm tăng thêm vẻ đẹp của nhân vật, tạo nên một không gian lãng mạn và thơ mộng. Đến đoạn thơ thứ hai, tác giả miêu tả về nhân vật trữ tình là một chàng trai trẻ nhạy cảm và tinh tế trong cách thể hiện tình cảm của mình. Sự nồng nàn và chân thành trong tình yêu của chàng trai được diễn tả rất chân thật và cảm động, tạo cho người đọc một cả m giác sâu lắng và tình cảm. Nhân vật chàng trai này khi mang đối chiếu với giai thoại về hoàn cảnh ra đời của bài thơ phải chăng đó chính là hình ảnh của thi sĩ trẻ tuổi Nguyễn Nhược Pháp? Ông đã mượn bài thơ để nói, để miêu tả tình cảm của mình đối với cô gái 15 tuổi. Trong bài thơ Chùa Hương, chân dung người thiếu nữ hiện lên không chỉ đằm thắm mà còn rất trang nhã, không uỷ mị nhưng vẫn rất nồng nàn, và trữ tình nhưng rất tinh tế. Tất cả những phẩm chất tinh tế này đã làm cho thực tại và tâm hồn hài hoà với nhau, tạo nên một vị trí đáng kể cho bài thơ Chùa Hương trong thế giới văn chương. Ngay ở đoạn thơ đầu tiên trong bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp đã tạo cho người đọc cảm giác rất sâu lắng và thiện cảm khi miêu tả về nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình được nhắc đến tả là một cô gái trẻ thanh tao, tinh khôi và đằm thắm, khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh của một thiếu nữ đang trong giai đoạn tuổi trưởng thành: “Hôm nay đi chùa Hương Hoa cỏ mờ hơi sương Cùng thầy me em dậy Em vấn đầu soi gương. Khăn nhỏ, đuôi gà cao Em đeo dải yếm đào Quần lĩnh, áo the mới Tay cầm nón quai thao”… Hình ảnh tươi sáng và yên bình của một ngày mới bắt đầu tại Chùa Hương mở ra cuộc hành trình đến với thế giới tâm linh của cả hai nhân vật chàng trai vài cô gái. Sự rực rỡ của hoa cỏ và ánh sáng của sương tạo ra một không khí trong lành và tươi mới. Hình ảnh nhân vật nữ trữ tình “soi gương tỉ mỉ” cho thấy sự chuẩn bị tinh tế trước khi bước vào một ngày mới và tạo nên một cảm giác về sự chăm chỉ và nỗ lực để hoàn thành một dự định. Cô gái hiện lên duyên dáng trong bộ trang phục truyền thống của dân tộc, với sự tinh tế và trang trọng. Các chi tiết như “đuôi gà cao”, “giải yếm đào” và “nón quai thao” cho thấy sự quan tâm của tác giả đến các chi tiết nhỏ trong trang phục. Các từ ngữ được sử dụng rất chi tiết và tinh tế, cho phép người đọc hình dung được hình ảnh xinh đẹp, thanh tao của cô gái và trang phục của cô ấy. Cảm giác tự hào và truyền thống của Việt Nam cũng được thể hiện trong đoạn thơ này. Trong những đoạn thơ sau, bóng dáng của nhân vật trữ tình là một chàng trai trẻ bảnh bao, lịch thiệp và tao nhã được tác giả miêu tả xen kẽ, song song cùng với những hoạt động của cô gái. Nhân vật này được miêu tả là tinh tế và nhạy cảm trong cách thể hiện tình cảm của mình đối với cô gái trẻ. Sự xuất hiện song song, không quá gần gũi nhưng cũng không xa vời, hời hợt đã minh chứng cho sự tinh tế, lịch thiệp của chàng trai. Chàng luôn quan tâm, dõi theo nàng nhưng vẫn giữ đúng khoảng cách, tôn trọng cô gái theo đúng lễ nghi truyền thống. Điều đó làm cho người đọc cảm thấy sự chân thành và nồng nàn trong tình yêu của chàng trai, tình cảm trong sáng ấy được diễn tả rất chân thực và cảm động. Nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tươi sáng, hướng đến tương lai là cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Nhược Pháp. Nếu như các nhà thơ cùng thời lấy cảm hứng từ cái tôi sầu mộng, nặng lòng yêu dấu, buồn sầu bởi lòng yêu thương chắc ẩn và cảm xúc hết sức nhân bản thì ở Nguyễn Nhược Pháp lại trái ngược. Thơ ông là thế giới hiện thực đẹp như mộng được nhìn qua lăng kính nhìn đời tươi mới của tuổi trẻ, tuy nhiên cái nhìn của tác giả lại không ảo mộng mà sâu sắc, lưu giữ nét đẹp truyền thống. Vì vậy, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Nhược Pháp luôn trong trẻo tươi vui, lãng mạn và có những suy tư sâu lắng, tinh tế đã làm nên chất riêng trong thơ Nguyễn Nhược Pháp. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 5
