Thủy triều - Nguyên nhân hình thành thủy triều là do lực hấp dẫ n của các thiên thể. Có nhiều thuyết khác nhau giải thích hiện tượng thủy triều, trong đó có thuyết về lực hấp dẫn của Niu-tơn. Theo định luật vạn vật hấp dẫn thì lực hấp dẫn giữa Mặt Trăng và Trái Đất bằng Mn/(60R)^2. Trong đó: M là khối lượng Trái Đất, n là khối lượng Mặt Trăng, R là bán kính Trái Đất, 60R là khoảng cách từ tâm Trái Đất đến tâm Mặt Trăng. Lực hấp dẫn này không đồng nhất trên khắp Trái Đất mà thay đổi tùy theo vị trí gần hay xa Mặt Trăng. Mặt khác, mọi điểm trên Trái Đất cũng đều chịu ảnh hưởng của lực ly tâm (sinh ra do Trái Đất quay quanh tâm chung của hệ thống Trái Đất – Mặt Trăng), đồng nhất ở mọi nơIi và có hướng ngược với hướng của lực hấp dẫn. Như vậy, bất cứ nơi nào trên Trái Đất cũng chịu tác động của lực hấp dẫn và lực ly tâm, hợp lực của chúng sinh ra thủy triều. Ở địa điểm hướng về phía Mặt Trăng, mặt nước đại dương dâng lên cao do lực hấp dẫn lớn hơn lực ly tâm. Ở địa điểm hướng ngược về phía Mặt Trăng, mặt nước đại dương cũng bị dâng lên do lực li tâm lớn hơn lực hấp dẫn. Trong khi đó các địa điểm nằm ở thế vuông góc với các địa điểm nước dâng sẽ có hiện tượng nước triều xuống. Do Trái Đất tự quay nên trong khoảng 24 giờ, ở bất kỳ nơi nào trên các đại dương cũng có hai lần nước lên và hai lần nước xuống. Trái Đất không chỉ chịu sức hút của Mặt Trăng mà còn chịu sức hút của Mặt Trời làm cho thủy triều khi lớn, khi nhỏ. Mặt Trời tuy lớn nhưng ở rất xa Trái Đất và sức hút của nó nhỏ hơn Mặt Trăng 2,17 lần. Những khi Trái Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng ở trên cùng một đường thẳng thì thủy triều lớn nhất (triều cường), còn khi ba thiên thể ở vào thế vuông góc với nhau thì thủy triều nhỏ nhất (triều kém). (Theo Địa lí tự nhiên đại cương, tập 2 – Hoàng Ngọc Oanh (chủ biên), NXB Sư phạm, H, 2004)
Hãy cho biết nguyên nhân tạo thành sóng thần, sóng biển. Kể một số tác hạii của sóng thần mà em biết. Trả lời - Nguyên nhân chủ yếu tạo ra sóng biển là gió, gió càng mạnh thì sóng càn g to. - Nguyên nhân chủ yếu gây ra sóng thần là động đất, ngoài ra còn do núi lửa phun ngầm dưới đáy biển hoặc do bão. - Sóng thần có sức tàn phá khủng khiếp, gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản. Ví dụ trận sóng thần ngày 26 – 12 – 2004 đã làm khoảng hơn 200.000 người của 12 nước thuộc Ấn Độ Dương thiệt mạng, làm hư hại nhiều nhà cửa và cơ sở hạ tầng.
SÓNG, THỦY TRIỀU, DÒNG BIỂN I KIẾN THỨC CƠ BẢN Sóng Thủy triều Dòng biển Khái niệm Dao động của nước biển theo chiều thẳng đứng Chuyển động thường xuyên và có chu kì của các khối nước trong biển - đại dương. Những dòng nước chảy trong biển - đại dương giống như những dòng sông trên lục địa. Nguyên nhân Gió Sức hút của Mặt Trăng. - Mặt Trời. Gió. Phân loại - Sóng bạc đầu. - Sóng thần. - Triều cường. - Triều kém. - Nóng. - Lạnh. Quy luật hoạt động Gió càng to, sóng càng mạnh Vị trí của Mặt Trăng - Trái Đất - Mặt Trời - Bán cầu bắc: chảy cùng chiều kim đồng hồ. - Bán cầu nam: Ngượ c chiều kim đồng hồ. - Vùng gió mùa biến đổi theo mùa. - Các dòng biển nóng - lạnh chảy đối xứng ở hai bờ các đại dương.
Biển và đại dương có vai trò như thế nào đối với đời sống con người? Trả lời Biển và đại dương có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người: - Cung cấp nguồn hơi nước vô tận để sinh ra mây mưa duy trì sự sống; giữ vai trò điều hòa khí hậu của Trái Đất. - Là kho tài nguyên vô giá: + Chứa đựng nguồn lợi sinh vật lớn: ở biển và đại dương có trên 160.000 loài động vật và 10.000 loài thực vật. + Chứa đựng nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng, nhiều loại có trữ lượng lớn. + Cung cấp nguồn năng lượng thủy nhiệt, thủy triều vô tận. - Là “chiếc cầu nối liền các lục địa với nhau”, là đường giao thông vận tải rộng lớn và thuận tiện trong giao lưu quốc tế. – Là nơi an dưỡng, nghỉ ngơi và du lịch hấp dẫn.
NƯỚC BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG 1 Một số tính chất của đại dương và nước biển: - Tỷ trọng và thành phần của nước biển: + Thành phần: Chất muối, khí, chất hữu cơ + Tỷ trọng lớn hơn nước ngọt, độ muối càng cao tỷ trọng càng lớn. - Nhiệt độ của nước biển: Giảm dần theo độ sâu (chỉ đến 3000m), giảm dần từ Xích đạo về cực, thay đổii theo mùa do ảnh hưởng của dòng biển. 2 Vai trò của đại dương và biển đối với đời sống con người: - Nguồn cung cấp hơi nước cho khí quyển. - Tài nguyên: hải sản, khoáng sản, hoá học. - Nguồn năng lượng vô tận, nguồn thuỷ nhiệt. - Giao thông biển. - Du lịch, thể thao, dưỡng bệnh...
Phân loại mây Có nhiều cách để phân loại mây, dựa vào độ cao người ta chia ra thành các tầng mây: – Mây tầng cao (chân mây cao trên 6km): thường là mây băng, như: mây ti, ti tích, ti–tầng. Chúng cấu tạo bằng những tinh thể băng. Đó là những mây mỏng, trong suốt, nhẹ, không có bóng dẫm, màu trắng. – Mây tầng giữa (chân mây cao từ 2 – 6km): thường là mây nước hoặc mây hỗn hợp, như: mây trung tích, mây trung tầng. Mây tầng giữa dày đặc hơn mây tầng cao. Chúng có thể tạo ra những quầng có màu sắc xung quanh Mặt Trời hay Mặt Trăng. Hiện tượng quầng là do nhiễu xạ ánh sáng qua các giọt nước và tinh thể băng tạo thành mây khi tia sáng Mặt Trời hay Mặt Trăng chiếu qua. - Mây tầng thấp: thường cấu tạo bằng những giọt nước và hoa tuyết li ti, nhưng chúng kết hợp với nhau để tạo thành những giọt lớn hơn, như: mây tầng tích (màu xám đen, chia thành mảnh, khối khá lớn, cho mưa từng đợt hoặc mưa phùn); mây tầng (giống như sương mù, cho mưa bụi hoặc mưa phùn); mây vũ tầng (dày đặc, không có hình dạng đặc biệt, màu tối, gây mưa, dưới thấp gây mưa to). - Mây phát triển theo chiều thẳng đứng hay mây đối lưu hình thành khi không khí bốc lên cao. Có các loại như: mây tích (dày, riêng rẽ thành cụm, đỉnh có hình chỏm cầu, đáy ngang phẳng, nếu mây mỏng là dấu hiệu trời tốt, nếu mây dày phát triển theo chiều cao thì cho mưa rào); mây vũ tích (khối mây lớn, phát triển theo chiều thẳng đứng, độ cao từ 5 – 16km, đỉnh mây hình cái đe, mây cho mưa cực lớn, kèm theo gió và sấm chớp). (Theo Những điều cơ bản của khí tượng học và khí hậu học – S.I. Cốt−xtin, NXB Nha khí tượng, 1963)
Quan sát gió để dự báo sự xuất hiện của bão ở nước ta Gió và nhất là sự đổi hướng đột ngột của nó là một chi tiêu quan trọng được vận dụng để dự báo thời tiết, đặc biệt là sự xuất hiện của bão. Thông thường, gió thổi theo quy luật và theo một hướng nhất định thịnh hành trong mùa. Vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ về mùa hè, khoảng tháng 7, tháng 8 thịnh hành hướng gió Đông Nam. Nếu gió đột ngột chuyển hướng Tây, Tây Bắc hay hướng Bắc là dấu hiệu báo có bão kéo tới. Bởi vậy, dân gian có câu: “Gió bấc heo may, chuồn chuồn bay thì bão” Hay “Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão” Gió bấc chính là gió Đông Bắc và gió heo may là tên gọi địa phương quen gọi loại gió này. Theo kinh nghiệm dân gian, nếu mùa hè đột nhiên có gió heo may thổi và thấy chuồn chuồn bay ra nhiều thì là triệu chứng báo có bão. Theo các nhà khí tượng giải thích: bão là một xoáy thuận có cấp gió đạt trên cấp 8 theo cấp gió Bo-pho. Khí áp ở trung tâm bão giảm xuống rất thấp, cho nên trong cơn bão gió thổi xoáy từ ngoài vào trong theo hướng ngược chiều kim đồng hồ ở bán cầu Bắc. Vì vậy ở mỗi địa điểm khác nhau so với tâm bão sẽ có hướng gió khác nhau. Tuy nhiên, tùy vào vị trí địa phương đó ở phía Bắc hay phía Nam đường đi của bão mà gió có sự thay đổi hướng khác nhau trong quá trình bão đến và đi qua. Nếu vùng bão sắp đổ bộ nằm ở phía Nam đường đi của bão, thì khi bão đến và đi qua gió sẽ đổi hướng ngược chiều kim đồng hồ: lúc bão ở xa gió có hướng Tây, khi bão đến gần gió sẽ chuyển hướng Tây Nam, rồi hướng Đông Nam, khi bão đi qua gió sẽ có hướng Đông Bắc. Còn nếu vùng đó nằm ở phía Bắc đường đi của bão thì đến gần sẽ có hướng Tây Bắc rồi hướng Đông Bắc, khi bão đi qua gió sẽ có hướng gió sẽ đổi hướng cùng chiều kim đồng hồ: lúc bão ở xa gió sẽ có hướng Tây, khi bão Đông Nam. (Nhớ là bão ở đây đổ bộ từ Biển Đông vào nước ta). Như vậy, nếu ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vào mùa hè thấy gió đột ngột chuyển hướng Đông Bắc là triệu chứng có bão. Đồng thời với sự thay đổi hướng gió, do không khí tăng ẩm trước khi mưa bão xảy ra nên nếu thấy chuồn chuồn bay ra thì chắc chắn có bão. (Theo Bước đầu tìm hiểu khí tượng dân gian – Hoàng Hữu Triết, NXB Khoa học - Kĩ thuật, 1972)
Gió Tín phong và vĩ độ ngựa “... Trước kia, các thương nhân La Mã lợi dụng những đường đi đều đặn của gió – gió mùa – để trương buồm vượt bể sang Ấn Độ. Ngày nay, các nhà hàng hải đã tìm được những người bạn đường mới: họ biết rằng ở gần đường Xích đạo có gió Tín phong thổi luôn theo hướng từ đông bắc xuống tây nam. Những thuyền Tây Ban Nha kiểu Cri-stốp Cô Lông đã theo con đường đó sang “Đông Ấn Độ” (mà thực chất là sang châu Mĩ). Các thủy thủ trên thuyền rất ngạc nhiên thấy rằng gió luôn luôn đưa họ về phía Tây, đến cả những cây cối ở “Đông Ấn Độ” cũng ngả về phía Tây dường như chỉ đường cho họ. Sau đó không lâu, có một nhà hàng hải Tây Ban Nha hoàn thành một phát kiến kỳ lạ. Ông thấy một “dòng sông” xanh nhợt chảy giữa biển khơi xanh thẫm. “Dòng sông” đó rất dễ nhận, bởi vì màu sắc của sông khác hẳn với màu nước biển và nước lại ấm hơn. “Dòng sông” ấy cũng chảy với tốc độ giống như tốc độ của các sông trên lục địa. Nhưng “sông” rộng hơn nhiều và sâu hơn nhiều. Người ta gọi dòng nước biển đó là dòng Gơn-xtrim có nghĩa là “dòng nước vịnh”. Bởi vì nó chảy từ vịnh Mê-hi-cô ở châu Mỹ về. Gió Tín phong đêm ngày dồn nước vào vịnh, nước đó thành một dòng sông khổng lồ chảy qua eo biển Phlo-ri-đa, eo biển này như dành riêng cho nó dùng vậy. Gió và nước cùng chung một cuộc sống. Gió Tín phong tham dự vào việc buôn bán của người châu Âu. Trách nào người Anh mãi tới ngày nay vẫn gọi gió Tín phong là gió “Mậu dịch”. Và các vĩ độ 30° ở phía gió. (Nguyên nhân là do không khí bị mặt đất đốt nóng ở Xích đạo và bay lên cao rồi dồn về hai cực, đến khu vực vĩ độ 30°-35° không khí đã lạnh hẳn và giáng xuống rất mạnh tạo thành một vùng áp cao luôn luôn lặng gió). Trong thời đại còn dùng thuyền buồm, các nhà hàng hải đã từng phải dừng ở đấy hàng tuần lễ để đợi gió. Những thứ hàng xuất khẩu từ châu Âu, ngoài các vật dụng ra còn có ngựa. Vi khi châu Mỹ mới được phát kiến, ở đó không hề có một con ngựa nào. Thuyền buồm không gặp gió đành phải thả neo. Vì phải đợi gió quá lâu ngày, ngựa không có cỏ tươi nên chết đói, họ đành phải vứt ngựa xuống biển. Vì thế những nơi đó mang cái tên rất kỳ quái là “vĩ độ ngựa”... (Theo Người và thiên nhiên, tập 1 – M. I-lin, NXB Nha khí tượng, 1961)