Vị trí và vai trò góp sức hình thành ý thức nghệ thuật cho phong trào Thơ mới của Nguyễn Nhược Pháp: Nguyễn Nhược Pháp là một trong số những nhà thơ thuộc thế hệ đầu tiên khởi xướng trào lưu đổi mới văn học Việt Nam trước năm 1945. Số lượng sáng tác không nhiều nhưng những tiếng vang lớn như bài thơ “Chùa Hương”, “Sơn Tinh, Thủy Tinh”…đã làm cho tên tuổi của Nguyễn Nhược Pháp nổi lên như một tài năng, một hiện tượng mới lạ trong thi đàn Việt vốn vẫn đang còn theo lối mòn đặc trưng của thơ ca truyền thống. Không thể dễ dàng hoặc ngẫu nhiên thơ Nguyễn Nhược Pháp được Hoài Thanh đánh giá đầy trân trọng, trong niềm yêu quý, hân hoan, ngạc nhiên đến vậy: “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp” (Trích Thi Nhân Việt Nam). Bài thơ “Chùa Hương” in trong tập thơ “Ngày xưa” được xuất bản năm 1935, bằng giọng điệu trong trẻo, mộc mạc, có phần thực thà lẫn trong chất thông minh, hóm hỉnh của cậu thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Nhược Pháp đánh dấu tài năng, sự thành công của một nhà thơ theo trào lưu thơ ca lãng mạn, mới mẻ; ghi dấu ấn trong lòng người hâm mộ và góp phần làm thay đổi quan niệm của họ về thơ mới. Dòng thơ ảnh hưởng bởi phong cách văn học phương Tây với bạn đọc thời điểm đó không còn là những gì xa lạ, khó hiểu, trái với khuôn khổ niêm luật truyền thống, ảnh hưởng đến thuần phong mĩ tục nữa mà nó hoàn toàn gần gũi với cuộc sống, chân thực, sống động, đầy sức hấp dẫn và phản ánh đúng xu thế xã hôi đương thời. Những sáng tác thơ ban đầu chỉ mang tính thử nghiệm, chưa có chủ đích của Nguyễn Nhược Pháp được người đoc hâm mộ đón nhận đã góp phần khẳng định rằng: Thơ ca theo phong cách mới hoàn toàn có thể tiếp nối vẻ đẹp của thơ ca truyền thống mà vẫn phát triển, tiến kịp với sự vận động và phát triển của thơ ca thế giới hiện đại. Quan niệm tân tiến về cái đẹp, cái thẩm mĩ của Nguyễn Nhược Pháp được xây dựng dựa trên tình yêu, điểm nhìn tươi sáng về những giá trị văn hóa đặc sắc truyền thống, ý thức phải bảo tồn chúng; đồng thời kết hợp với những quan điểm thẩm mĩ, nhân văn mới mẻ của xã hội hiện đại. Năm 18 tuổi, Nguyễn Nhược Pháp bắt đầu làm thơ. Tập thơ “Ngày xưa” là tập thơ duy nhất của ông và sau tập thơ này, chỉ trong một thời gian ngắn, ông còn sáng tác thêm khoảng mười tác phẩm, thuộc những thể loai văn học khác nhau như truyện ngắn, kịch,… và cả những bài nghiên cứu nhỏ dưới dạng tiểu luận phê bình văn học đã cho thấy rằng quan điểm của Nguyễn Nhược Pháp đối với Thơ mới nói riêng, trào lưu văn học mới nói riêng rất cấp tiến. Số lượng tác phẩm mà ông để lại cho văn học giai đoạn này không nhiều nhưng bài bản, phong phú đã thể hiện vai trò đóng góp tích cực trong việc hình thành ý thức nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Nếu như tạo hóa không thử thách và lấy đi mất thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp lúc ông 24 tuổi thì có lẽ ông sẽ là một tay bút đắc lực, sẽ còn làm được nhiều điều lớn lao hơn nữa cho Văn học Việt Nam cận hiện đại cùng những tên tuổi lớn như: Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Huy Cận… Phong trào Thơ mới nói riêng cũng sẽ có thêm những mảng màu đăc sắc mới, lãng mạn, lạc quan khác biệt trong bức tranh phát triển đương thời. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 4
Ý thức nghệ thuật và vị trí của Nguyễn Nhược Pháp trong phong trào Thơ mới: Ảnh hưởng của Nguyễn Nhược Pháp trong phong trào Thơ mới: Sự ra đời của phong trào Thơ mới xuất phát từ nhu cầu nội tại của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ 20. Khi làn sóng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam, việc thơ ca cách tân ra đời là điều tất yếu, cũng là một trong những nhu cầu tiến bộ cấp thiết và là sản phẩm của sự thay đổi thời thế trong quá trình văn hóa phương Đông tiếp xúc, tiếp thu dung nạp, bị ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây. Hàng loạt các tác phẩm mới ghi dấu tên tuổi của các tác giả mới ra đời như: “Nhớ rừng” của Thế Lữ, “ông Đồ” của Vũ Đình Liên, “Chùa Hương” và Mị Châu Trọng Thủy của Nguyễn Nhược Pháp, chùm các sáng tác của Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính …đã phản ánh đời sống tinh thần dân tộc mang tầm thời đại, mang tính lịch sử. Đó là sản phẩm kết tinh từ trí tuệ, tài năng và tâm hồn của một thế hệ lịch sử vàng son của văn học Việt Nam nói chung. Văn hoc Việt Nam từ đây rẽ sang một hướng mới, mang trong mình âm hưởng hiện đại theo quỹ đạo phát triển chung của thế giới và là khởi đầu mang tính bước đệm quyết định sự phát triển của thơ ca dân tộc giai đoạn sau năm 1945. Nguyễn Nhược Pháp thuộc thế hệ nhà văn, nhà thơ xuất sắc ấy. Ông được sinh ra trong một gia đình trí thức có tiếng ở Hà Nội, là con trai của văn hào Nguyễn Vĩnh. Nhờ vậy mà ông có cơ hội tiếp xúc với văn học phương Tây từ sớm, lại được đào tạo bài bản từ nền giáo dục Tây học cho nên con đường đến với văn chương của Nguyễn Nhược Pháp tới một cách tư nhiên, thuận lợi, không gập ghềnh sóng gió như bao nhà văn đương thời khác. Tuổi thơ của Nguyễn Nhược Pháp đau buồn khi mất mẹ từ nhỏ nhưng điều may mắn là ông được mẹ cả (tức vợ cả của văn hào Nguyễn Vĩnh) dày công yêu thương, chăm sóc và tạo điều kiện cho học hành như con đẻ của bà. Vì vậy, nỗi buồn tiếu thốn tình cảm của ông cũng được bù đắp phần nào. Có thể nói, nhờ có mẹ cả mới có một Nguyễn Nhược Pháp trưởng thành, hào hoa, lịch thiệp với nội tâm sâu sắc, tinh tế đến vậy. Kí ức thời thơ ấu của Nguyễn Nhược Pháp là cả gia tài về tình yêu văn hóa gia đình và thừa hưởng trái tim đầy trắc ẩn từ mẹ; là lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức muốn đổi mới, làm cho đất nước tiến bộ từ cha; là những năm tháng thăm trầm, lăn lộn dấn thân vào văn học của tuổi trẻ trong xã hội đầy biến chuyển, biến động. Tất cả góp phần hun đúc lên hồn thơ, hình tượng Nguyễn Nhược Pháp với vẻ bề ngoài lãng mạn, tươi sáng, hóm hỉnh, khí chất tao nhã nhưng bên trong lại đầy lắng đọng, suy tư. Đọc thơ ông, người đọc nhận ra bóng dáng Nhược Pháp hiện hữu đâu đó, lúc thì hư hư thực thực, hào hoa đẹp như mộng; lúc lại trăn trở, suy ngẫm buồn vui thế sự nhân gian, truyền thống dân tộc trong guồng xoáy xã hội đa chiều. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 3
MỞ ĐẦU Phong trào Thơ mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đã tạo nên bước biến chuyển lớn trong hệ thống quan niệm sáng tác nghệ thuật của thơ ca Việt Nam. Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, đưa ra các bài viết về phong trào Thơ mới. Có thể điểm tên một số tác giả xuất sắc nổi tiếng, với những sáng tác được coi là đỉnh cao của phong trào Thơ mới như: Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Thông… Tuy nhiên, có một tác giả xuất sắc thời kì này được rất ít nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, một phần bởi cuộc đời hoạt động thơ ca, nghê thuật của ông ngắn ngủi; phần nữa do số lượng tác phẩm để lại không nhiều. Thế nhưng những sáng tác của ông lại có sức sống lâu bền, khiến người đọc yêu mến thơ nhiều hơn; thơ ra ít nhưng nhiều độc giả còn cho rằng khó ai có thể sáng tác qua được Nguyễn Nhược Pháp. Các tác phẩm thơ mà Nguyễn Nhược Pháp đóng góp cho sự hình thành và phát triển Thơ mới tuy rất ít nhưng những sáng tác của ông lại mang những điểm nhấn sáng tạo, mới mẻ, mang tính quyết định cho phong trào cải tiến thơ cũ. Bạn đọc không mến mộ tài năng của Nguyễn Nhược Pháp sao được khi chỉ bằng vài nét thơ mộc mạc, ông đã khơi dậy cả một thời xưa xa vắng trong tâm tưởng người đọc. Thời gian xưa ấy độc đáo bởi nó không được gợi lại bằng những cảm xúc khổ đau, hoài niệm hay mơ màng, mộng ước mà là không gian - thời gian xưa trở về trong kí ức với màu sắc tươi vui, chân thực, tưởng chừng ngộ nghĩnh, nông nổi mà lại sâu sắc, chính chắn lạ kì. Do vậy, trong số các tác giả nổi tiếng của Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX ta không thể không nhắc tới Nguyễn Nhược Pháp như là một hiện tượng, một ngôi sao sáng trên bầu trời thi ca và đó là ngôi sao luôn tiên phong trong các loại hình sáng tác, ông không chỉ sáng tác thơ trữ tình mà còn cả truyện ngắn, những nghiên cứu về văn học, những quan điểm sáng tác mới thuyết phục, khẳng định hướng đi mới đầy hi vọng cho phong trào Thơ mới. Nói đến Nguyễn Nhược Pháp, người đọc luôn nhớ thương về một nhà thơ tài hoa mà bạc mệnh; một tác giả xuất sắc được coi là một hiện tượng trong phong trào Thơ mới với tập thơ “Ngày xưa” (1935) để lại dấu ấn ấn tượng trên thi đàn. Chẳng hề ngẫu nhiên hay xuất phát từ cảm tính cá nhân mà nhà nghiên cứu Hoài Thanh – Hoài Chân trong cuốn Thi nhân Việt Nam đã nhận xét về Nguyễn Nhược Pháp rằng: “… Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp.... Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn…” (Trích “Thi nhân Việt Nam”, Nxb Văn học, 2022 - “đoạn 1” trang 297, “đoạn 2” trang 299). Trào lưu văn học mới ở Việt Nam vào những năm đầu thế kỉ XX là mảnh đất màu mỡ giúp ươm mầm và nuôi dưỡng văn thơ Nguyễn Nhược Pháp. Các sáng tác và cuộc đời ông gắn bó chặt chẽ trong giai đoạn đầu hình thành phong trào Thơ mới. Tác phẩm được đánh giá thành công, được khán giả yêu mến nhất và cũng mang dáng dấp, nụ cười, tâm hồn tươi đẹp hóm hỉnh của Nguyễn Nhược Pháp nhiều nhất chính là bài thơ “Chùa Hương”. Do đó, để đưa ra những nhận xét toàn diện và nét đặc sắc trong nghiên cứu về “hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp”, ta không thể nào không đặt tác giả - tác phẩm này trong bình diện bức tranh toàn cảnh của phong trào Thơ mới. Đây cũng chính là lí do khiến em chọn chủ đề hình tượng nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương để nghiên cứu, tìm hiểu. Đọc tiếp: Hình tượng tác giả Nguyễn Nhược Pháp qua bài thơ Chùa Hương phần 2
Loài vật trong truyện ngắn Muối của rừng Bên cạnh nhân vật là ông Diểu – chủ thể tác động tới tự nhiên, Nguyễn Huy Thiệp còn xây dựng thế giới loài vật là đại diện cho thiên nhiên vốn có – đối tượng bị tác động bởi con người. Gia đình của con khỉ đầu đàn vừa là mục tiêu săn bắt cho lòng tham đê tiện của con người nhưng đồng thời cũng là lí do trực tiếp khiến cho gã thợ săn thức tỉnh. Trước sự truy đuổi và săn lùng của ông Diểu, con khỉ cái dù sợ hãi nhưng không vì thế mà chạy trốn. Khác với những gì ông Diểu nghĩ, việc con khỉ đầu đàn bị thương lại chính là mồi lửa để làm rực cháy lên tinh thần bảo vệ đồng loại, bảo vệ gia đình của lũ khỉ. Điều này khiến cho ông Diểu nhận ra sự khác biệt giữa thế giới con người mà ông đang sống với thế giới tự nhiên mà ông từng trải qua. Không chỉ có khỉ cái, đến ngay cả con khỉ con cũng khiến ông bất ngờ và sửng sốt khi sẵn sàng liều mạng để ngăn ông khỏi việc đi săn. Chính những loài vật đó khiến cho ông nhận ra những giá trị đạo đức cốt lõi mà dường như đã bị lãng quên. Xây dựng nhân vật là các loài vật, Nguyễn Huy Thiệp đã dùng hàng loạt những diễn biến hành động của chúng để từng bước thức tỉnh một con người u mê, lạc lối trong thú vui tàn nhẫn. Ở chúng không có miêu tả suy nghĩ, không có những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, mọi thứ chúng làm đều tuân theo là bản năng cấu kết cộng đồng – điều mà có sẵn từ tự nhiên. Thế nhưng đó cũng là điều đang mất dần do sự du nhập của văn hóa văn minh hiện đại. Loài vật trong truyện ngắn Muối của rừng không chỉ là đối tượng chịu sự tác động của con người mà ngược lại, chính nó cũng tác động lên con người. Con người và loài vật trong truyện vừa có sự đối lập nhưng cũng có sự tương tác qua lại lẫn nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau. Lũ khỉ chính là hình ảnh của thiên nhiên, hay cụ thể hơn chính là hình ảnh của con người nguyên thủy sơ khai, khi còn sống trong sự hòa nhập với tự nhiên, sống theo những giá trị nguyên bản vốn có. Thế giới nhân vật trong tác phẩm chỉ gồm con người là ông Diểu và loài vật là gia đình con khỉ đầu đàn nhưng cũng đủ để người đọc có thể nhận ra được lời cảnh tỉnh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Bởi không cần số lượng nhân vật đồ sộ nhưng với cách chọn lựa nhân vật tinh tế, truyện ngắn cũng khiến cho người đọc phải suy ngẫm. Kết luận Qua việc nghiên cứu tác phẩm truyện ngắn Muối của rừng từ góc độ thi pháp thể loại, có thể nhận thấy một số đặc điểm như sau: về kết cấu, nổi bật ở truyện là kết cấu đối lập, xây dựng các nhân vật trong sự đối nghịch, mâu thuẫn nhưng lại có sự tác động tới nhau để hoàn thành một quá trình tự nhận thức của nhân vật. Bên cạnh đó, Nguyễn Huy Thiệp cũng khéo léo đặt điểm nhìn từ bên ngoài khiến cho truyện trở nên khách quan, đa chiều, cảnh tỉnh con người trước hiện trạng đối xử với thiên nhiên, đồng thời gửi gắm mối quan tâm tới sinh thái tự nhiên. Với cách tạo dựng không – thời gian ngắn, hẹp tiêu biểu của truyện ngắn, tất cả chỉ xoay quanh một chuyến đi săn trong khu rừng đầy chân thực, nhà văn vẫn khiến người đọc phải trăn trở, suy nghĩ. Nhìn chung, những thành công trên đã góp phần làm nên tính đặc trưng cho thể loại truyện ngắn trong Muối của rừng, giúp đặt ra một vấn đề nhức nhối trong thực tại: con người trong quan hệ với tự nhiên. Đọc tiếp: Muối của rừng dưới góc độ thi pháp thể loại truyện ngắn phần 1