Những nơi nhiều động đất nhất trên thế giới Động đất chủ yếu tập trung phân bố ở hai dài; dải động đất vòng Thái Bình Dương và dải động đất Hy-ma-lay-a - Địa Trung Hải. Dải động đất Thái Bình Dương gồm hai phần: ở bờ động Thái Bình Dương kéo dài từ A-lát–ca đi xuống bờ phía Tây của lục địa Bắc Mĩ rồi kéo dàii tới tận Peru và Chi–lê thuộc Nam Mỹ; ở bờ Tây dải động đất này kéo dài từ A-lát-ca hướng về phía nam theo quần đảo A-lêu-tian, quần đảo Nhật Bản đến Đài Loan, lại theo hướng nam qua Phi-líp-pin, In-Đô-Nê-xi-a tới Niu-di-lân. Ven bờ Thái Bình Dương là nơi mà vỏ Trái Đất vận động vô cùng sôi nổi, các mảng thạch quyển chuyển động cọ sát theo phương ngang và phương thẳng đứng nên dễ sinh ra động đất rất dữ dội, phần lớn động đất trên thế giới xảy ra ở đây. Nếu căn cứ vào năng lượng khi động đất giải phóng ra để tính toán thì có tới 76% là do dải động đất này sinh ra. Chi–lê là một trong những nước nằm trong vành đai động đất Thái Bình Dương và là một trong những nước xảy ra nhiều động đất của thế giới. Đất nước này như một cái đai hẹp và dài, phân bố địa lý đi cùng hướng với dãy núi An-đét chạy dài theo bờ phía Tây của Nam Mĩ, khe biển A-ta-ca-ma dựa sát vào dãy núi, nơi sâu nhất tới 6000 – 7000m. Độ nghiêng sâu đặc biệt giữa núi cao và khe sâu là bộ phận nguy hiểm và yếu của Trái Đất, vì thế dễ xảy ra động đất. Như trong hai ngày 22 và 23/5/1960 ở đây đã xảy ra 5 lầ n động đất cấp 7 trở lên, trong đó có 3 lần cấp 8 trở lên, mức độ phá hoại ít thấy trên thế giới. Hay như ở Nhật Bản, mỗi năm có khoảng 500 trận động đất đáng kể, nghĩa là trung bình mỗi ngày trên đất nước này có 1,5 trận động đất. Những trận động đất lớn là trận động đất năm 1923 ở vùng Can–tô giết chết 140 nghìn người, phá hủy 8226 ngôi nhà; vụ động đất năm 1995 ở Cô-bê làm hơn 6400 người chết, hơn 250.000 ngôi nhà bị phá hủy… Dải động đất ven bờ Thái Bình Dương cũng là vùng “núi lửa sống” phân bố nhiều nhất, sự phân bố của chúng dường như nhất trí chứ không phải là sự trùng hợp khéo, điều đó chứng tỏ đấy là dải đất mà vỏ Trái Đất đang vận động dữ dội. Dải động đất Hy-ma-lay–a – Địa Trung Hải bắt đầu từ Địa Trung Hải và dải gần đó, đi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Á, miền Bắc Ấn Độ, vùng Tây và Tây Nam Trung Quốc, rồi đi qua Mi-an-ma đến In-đô-nê-xi-a gặp vòng đai động đất Thái Bình Dương. Dải động đất này là dải động đất hiện đại hoạt động sôi nổi, có một số đoạn phân bố núi lửa liên tiếp, hơn nữa một số gò núi còn đang tiếp tục nâng lên. Mấy năm gần đây trong dải động đất này đã xảy ra nhiều trận động đất dữ dội, như năm 1976 ở U-dơ-bê-kix-tan, tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, miền Động Thổ Nhĩ Kỳ; năm 1977 ở Ru-ma-ni; còn Iran từ năm 1977 đã liên tục xảy ra 3 lần động đất... gây nên những tai họa khôn g nhỏ. (Theo Mười vạn câu hỏi vì sao – NXB Khoa học và Kỹ thuật, H, 1999)
Những nơi nhiều động đất nhất trên thế giới Động đất chủ yếu tập trung phân bố ở hai dài; dải động đất vòng Thái Bình Dương và dải động đất Hy-ma-lay-a - Địa Trung Hải. Dải động đất Thái Bình Dương gồm hai phần: ở bờ động Thái Bình Dương kéo dài từ A-lát–ca đi xuống bờ phía Tây của lục địa Bắc Mĩ rồi kéo dàii tới tận Peru và Chi–lê thuộc Nam Mỹ; ở bờ Tây dải động đất này kéo dài từ A-lát-ca hướng về phía nam theo quần đảo A-lêu-tian, quần đảo Nhật Bản đến Đài Loan, lại theo hướng nam qua Phi-líp-pin, In-Đô-Nê-xi-a tới Niu-di-lân. Ven bờ Thái Bình Dương là nơi mà vỏ Trái Đất vận động vô cùng sôi nổi, các mảng thạch quyển chuyển động cọ sát theo phương ngang và phương thẳng đứng nên dễ sinh ra động đất rất dữ dội, phần lớn động đất trên thế giới xảy ra ở đây. Nếu căn cứ vào năng lượng khi động đất giải phóng ra để tính toán thì có tới 76% là do dải động đất này sinh ra. Chi–lê là một trong những nước nằm trong vành đai động đất Thái Bình Dương và là một trong những nước xảy ra nhiều động đất của thế giới. Đất nước này như một cái đai hẹp và dài, phân bố địa lý đi cùng hướng với dãy núi An-đét chạy dài theo bờ phía Tây của Nam Mĩ, khe biển A-ta-ca-ma dựa sát vào dãy núi, nơi sâu nhất tới 6000 – 7000m. Độ nghiêng sâu đặc biệt giữa núi cao và khe sâu là bộ phận nguy hiểm và yếu của Trái Đất, vì thế dễ xảy ra động đất. Như trong hai ngày 22 và 23/5/1960 ở đây đã xảy ra 5 lầ n động đất cấp 7 trở lên, trong đó có 3 lần cấp 8 trở lên, mức độ phá hoại ít thấy trên thế giới. Hay như ở Nhật Bản, mỗi năm có khoảng 500 trận động đất đáng kể, nghĩa là trung bình mỗi ngày trên đất nước này có 1,5 trận động đất. Những trận động đất lớn là trận động đất năm 1923 ở vùng Can–tô giết chết 140 nghìn người, phá hủy 8226 ngôi nhà; vụ động đất năm 1995 ở Cô-bê làm hơn 6400 người chết, hơn 250.000 ngôi nhà bị phá hủy… Dải động đất ven bờ Thái Bình Dương cũng là vùng “núi lửa sống” phân bố nhiều nhất, sự phân bố của chúng dường như nhất trí chứ không phải là sự trùng hợp khéo, điều đó chứng tỏ đấy là dải đất mà vỏ Trái Đất đang vận động dữ dội. Dải động đất Hy-ma-lay–a – Địa Trung Hải bắt đầu từ Địa Trung Hải và dải gần đó, đi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Á, miền Bắc Ấn Độ, vùng Tây và Tây Nam Trung Quốc, rồi đi qua Mi-an-ma đến In-đô-nê-xi-a gặp vòng đai động đất Thái Bình Dương. Dải động đất này là dải động đất hiện đại hoạt động sôi nổi, có một số đoạn phân bố núi lửa liên tiếp, hơn nữa một số gò núi còn đang tiếp tục nâng lên. Mấy năm gần đây trong dải động đất này đã xảy ra nhiều trận động đất dữ dội, như năm 1976 ở U-dơ-bê-kix-tan, tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, miền Động Thổ Nhĩ Kỳ; năm 1977 ở Ru-ma-ni; còn Iran từ năm 1977 đã liên tục xảy ra 3 lần động đất... gây nên những tai họa khôn g nhỏ. (Theo Mười vạn câu hỏi vì sao – NXB Khoa học và Kỹ thuật, H, 1999)
BÀI 9 TÁC ĐỘNG CỦA NGOẠI LỰC ĐẾN ĐỊA HÌNH BỀ MẶT TRÁI ĐẤT (Bài 11 - Ban nâng cao) KIẾN THỨC CƠ BẢN 1 Ngoại lực - Là những lực được sinh ra do nguồn năng lượng ở bên ngoài của lớp vỏ Trái Đất. - Nguyên nhân: Chủ yếu là do nguồn năn g lượng bức xạ Mặt Trời. 2 Tác động của ngoại lực a Quá trình phong hoá - Phong hoá lí học: Đá bị phá huỷ thành các khối vụn, không thay đổi thành phần hoá học. Nguyên nhân do sự thay đổi nhiệt độ, hiện tượng đóng băng... - Phong hoá hoá học: Quá trình phá hủy đá và khoáng vật kèm theo sự biến đổi thành phần hoá học. Nguyên nhân do tác động của nước các chất khí, các chất hoà tan trong nước... - Phong hoá sinh học: Đá bị phá hủy hoặc thay đổi thành phần hoá học. Nguyên nhân do tác động của sinh vật. b Quá trình bóc mòn - Xâm thực: Là quá trình phá hủy và chuyển dời các sản phẩm phong hoá. Do tác động của gió, nước chảy, băng hà... - Thổi mòn: Là tác động bóc mòn do gió xảy ra ở những vùng có khí hậu khô hạn. - Mài mòn: Quá trình bóc mòn các loại đá do nước chảy băng hà. Gió... vận chuyển các vật liệu rắn như cuội, cát... mài vào đá gốc. c Quá trình vận chuyển: Là quá trình di chuyể n vật liệu từ nơi này đến nơi khác. d Quá trình bồi tụ: Là quá trình tích tụ các vật liệu bị phá huỷ.
Những chuyển biến trong không gian nghệ thuật Mặc dù đã trải qua nhiều sự đổi thay từ thiên nhiên và sự tác động của con người nhưng mọi thứ vẫn giữ nguyên kết cấu. Đường Cây Sồi chính là nơi chứng kiến mọi diễn biến và cuộc sống của con người nơi đây. Trong suốt tác phẩm, sự thay đổi của không gian của Đường Cây Sồi thường đi kèm sự thay đổi trong cuộc sống của các thế hệ tiếp nối. Sự biến đổi trong không gian của Đường Cây Sồi cũng có thể phản ánh sự biến đổi địa lý và môi trường xã hội. Nói cách khác, Đường Cây Sồi là minh chứng lịch sử đã in dấu hàng trăm năm mà không ai có thể thay đổi được. Tóm lại, thi pháp học có thể cung cấp một góc nhìn sâu sắc và đa chiều về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết "Đường Cây Sồi," giúp ta hiểu rõ hơn về sự phát triển của nhân vật và ý nghĩa của câu chuyện. KẾT LUẬN Với tinh thần lí tính mạnh mẽ Trương Vỹ đã hòa mình vào hình tượng văn học và không gian nghệ thuật, vì vậy không gian trong tiểu thuyết của ông mang tính ẩn dụ và biểu trưng đáng để chúng ta nghiền ngẫm. Không gian trong toàn bộ tác phẩm này luôn được mở rộng, không chỉ mở ra chân trời mới cho nhân vật tôi và các nhân vật khác chinh phục, khám phá, phát triển bản thân để thực hiện ước mơ của mình mà còn tạo nên vô vàn bi ẩn cho độc giả suy ngẫm và phán đoán. Theo dõi hành trình khám phá của nhân vật tôi, chúng ta đã hiểu rõ hơn không gian thượng lưu Đường Cây Sồi và những cuộc đời ám ảnh khổ đau mà xuyên suốt trong chuyện đều nhắc đến. Nhưng sự trưởng thành và trải nghiệm của nhân vật tôi đã đánh dấu không gian đa chiều trong nghệ thuật Trương Vỹ. Chính không gian nghệ thuật đa chiều và độc đáo đựợc tái hiện một cách đa dạng đã để lại dấu ấn riêng lòng bạn đọc. Tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” xứng đáng trường tồn theo thời gian. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 1
Đường Cây Sồi- biểu tượng nghệ thuật đặc sắc Các nhân vật có cuộc sống được phản ánh trong không gian phải kể đến là những thanh niên con nhà giàu, ăn chơi trác táng và những thanh niên ngoài thành phố bị lôi kéo vào những cuộc ăn chơi xa đọa đầy tính dục. Bên cạnh những nhân vật này, ta không thể bỏ qua nhân vật Trang Chu, một thanh niên tuấn tú, có học thức và không xa ngã vào tệ nạn xã hội, anh mang trong mình nhân cách của một con người tri thức và thượng lưu mà nhiều cô gái phải say đắm. Nhưng rồi tất cả lại có những bị kịch trong cuộc sống mà đám thanh niên kia đã biết lí do còn Trang Chu lại là một bí ấn. Sâu sắc hơn, Trương Vỹ đã tạo nên một không gian nghệ thuật rất riêng đó là không gian trong tòa lâu đài cổ kính. Không gian này được phân định ranh giới rõ ràng đó là những tên canh cổng to cao và khổng lồ. Phía trong lâu đài là một cuộc sống đầy bí ẩn nơi những kẻ có quyền lực sống xa hoa và hưởng lạc. Ở thời kì trước đó người quyền lực nhất