Nhân vật trong truyên ngắn Muối của rừng Con người trong truyện ngắn Muối của rừng “Nhân vật trong tác phẩm văn học là những con người hay những sự vật mang cốt cách của con người được xây bằng các phương tiện của nghệ thuật ngôn từ” [2;77]. Nói cách khác, nhân vật chính là cách thức thể hiện rõ ràng nhất cho quan niệm của nhà văn về con người. Trong tác phẩm Muối của rừng, ông Diểu là một điển hình cho sự tác động tới thiên nhiên và chống lại tự nhiên. Ông Diểu là một thợ săn lành nghề, ông đã có kinh nghiệm trong việc săn bắt dù đó chỉ là một thú vui trong cuộc sống của ông. Người kể không giới thiệu về nguồn gốc hay hoàn cảnh xuất thân của nhân vật, thế nhưng người đọc vẫn có thể nhận thấy được sự điêu luyện của nhân vật thông qua việc chuẩn bị kĩ càng cho chuyến đi săn đến mức thành thạo “Ông nai nịt, mặc quần áo ấm, đội mũ lông và dận đôi giày cao cổ. Để cho cẩn thận, ông còn mang theo cả nắm xôi nếp”. Đây không phải là chuyến đi săn đầu tiên của ông bởi mọi sự chuẩn bị cho thấy ông đã quá quen với “thú vui đê tiện” này. Thậm chí, ông còn cẩn thận chọn đường đi và lựa loài để săn một cách chuyên nghiệp khi quyết định không bắn những con chim xanh vì “phí đạn” mà đi săn khỉ bởi cho rằng nó “Chắc ăn hơn mà đỡ tốn sức”. Bên cạnh việc chuẩn bị cho chuyến đi săn, trong từng suy nghĩ và hành động cũng cho thấy với ông Diểu, việc đi săn thật sự đem lại cảm giác lí thú. Nhắm được mục tiêu phải săn bằng được con khỉ đầu đàn, ông liền lên kế hoạch và “ngồi im đến nửa giờ” chỉ để đợi nó xuất hiện. Để là một thợ săn chuyên nghiệp đến vậy, ông Diểu hoàn toàn có đủ kiến thức và sự hiểu biết về đặc tính của loài cũng như quy luật của thiên nhiên. Đôi lúc, con người ấy cũng dành cho tự nhiên một sự thán phục, ngưỡng mộ. Ông thán phục vì sự dẻo dai, nhanh nhẹn của con khỉ đầu đàn nhưng lại lấy chính điều đó làm lí do để bao biện cho sự ích kỉ của bản thân mình. Một điều nghịch lí là chính con người hiểu rõ về tự nhiên ấy lại cũng là người muốn phá hủy, tác động tới tự nhiên nhiều nhất, thiên nhiên không còn là môi trường sống tươi đẹp hay bạn với con người mà nó đã trở thành một nguồn lợi để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Điều xót xa hơn hết chính bởi việc đi săn của ông Diểu không xuất phát từ nhu cầu sinh tồn bản năng mà nó lại đến từ mong muốn giải trí cá nhân, lấy việc tước đi sự sống của sinh vật khác để làm trò vui tiêu khiển nhân dịp “thằng con học ở nước ngoài gửi về biếu ông khẩu súng hai nòng”. Trong con mắt của kẻ đi săn, thiên nhiên ấy không còn là nguyên bản mà nó trở thành một xã hội thu nhỏ, được soi chiếu dưới lăng kính của con người, nơi mà một người như ông Diểu có thể cảm thấy được thành tựu khi tự gán lên con vật vô tội những cái danh như “Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tình phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn! Nhà lập pháp bẩn thỉu! Tên bạo chúa khốn nạn!” và cho mình quyền xử tội những kẻ đó. Mặt khác, ông Diểu và những kẻ đi săn để mua vui ấy đem toàn bộ sự phẫn nộ và bất lực trút lên thiên nhiên vô tội chỉ để thỏa mãn cho chính mình, để thấy mình như một bậc đế vương, nắm trong tay quyền sinh quyền sát với muôn thú. Bên cạnh sự chán ghét, khinh bỉ những kẻ đứng đầu, ông còn nghi ngờ những giá trị đạo đức trong cuộc sống văn minh và tự nhận định rằng thế giới tự nhiên cũng vậy. Ông không còn tin vào cái gọi là sự cao thượng từ hành đồng của con khỉ cái bởi với ông, một người đã thiếu đi niềm tin vào những giá trị nhân đạo, đó chỉ là sự giả tạo đáng căm ghét. Dù tiếp cận với nền văn minh hiện đại, với cuộc sống tân tiến nhưng trong suy nghĩ của nhân vật vẫn mang những định kiến xưa cũ khi cho rằng “giống cái bao giờ cũng dễ phân tâm … Với giống cái thì thân thể mình là quan trọng nhất”. Đó không chỉ là cái nhìn phiến diện, áp đặt lên khỉ cái mà hơn thế, đó chính là tư tưởng coi thường người phụ nữ đã có từ lâu trong xã hội phong kiến, khó mà thay đổi. Nhưng rồi cũng chính ông là người đã cứu lấy con khỉ và cho nó trở về với rừng, đó là giây phút ông tỉnh ngộ và nhận ra vị trí của bản thân trước thiên nhiên. Nguyễn Huy Thiệp đã thành công khắc họa người thợ săn ấy trong quá trình đấu tranh đầy phức tạp để nhận ra được giá trị của thiên nhiên, để nhận thấy thế giới tự nhiên không thể đồng nhất với xã hội loài người. Thoạt đầu, khi cầm súng đi săn, nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp được khắc họa trong tư thế đối đầu trực diện với thiên nhiên. Nhưng nhân vật ấy