trong lâu đài là con quái vật khổng lồ có nhiều “dị tướng” cũng chính tên “quái vật” đó là biểu tượng của sự bí ẩn và kì lạ tạo nên một không gian đầy huyền bí và ám ảnh. Quái vật hưởng thụ bao nhiêu thì những kẻ hầu người hạ trong lâu đài đó càng đau khổ và bất hạnh bấy nhiêu. Không gian trong tòa lâu đài biểu trưng cho những bí mật và những kí ức đen tối mà những số phận nghèo khổ kia phải gánh chịu. Chính không gian ấy là cả một thế giới huyền bí, nếu như “Đường Cây Sồi” chứa yếu tố huyền bí thì con quái vật chính là một phần của thế giới này. Nó đại diện cho thế lực siêu nhiên hoặc một phần của cuộc phưu lưu chứa đầy sự kì bí. Cũng chính nó là sự hấp dẫn để mọi người và nhân vật tôi khám phá. Sau khi tiêu diệt được tên quái vật- đại diện cho sự dã man và tàn ác cùng sự quyền lực thì thay vào dó lại là những thế lực và quyền lực khác của giới thượng lưu, một cuộc sống bí ẩn mới lại bắt đầu. 200 năm nay, luôn có những nhân vật đặc biệt sống ở Đường Cây Sồi, thế hệ này thay thế thế hệ khác, nhóm người này đuổi nhóm người khác. Nhóm nào cũng sống chết không chịu đi, đến nỗi có lúc không thể không động súng động pháo đuổi họ. Có thể nói, muốn sống ở nơi này thật không dễ dàng, phải trả giá bằng máu. Những trường hợp sống chết đấu đá, được ghi lại quá nhiều trong lịch sử, có thể nói là chất cao đến nóc nhà. Khu Đường cây Sồi dành cho những người hưởng “đặc quyền đặc lợi” và có những nét đặc trưng riêng, chính vì vậy Lão Môn Nhi đã xây dựng, mô phỏng nó ở chỗ khác nhưng không thể mô phỏng được, đó chính là thời gian. Không gian mà tác giả xây dựng thêm nhiều chiều kích mới nhưng vẫn phản ánh lối sống của giới thượng lưu, những người con của gia đình danh giá và quyền lực họ ăn chơi, xa đọa trong chính căn lâu đài với những sự việc “kinh khủng” và “quái dị”. Không gian bí ẩn, hấp dẫn trong tòa lâu đài đã lôi kéo và thu hút được nhiều bạn trẻ nơi khác về tụ hội và hưởng lạc, thỏa mã nhu cầu dục vọng của chính họ. Mặc dù sống trong sự xa hoa và tiện nghi, nhưng có thể họ có cảm giác cô đơn và trống trải trong chính tòa lâu đài. Họ có thể thiếu sự kết nối xã hội thực sự và không cảm thấy hạnh phúc hoặc an yên trong cuộc sống của mình, dù họ có tất cả những tiện nghi và dịch vụ trong tòa lâu đài khang trang đó. Và rồi họ đã mất chính mình đánh mất cơ hội làm lại cuộc đời mà nhân vật điển hình là chàng trai xanh xao bị kết án tử hình và cô gái mắt sâu bị cải tạo 20 năm. Tóm lại, không gian Đường Cây Sồi biểu trưng cho giới thượng lưu và cuộc sống xa hoa của họ nhưng trong chính không gian ấy lại có sự đối lập giữa không gian bên trong và không gian bên ngoài. Không gian đó có sự pha trộn giữa sự xa hoa nhưng đầy áp lực và cô đơn bên trong của tòa lâu đài bí ẩn. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 5
Đường Cây Sồi - không gian xây dựng thế giới nghệ thuật đặc thù Không gian tự nhiên của Đường Cây Sồi là nơi nổi bật nhất, không thể ngờ được nhất trong một thành phố, nó đẹp đến mức khiến người ta nghi hoặc, khiến người ta thắt tim. Khu “kì dị” này đã có từ hơn 200 năm trước, hồi đó thuộc về người nước ngoài, gọi là “tô giới”. Sau đó lại chuyển qua tay vài người khác, địa bàn cũng đã mở rộng gấp đôi nhưng phong cách của quần thể kiến trúc lại không thay đổi nhiều. 200 năm đã qua cây sồi to oai phong lẫm liệt, từ lâu đã không còn nhiều như trước nữa mà đã xen vào không ít những cây khác. Bên trong đường cây sồi là những tòa lâu đài cổ kính, uy nghi , cổng lớn một ngày có 24 giờ vệ binh canh giữ. Bên trong tuần cảnh đi lại ngày đêm, bộ dạng và trang phục của họ ngày đêm thay đổi, có lúc là trang phục màu đen, trên mũ rộng vành còn quấn một vòng khăn trắng, có lúc lại là trang phục màu vàng, trên đầu vai có đính quân hàm, cổ từ vai đến ngực còn có bông lúa. Có giai đoạn đã đổi thành nhân vật quái hơn, tuần cảnh là người phương Tây đen thui một màu, họ mặc áo trắng, đầu quấn vải nhiều lóp như cái đấu gỗ liễu. Không gian ở ngoài lâu đài, Chim nhỏ trên cây cực kỳ nhiều, chúng cũng tìm thấy lạc viên ở đây, kêu lích chính lích chích hát ca, rộn ràng không biết thấy u sầu. Nếu như chúng dừng lại, nơi đây liền trở thành một vùng yến tĩnh. Bất luận là đường nhựa thẳng tắp hay uốn cong thì đều phẳng như một tấm gương đen, xe con đi bên trên đều không phát ra tiếng động. Không dám xả khói cũng không dám phát ra tiếng còi to. Dòng người hỗn loạn, tiếng rao bán hàng ở khu phố khác căn bản không thấy ở nơi này. Không gian này cho thấy, cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người trong khu phố sống cuộc đời hưởng thụ họ không bị xô bồ bởi những bon chen của khu phố chật hẹp ngoài kia. Không gian được sắp xếp hài hòa và tinh tế, từ việc lựa chọn khung cảnh thiên nhiên cho đến việc bố trí các kiến trúc của tòa lâu đài khiến cho không gian trở nên đẹp mắt đến lạ thường, đồng thời cũng chấm phá không gian sống đầy màu sắc của giới thượng lưu. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 4
NỘI DUNG Không gian nghệ thuật Thi pháp học xem xét không gian là hình thức tồn tại quan trọng nhất của tác phẩm nghệ thuật. Tuy rằng nó không tồn tại trong không gian đời sống nhưng nó là môi trường sinh tồn và hiện hữu của nhân vật, chứng kiến những biến chuyển trong cảm nhận, góc nhìn về thế giới – rộng mở hay thu vén, hỗn độn hay trật tự, hạnh phúc – khổ đau, bình an hay bất an. Do đó, thuộc nó trải nghiệm trong việc kiến tạo mô hình thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, dựng nên trong mối quan hệ với cốt truyện, thời gian, không gian, nhân vật, điểm nhìn... Nói cách khác, nhờ hiện diện con người, không gian trở nên sinh động, không chấp nhận một đơn nghĩa duy nhất. Trong tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” tác giả Trương Vỹ sẽ đưa độc giả qua nhiều không gian khác nhau tương ứng với những biểu trưng và xúc cảm khác nhau. Không gian trong tiểu thuyết là không gian rộng lớn, trải dài theo chuyến đi, những cuộc tìm kiếm, những suy tư về quá khứ, hiện tại và hiện thực của nhân vật tôi. Không gian - nơi mà nhân vật tôi sinh sống trước khi tìm thấy Đường Cây Sồi là một vùng quê, vùng nông thôn và thành phố đông đúc hay nói cách khác chính là khu cư dân nghèo khổ và thấp cấp và điều kiện không mấy thuận lợi, nơi ấy còn ồn ào, chó sủa, khói bụi và bùn đất, chua xót và chật hẹp…Chính những điều đó đã khiến nhân vật tôi bước chân trên hành trình tìm kiếm thế giới mới, và rồi anh phát hiện ra nơi tuyệt đẹp và không gian khác với nơi anh đã sống và đi qua, đó chính là “Đường Cây Sồi”. Đường Cây Sồi là một lâu đài giống đồng thoại được người các quốc gia khác nhau bỏ ra 200 năm nối tiếp nhau xây dựng, một kì tích, mỗi gốc cỏ mỗi thân cây đều được tưới bằng máu tươi. Tòa lâu đài không hề được ngăn cách bằng khu phố khác bằng tường bao quanh cao to, mặc dù trước kia có. Có người nói 60, 70 năm trước tức là thời kì đen tối, tường bao quanh ở đây cao đến 3,3 trượng, đỉnh tường còn cắm chi chít mảnh thủy tinh và lưới sắt. Như vậy, ranh giới giữa Đường Cây Sồi nay không còn nhưng nó được đánh dấu chính bằng những tòa lâu đài, tiểu lầu nóc nhọn, đại thụ đen thui thui và bãi cỏ xanh mướt cùng sự uy nghi, vĩ đại trong tòa lâu đài đó. Đường Cây Sồi, bộ phận hạt nhân của nó, luôn giống như một hạt minh châu phát sáng lấp lánh giấu kín không lộ của thành phố này, khiến người ta ngưỡng mộ, khiến người ta sản sinh mộng tưởng. Cái nơi khiến cho cuộc trinh thám của nhân vật góp phần tạo sự vận động, phát triển của toàn bộ không gian trong tiểu thuyết, khám phá bản chất và quy luật của thế giới nghệ thuật đa chiều hơn, qua đó tái hiện thế giới trong tính toàn vẹn, bao quát hơn. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 3
KHÔNG GIAN “ĐƯỜNG CÂY SỒI” TRONG TÁC PHẢM CÙNG TÊN CỦA TRƯƠNG VỸ Tóm tắt: Không gian nghệ thuật là một phạm trù thi pháp học quan trọng. Trong tiểu thuyết Đường Cây Sồi của Trương Vỹ, không gian nghệ thuật khá đặc sắc. Bài viết này sẽ phân tích, diễn giải tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” từ loại hình không gian nghệ thuật. Qua đó, thể hiện tính trải nghiệm của con người suốt hành trình tìm kiếm và suy tư về quá khứ, hiện tại và tương tai.Tất cả không gian đã nói lên giá trị của cõi sống đầy bí ẩn và bão giông mà hầu như ai ai cũng phải trải qua trong cuộc đời. Đồng thời gợi cho người đọc về một không gian tưởng chừng hữu hạn nhưng thực chất nó vô hạn trong mỗi tầng lớp xã hội khi nhắc đến Đường Cây Sồi. Từ khóa: Không gian nghệ thuật, hành trình tìm kiếm, Đường Cây Sồi, Trương Vỹ. MỞ ĐẦU Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, một phạm trù nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Trương Vỹ là nhà văn đương đại Trung Quốc nổi tiếng, Đường Cây Sồi thuộc một trong mười cuốn tiểu thuyết của Trương Vỹ được viết năm 2010. Cuốn tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như Anh, Pháp, Nhật, Đức, Thụy Điển… Tác phẩm Đường Cây Sồi đã xây dựng được những không gian nghệ thuật đặc sắc, trong đó có không gian Đường Cây Sồi. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu không gian Đường Cây Sồi để làm rõ một số vấn đề, không gian như một phương tiện để xây dựng thế giới nghệ thuật, không gian như một biểu trưng gửi gắm quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Một miền đất không bao giờ chỉ tồn tại như một không gian địa lý thông thường như chúng ta thấy nó trên bản đồ, mà nó được phản ánh và khắc họa của nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong mỗi tác phẩm là sản phẩm sáng tạo của người nghệ nhằm thể hiện quan điểm về thế giới. Văn học nghệ thuật đã chứng kiến những tiến trình không gian của con người trong suốt chiều dài lịch sử: đến và đi, xa lạ và gần gũi, quê ta và quê người, riêng tư và công cộng, …Hướng tiếp cận không gian như một phạm trù nghệ thuật từ góc độ thi pháp học có thể xem là phương pháp nghiên cứu có nhiều điểm tối ưu, mở ra những kiến giải đa chiều đối với thế giới nghệ thuật đặc biệt với nền Văn học. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có một không gian nghệ thuật riêng của mình mang tính đặc thù của phong cách. Nhà văn Trương Vỹ cũng như bao nhiêu nghệ sĩ khác, cũng vẽ cho mình một không gian nghệ thuật riêng bao trọn trong tiểu thuyết “Đường Cây Sồi” để bóc tách không gian của giới thượng lưu với không gian hoang giã và không gian tâm lí- những ám ảnh số phận. Lấy góc nhìn từ nhân vật tôi- một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp đại học, ông đã mở thêm những con đường mới những không gian bao la, vô tận được soi chiếu qua nhiều vùng đất tương ứng với những cảnh đời khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi lựa chọn “Không gian biểu trưng cho giới thượng lưu- Đường Cây Sồi” để phản tư về cảm thức cũng như sự “kì bí” của những con người nơi đây. Đọc tiếp: Không gian "Đường cây sồi" trong tác phẩm cùng tên phần 2