hay chính là con người vẫn luôn có sự lựa chọn để thay đổi hành động với thiên nhiên, đó chính là vứt đi khẩu súng, cứu và thả con mồi. Ngay giây phút đó, con người đã rời bỏ suy nghĩ thượng đẳng, coi mình là “bậc đế vương” để dần trở về gần hơn với thiên nhiên – nơi nuôi dưỡng nên con người. Và chỉ khi bỏ đi những văn hóa đổi mới mà con người cho văn minh hiện đại, “trần truồng” trở về với giá trị nguyên bản, con người mới nhận thức được những giá trị đẹp đẽ mà thế giới tự nhiên mang lại và hòa nhập vào thế giới ấy. Nhìn chung, con người trong truyện ngắn Muối của rừng là con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Con người ấy đã hoàn thành chặng hành trình của mình: từ lúc bắt đầu chuyến đi săn trong tư thế đối đầu và kết thúc quá trình nhận thức khi trở về với trạng thái hòa làm một với thiên nhiên trong cơn mưa rừng, nhận ra vẻ đẹp của “hoa tử huyền”. Chỉ khi con người thay đổi suy nghĩ, thay đổi cách đối xử của mình với thiên nhiên, từ bỏ sự trịch thượng thì mới có thể tìm thấy thiên nhiên trong mình và mình trong tự nhiên. Đọc tiếp: Muối của rừng dưới góc độ thi pháp thể loại truyện ngắn phần 6
Không gian và thời gian trong truyện ngắn Muối của rừng Không gian trong truyện ngắn Muối của rừng Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Nó là một hiện tượng nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan niệm về thế giới. Khác với trong các thể loại văn xuôi tự sự khác, nếu ở tiểu thuyết hay truyện dài thường có sự thay đổi đa dạng trong không gian thì ở truyện ngắn, nhà văn thường tập trung trong một vùng không gian có ý nghĩa với nhân vật. Trong Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo dựng nên một không gian xuyên suốt toàn truyện, đó là không gian của khu rừng. Toàn bộ cuộc đuổi bắt, truy lùng và cứu rỗi đều được diễn ra trong phạm vi khu rừng ấy. Không gian trong truyện được mở ra với khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp “Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên vừa trang trọng, vừa tình cảm”. Đó cũng chính là không gian của tự nhiên, tách biệt hoàn toàn với những sự đổi thay văn minh của con người ở bên ngoài. Trong không gian thuần hậu đó, con người được trở về với chính mình, sống với những bản năng vốn có và cũng chỉ khi trở về với trạng thái nguyên bản, con người mới có thể hòa nhập và tận hưởng vẻ đẹp của nó. Không gian trong truyện không đơn thuần chỉ là nơi diễn ra sự việc mà nó luôn mang một ý nghĩa hàm chứa trong đó. Ở đây, khu rừng là khởi nguồn của tự nhiên, đồng thời nó cũng chính là nơi kéo con người về với những giá trị gốc. Mặt khác, nó là nguồn cội và cũng là nơi để con người tìm về khi rũ bỏ được những ảo tưởng nhất thời mà xã hội văn minh đem lại. Thời gian trong truyện ngắn Muối của rừng Cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật cũng là một sáng tạo của người nghệ sĩ. Thời gian nghệ thuật là phạm trù nghệ thuật, là một hình tượng nghệ thuật, là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Thời gian trong truyện ngắn không có sự trải dài mà chỉ tập trung trong một khoảnh khắc có ý nghĩa với nhân vật. Ta không bắt gặp trong truyện cuộc đời của ông Diểu hay nguồn gốc của cái “thú vui đê tiện” mà ông có. Tất cả những gì tác giả xoay quanh và xoáy sâu chỉ là một khoảnh khắc nhỏ trong cuộc đời của nhân vật. Thời gian trong tác phẩm là một cuộc đi săn đầu năm của nhân vật Diểu. Mặt khác, diễn tiến cuộc đi săn đó cũng chính là quá trình nhận thức của con người về vị trí, cách đối xử của mình trong mối quan hệ với thiên nhiên. Truyện bắt đầu với lí do ông Diểu quyết định đi săn, để chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi đó ông đã sắm đồ cẩn thận và lên đường tìm đến khu rừng quen thuộc. Toàn bộ truyện được trải dài theo quá trình từ lúc ông đi tìm mục tiêu, tới khi tìm thấy con khỉ đầu đàn, bắn trúng nó, chứng kiến sự bảo vệ của gia đình khỉ, truy lùng chúng và kết thúc bằng việc trở về tay trắng. Cả chuyến đi đó thực tế chỉ diễn ra trong vòng một ngày, khi cơn mưa xuân vẫn còn đó, song, đọc tác phẩm, ta thấy thời gian không còn nằm ở phương diện vật lí mà trở thành thời gian tâm lí. Nó trở nên dài hơn bởi những giây phút tĩnh lặng khi săn mồi, hay do những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt giữa việc cứu hay bắt miếng mồi ngon trước mắt. Đặc biệt, có thể thấy cuộc đi săn được miêu tả một cách rất gấp gáp với liên tiếp các hoạt động diễn ra không ngừng nghỉ, thế nhưng trong giây phút khi con người tận hưởng thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên, thời gian như ngưng đọng “Ông Diểu ngồi im dễ đến nửa giờ … Sự tĩnh lặng bình thản của rừng xuyên suốt qua ông”. Đọc tiếp: Muối của rừng dưới góc độ thi pháp thể loại truyện ngắn phần 5
Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Muối của rừng Ngôn ngữ trần thuật được xem là một trong những yếu tố cơ bản nhất để thể hiện phong cách của nhà văn. Trong truyện ngắn Muối của rừng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp không có những lời đối thoại mà chỉ tập trung vào những lời độc thoại nội tâm và miêu tả hành động của nhân vật. Toàn bộ quá trình đi săn và nhận thức của nhân vật được tạo nên thông qua những lớp từ ngữ miêu tả hành động song song của ông Diểu và gia đình con khỉ đầu đàn. Có thể nhận thấy, trong tác phẩm, chủ yếu là lời tả của người kể chuyện khi miêu tả hành động, trạng thái của con người và loài vật trong một cuộc truy đuổi đầy kịch tính. Lần lượt từng bước từng bước tiếp cận con mồi trong quá trình đi săn của ông Diểu đều được ghi lại vô cùng chân thực “Ông ngồi đấy lặng lẽ quan sát … Ông Diểu tính toán rồi luồn theo hướng ngược gió với con khỉ cái canh gác … Tuy nghĩ vậy nhưng mà ông Diểu vẫn cứ tiếp cận đàn khỉ một cách thận trọng …” Ở phía ngược lại, con khỉ cũng được miêu tả với sự dè chừng tương tự “Con khỉ cái tiến đến gần con khỉ đực một cách thận trọng, nó nhìn ngó xung quanh”. Dù cùng một hành động, cùng một trạng thái nhưng ở hai cực đối lập – giữa người đi săn và kẻ bị săn – lại có ý nghĩa khác nhau rõ rệt. Đối với con người, sự thận trọng ấy là để trục lợi cho bản thân, để thỏa mãn thú vui của mình, để thể hiện sự trịch thượng của con người trước tự nhiên. Còn với kẻ bị săn, đó là sự thận trọng khi đứng trước sự sống đang bị đe dọa, sự thận trọng đầy lo sợ. Liên tục miêu tả những hành động của con người song song với loài vật, nhà văn còn khéo léo thể hiện sự thay đổi trong vị thế của hai đối tượng: con người và tự nhiên. Với ngôn ngữ miêu tả đầy tinh tế, người kể chuyện đã khẳng định con người không thể tiêu diệt tự nhiên và cũng không có quyền cải tạo, trục lợi từ thiên nhiên. Bên cạnh ngôn ngữ miêu tả của người kể chuyện, một hình thức ngôn ngữ làm nên dấu ấn trong Muối của rừng đó là độc thoại nội tâm thông qua những suy nghĩ của ông Diểu. Suy nghĩ của ông Diểu trong từng sự việc lại có sự khác nhau tạo nên sự thay đổi trong nhận thức. Khi ông đang còn mang trong mình quyết tâm phải săn bằng được con khỉ đầu đàn, ông nhìn chúng giống như những con người xấu xa trong xã hội, lấy chúng ra để dồn toàn bộ sự phẫn nộ và khinh bỉ của mình. Đứng trước sự gắn kết của khỉ đầu đàn, khỉ cái và khỉ con, ông không khỏi hoang mang và nghi ngờ. Đến đây, trong nhân vật đã dần có sự chuyển biến trong suy nghĩ, ngờ vực về chính những suy nghĩ phiến diện mà mình áp đặt từ xã hội con người sang tự nhiên. Và cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt nhất trong suy nghĩ của kẻ đi săn là giữa việc cứu hay giết con mồi. Đây cũng là cuộc đấu tranh giữa tình cảm và lí trí, giữa cái tốt đẹp và cái đê tiện. Quyết định cứu con khỉ và trả nó về với tự nhiên là một sự thành công trong đấu tranh nội tâm của nhân vật, ông Diển từ một kẻ đối đầu với tự nhiên trở thành một người cứu rỗi. Giọng điệu trong Muối của rừng có sự thay đổi linh hoạt. Khác với những truyện trào phúng của Nguyễn Huy Thiệp luôn mang giọng điệu thờ ơ, dửng dung, lạnh lùng; ở truyện ngắn này, khi nói tới tự nhiên, giọng điệu của tác giả có phần thương cảm, xót thương. Ngược lại, khi miêu tả con người với mong muốn đối chọi với thiên nhiên, người kể lại dành một giọng điệu phê phán, lạnh nhạt. Thiên nhiên được gợi nên đẹp đẽ, gắn kết bao nhiêu thì đối nghịch với nó, con người lại càng xấu xí, cô độc, lẻ loi bấy nhiêu. Đọc tiếp: Muối của rừng dưới góc độ thi pháp thể loại truyện ngắn phần 4