Kết luận “Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi…” – Trịnh Công Sơn Tiếp cận truyện ngắn “Mãi không tới núi” của Nguyễn Việt Hà từ góc độ không gian nghệ thuật, chúng tôi đã nỗ lực diễn giải những lớp trải nghiệm đa chiều, chồng chéo mà điểm hội tụ sau cùng chính là căn-tính-người. Đô thị và rừng núi trở thành xa lạ với những kẻ đánh mất bản dạng trong nỗi cô đơn và phân rã. Với phong cách giễu nhại và tỉnh táo, Nguyễn Việt Hà đã phơi trải trên trang viết những khoảng trống gợi “độ ngân”, những ăm ắp nhân tình để không chỉ về Hà Nội mà còn là tất cả những nơi chốn thuộc về và ta qua. “Mãi không tới núi” và đa phần truyện ngắn của nhà văn đã xây dựng những mô hình thế giới vượt ra khỏi dung lượng thể loại, tiến sâu hơn vào bức tranh rộng lớn để không ngừng nảy nở, sinh sôi bao ngẫm ngợi thế thái. Do vậy, nó vẫn cứ là một không gian mời gọi những thể nghiệm nhiều chiều, dù là diễn giải theo yếu tố không gian hay đi từ các phạm trù nghệ thuật cốt yếu khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Việt Hà; buổi chiều ngồi hát – tập truyện ngắn tinh tuyển và mới nhất; Nhà xuất bản Trẻ; 2016. 2. Trần Đình Sử; Dẫn luận Thi pháp học; NXB Đại học Sư phạm Hà Nội; 2017. 3. Nguyễn Khải; Hà Nội trong mắt tôi: Tập truyện ngắn; NXB Văn hóa thông tin; 2014. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 1
Trải nghiệm loay hoay kiếm tìm không gian Sự thật là, hành trình ấy vẫn đang tiếp diễn mà việc đi vào núi là căn cớ thúc đẩy. Vọng đã hơn một lần loay hoay đi tìm “cách sẽ đi vào núi như thế nào”: “Vọng loay hoay đi tìm”, “Loay hoay mất công rồi cũng chỉ đẩy vào những cánh cửa đã mở sẵn”. Có thật là mất công không thì hẵng vội kết luận, bởi trên chặng khám phá tưởng chỉ làm được một việc quay trở lại xuất phát ban đầu, nhân vật mới “vỡ” ra những phản tỉnh về một “cánh cửa đã mở” khác đã-không-được-bước-vào-trước-đây: ấy là bản thể Vọng với tất cả những khiếm khuyết, chấn thương toang hoác chưa được đắp rịt mà trở nên mưng mủ. Loay hoay cũng là cách đối diện và nỗ lực chữa lành đổ vỡ. Lời nói bên trong của Vọng “Chắc là Vọng đi đúng đường rồi” lẫn hành trình kiếm tìm nhắc nhớ đến truyện ngắn “Làng gần nhất” của Kafka khi nhân vật rốt cuộc không đến được cái làng ngay trước mặt. Cái phi lý của nhân sinh nằm tại những phi lý bám chấp của chính con người, là lực cản trở truy tìm tự do thực sự: “Xa xôi khuất sau nhà thổ chìm trong chịu đựng thường là có nhà thờ hoặc nhà chùa”. Đến cuối cùng, chiếc xe Mercedes chín chỗ cùng những đại diện văn minh vẫn cứ trở đi trở lại, không thể ruồng bỏ hoàn toàn (“thịt và cá hộp”, “tổng giá tiền kèm chữ ký nháy của bà kế toán trưởng răng vẩu mà Vọng rất ghét”, “môbai dang rung những vệt sáng có tín hiệu đến”); đi cùng với đó là núi rừng cứ không ngừng khác đi (“không thấy con suối lần trước Vọng đã lội qua, chỉ lác đác vài trảng cỏ ua úa nửa xanh nửa vàng vì thiếu mưa”) cứ như thể nó đã ở đó và cho dù thế nào cũng sẽ vĩnh viễn không buông tha cho con người. “Nụ cười nhàn nhạt” hay “mêu mếu cười” của anh là sự phản tỉnh cay đắng và đầy giễu nhại về cuộc đời nhiều uẩn khúc mà có lẽ, anh chỉ có thể chấp nhận nó thay vì ngông cuồng chối bỏ. Thay vì đi vào đi ra, bước lên bước xuống, hướng trái hướng phải – lựa chọn mang tính vật lý giờ đây không còn là mối bận tâm quá lớn, nhân vật hơn ai hết hiểu mình cần chọn không gian cho tồn tại căn tính. Vậy, có không gian nào lý tưởng cho tồn tại hay chăng? Ernest Hemingway trong truyện ngắn “Một nơi sạch sẽ và sáng sủa” (A clean and well lighted place, 1933) đã để cho những nhân vật của mình khát khao một nơi chốn có bóng lá, sáng sủa và trật tự ngăn nắp, dù sau cuối, họ hoặc lạc lõng bước ra bóng tối hoặc trở về chiếc giường ngủ trước ba giờ sáng như những kẻ khác. Nhưng còn loay hoay, còn chấp nhận thực tế mình không dễ yên ổn với tồn tại lại chính là mấu chốt thúc đẩy một cuộc đời đáng sống – cuộc đời không rút kiệt vào mục đích “đổi đời”. Để làm người, quan trọng là không dừng lại trên hành trình vươn mình tìm đến và bù đắp phẩm chất người. Nếu có một điểm tựa nào đó cho Vọng hay con người nói chung trên chặng đấu tranh không ngừng ấy thì không gì khác ngoài niềm tin. Ta loay hoay bằng niềm tin vào giá trị cốt lõi, dẫu cho kết cục của tất cả là Hư vô (Na đa). Chẳng phải vì không cần dựa vào Chúa mà trở nên kiêu hãnh, chớ đánh tráo khái niệm với những điều giả ngụy, ta có thể vin vào Chúa trong sự phóng chiếu với phẩm giá chính mình để cứ dần dần khám phá ra được “con đường đi vào núi”. Tin vào bên trong để biết Im lặng: “Khi đi ngang qua hang đá Đức Mẹ, thằng bé cởi balô quì xuống mấy lần cầm đọc Kinh Kính Mừng”. Im lặng để chí ít không đánh mất những “vương vấn dằn vặt” hiện thân cho tính người, “khinh ghét đám đông” nhiều xô bồ tha hóa. Đặc biệt, con mắt vô tư và nguyên ủy, cách ngăn với hàng hàng lớp lớp những đặt định chính là “báu vật” của nơi chốn, của phẩm tính con người – điều mà tận sâu bên trong là khao khát của Vọng: “Khi đi qua cầu Chương Dương buông mắt nhìn sông Hồng ngầu đỏ, Vọng khe khẽ lẩm nhẩm ca từ bài Phôi pha của Trịnh Công Sơn, bài tủ của Vọng lúc uống say ngồi giữa đám cave ở nhà hàng Hương Cảng phố Thi Sách. Vọng mang máng tự biết rằng suốt một trăm năm nay sau Tam Nguyên Yên Đổ thì Vọng hình như là người duy nhất dám treo ấn từ quan”. Trong tác phẩm “Người mẹ”, Grazia Deledda đã để cho nhân vật tự vấn thế này: “Con người có thể sống mà không cần tin được sao?”