Nội dung Kết cấu đối lập trong truyện ngắn Muối của rừng Kết cấu truyện ngắn thường được cấu thành từ số lượng sự kiện tương đối hạn chế, thay vì có sự đan xen, chồng chéo các sự kiện, truyện ngắn chọn cho mình một cấu trúc đơn giản đó là cốt truyện hạt nhân. Trong truyện ngắn, người đọc dễ dàng có thể tìm ra được một sự kiện cốt lõi làm nên cốt truyện, và để hạn chế sự nhàm chán trong cách tổ chức truyện, các nhà văn có xu hướng triển khai tác phẩm của mình theo hai hướng: theo lối hồi tưởng hoặc theo lối đối lập. Trong truyện ngắn Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp hướng tác phẩm của mình theo lối kết cấu đối lập. Nổi bật trong tác phẩm là sự đối lập giữa vị trí, tâm trạng, hành động của nhân vật. Ông Diểu là người đi săn, được sắm những trang thiết bị hiện đại là kết quả của nền văn minh xã hội, là con người với nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc về thế giới thực tại. Đối lập hoàn toàn với ông là những mục tiêu bị săn như bầy chim xanh, đôi gà rừng hay lũ khỉ. Chúng là những loài sinh vật từ tự nhiên, sống tách biệt với xã hội văn minh loài người, hành động và tồn tại nhờ vào bản năng vốn có. Với vị thế vượt trội hơn, ông vào rừng với tư thế của một kẻ mạnh, một kẻ chống lại tự nhiên và tự cho mình quyền lực để tác động, biến đổi thế giới tự nhiên ấy. Kẻ yếu trong trạng thái bị động là bầy khỉ, là thiên nhiên luôn nỗ lực tự bảo vệ sự sống của mình khi đứng trước nguy cơ bị đe dọa bởi những kẻ được cho là có nhận thức. Sự đối lập còn thể hiện qua tâm trạng, hành động của hai bên nhân vật. Ông Diểu luôn trong trạng thái phấn khởi, nóng lòng khi bắt đầu chuyến đi săn còn ngược lại, bầy khỉ lại mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, hoang mang bởi phát đạn từ cây súng của con người. Bởi mang tâm thế của kẻ đi săn nên ông Diểu luôn trong quá trình đi săn lùng, truy tìm và đuổi theo lũ khỉ khiến chúng phải không ngừng tìm cách chạy trốn. Tuy nhiên, toàn bộ vị trí, tâm trạng và hành động của hai bên nhân vật được đảo ngược ở nửa sau truyện. Từ người chủ động, ông Diểu rơi vào thế bị động, bị con khỉ cái theo đuôi và phải trả con khỉ đực trở về với khu rừng, ông cũng thất bại trong chuyến đi săn, ra về tay trắng thậm chí mất toàn bộ những gì đem theo. Đó là cái giá ông phải trả cho lòng tham của bản thân. Bên cạnh đó, truyện còn khắc họa sự đối lập trong từng chi tiết nhỏ như rừng núi nguyên sơ, cheo leo là nơi lũ khỉ ẩn nấp để chống lại những trang bị hiện đại, tân tiến của ông Diển; sự gắn kết đồng loại đối lập với sự cô đơn, lạc loài của con người trong không gian núi rừng rộng lớn; sự tĩnh tại, bình yên của thiên nhiên với sự vận động không ngừng nghỉ và âm thanh chết chóc mà con người mang tới; … Từ sự đối lập đó, truyện ngắn Muối của rừng đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và đi tới khẳng định con người không thể tồn tại nếu không có thiên nhiên, những kẻ mang tâm lí đối địch hay trục lợi từ tự nhiên sẽ mất tất cả. Và chỉ khi con người thoát khỏi những ràng buộc của xã hội tân tiến, trở về với bản chất đơn sơ nguyên thủy nhất, con người mới có thể hòa vào với tự nhiên để cảm nhận những điều tốt đẹp. Điểm nhìn và ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Muối của rừng Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Muối của rừng Truyện Muối của rừng được kể theo ngôi thứ ba mang lại sự khách quan cho người đọc. Người kể chuyện không tham gia vào tác phẩm giúp cho câu chuyện được nhìn nhận một cách đa chiều hơn. Qua lời của người kể chuyện, ta có thể thấy được câu chuyện về một chuyến đi săn khiến cho nhân vật Diển – một người thợ săn vì thú vui – thay đổi hoàn toàn nhận thức của mình về cách đối xử với thiên nhiên. Ông Diển xuất phát với niềm vui háo hức bởi sẽ được đem súng ống mà đứa con mới mua, một sản phẩm của văn minh để đi kiếm một con mồi béo bở. Ngay từ đầu, ông luôn trong tâm thế của một kẻ muốn chinh phạt thiên nhiên, đối đầu với tự nhiên. Thế nhưng khi đứng trước những tình cảm bản năng của loài vật, khi trở về với sự trần trụi sơ khai, tách biệt với nền văn minh bên ngoài kia, ông chợt nhận ra sự hòa hợp của mình với thiên nhiên, cảm nhận được những vẻ đẹp vốn có của tự nhiên. Qua ngôi kể thứ ba, nhân vật được tái hiện một cách chân thực với chiều sâu tâm lí và hành động. Với ngôi kể thứ ba, điểm nhìn xuyên suốt tác phẩm là điểm nhìn từ bên ngoài. Dù vẫn đi sâu miêu tả tâm lí, suy nghĩ của nhân vật nhưng chủ yếu nhân vật được khắc họa thông qua những hành động. Đọc tiếp: Muối của rừng dưới góc độ thi pháp thể loại truyện ngắn phần 3