. Xét cho cùng, ai cũng có quyền tin và được tin, bởi nếu không thế, con người sẽ dần xa lạ với bản ngã như nguyên, khước từ những giải phóng lưu đày vã mãi trốn chạy hèn nhát giữa các không gian. Cái nhìn “đùng đục nhìn Vọng bằng đôi mắt đẫm rượu” của viên trợ lý cùng lời khẳng định “Tại vì tôi không có đức tin” là chỗ đánh dấu cho những rạn vỡ không dừng lại được của anh ta trên mọi bước đường sống. Vọng có thể không cần “quỳ xưng tội” như cái cách trước nay anh vẫn thường nhưng ta hi vọng vào khát vọng được “cô đơn như núi mà hòa nhập vào thiên nhiên” vẫn cứ đeo đẳng cùng nhân vật. Thằng bé vác đồ dẫu “mất dạy” nhưng nó có “đạo” của riêng mình. “Vọng” – tên gọi của nhân vật trải nghiệm – đã hé mở cho lựa chọn hướng vọng về căn tính cốt lõi. Đây hẳn cũng là câu trả lời cho những hoài nghi và bề bộn đời sống. Lần thứ nhất, Vọng nhớ đến “gã họa sĩ trẻ đứng thút thít ở cổng triển lãm tranh nghệ thuật khỏa thân đầu tay của gã khi nhìn người Hà Nội ồn ào rủ nhau đi xem phim khiêu dâm” và hình ảnh ấy một lần nữa trở lại như là biểu trưng cho những khát khao cần được cất tiếng của mình: “Vọng nhớ lại cái cảnh gã họa sĩ trẻ sụt sịt khóc ở cổng triển lãm”. Trước những biến thiên thời cuộc, điều níu giữ cuối cùng chính là nỗ lực nuôi dưỡng tiếng nói bên trong, “độ trong” của bản thể - dẫu khuất lấp và vô hình - như cách mà Nguyễn Khải nói về bà Hiền (“Một người Hà Nội”): “Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng”. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 8
Trải nghiệm chối bỏ trước ngưỡng của những không gian “Vọng vội vã như trôi xuống cầu thang, đi dọc hành lang đi qua thư viện đi qua nhà nguyện và chắc cũng đã đi qua phòng xưng tội. Vọng đóng cửa phòng mình ngửa cả biđông mà tu rượu. Đám thạch sùng xám bám trên tường giương mắt lồi nhìn vọng. Vọng nhớ ra rồi, anh có gặp thằng bé ở phòng lễ tân của trung tâm mátxa Gốc tre xanh…thâm niên rất sành…Chính nó lúc gần sáng đã gọi cô bé nằm cùng phòng với Vọng ra mắng. Có tiếng chuông từ nhà nguyện. Vọng sụp xuống chân giường lỗ chỗ mối, tuyệt vọng xấu hổ lẫn tức giận. Vọng lẩy bẩy siết chặt con dao ăn giắt ở cạnh balô. Hình như Vọng đã đi ra cửa rồi Vọng lại trở vào”. Phân đoạn gần cuối tác phẩm với dày đặc hành động được trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật mở ra một khả năng mới: kẻ đồng hành bội phản vô tình trở thành người dẫn lối theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Vọng buộc phải chấp nhận một sự thật: Anh chẳng thuộc về thành phố và càng không chung sống được nơi rừng núi xa lạ. Anh đứng tại ngưỡng của các không gian, được chúng tôi cấu trúc lại như sau: “hành lang” “thư viện” “nhà nguyện” (tiếng chuông) “phòng xưng tội” “Vọng nhớ ra rồi” “đóng cửa phòng”(“tuyệt vọng xẩu hổ lẫn tức giận”, “lẩy bẩy siết chặt”) Không gian cứu chuộc vô can trước đổ vỡ Bước ngoặt nhận thức Không gian lạc lõng chứng kiến đổ vỡ Lần đầu tiên, Vọng chủ động tiến tới chối bỏ, và ngay lúc “vội vã” nhất lại cũng là khi điềm tĩnh tỉnh táo lựa chọn nhất. Nhân vật chấp nhận lạc lõng nhưng chưa bao giờ anh ta thấm thía tình cảnh xung đột không gian rõ rệt như hiện tại. Có cảm tưởng Vọng như con quay quăng mình từ phía này đến phía khác mà nếu tiếp tục trì hoãn, chắc chắn sẽ còn thê thảm hơn hình ảnh Chúa Giêsu đóng đinh trên cây thập tự. Bao giờ anh mới thôi mắc kẹt, mới thôi “đi ra cửa rồi lại trở vào”? Không có câu trả lời tuyệt đối. Chỉ biết nhân vật thực hiện theo cách: đi vào núi là lựa chọn chủ động đầu tiên và chối bỏ núi là lựa chọn chủ động cuối cùng. Đi từ tin tưởng chờ đợi đến hoài nghi và cuối cùng là chối bỏ. Chúng tôi tiến hành cụ thể mối tương quan giữa không gian cứu chuộc và không gian lạc lõng ở trên thành một cấu trúc nới rộng đường biên khi kết hợp với các tín hiệu trong tác phẩm: - Dẫn lối bằng im lặng (“im lìm không có tiếng đáp”, “không hỏi gầy gò nhìn”, “vẫn không nói gì ken két khép cửa lại”, “suốt dọc hành lang hun hút vắng vào giờ nguyện không thấy một bóng người.”…) - Hứa hẹn cứu chuộc tội lỗi (“chỉnh tề ngồi giữa mịt mù khói thuốc”, “vài tu sĩ có tuổi trầm ngâm quỳ suy niệm”) - Bệ đỡ giải phóng con người (“cái nhìn hiền từ của vị linh mục tóc bạc”, “muốn giãi bày với ông cha già”) Phản tỉnh - Đổ vỡ niềm tin: Chúa không dẫn lối (“Vọng run rẩy đã kêu lên một trong nhiều tên của Đấng thượng đế”, “Tại sao người ta lại phải quì dưới chân Chúa?”, “Tôn giáo rõ ràng là mơ hồ làm cho Vọng vừa không ưa vừa sờ sợ”, “Phòng xưng tội quả thật rất khó tìm.”) - Nhân vật mang tội (cả trong ý thức và vô thức: “vô thức lùi lại một bước suýt nữa anh quỳ sụp xuống mà xưng rằng, lạy cha con là kẻ có tội.”) - Tiếp tục chịu đày ải (“Rất nhiều lần Vọng sâu sắc thấy mình vừa hi sinh vừa cao thượng khi lưỡng lự không kí vào đơn li dị vợ.”) “cứ gõ là cửa mở” – vấn đề không phải là đóng lại hay mở ra. Cũng như tính chất ngưỡng, ta tự hỏi trung gian của tất cả những mắc kẹt là chính con người – họ là ai và trở-thành thế nào sau tất cả? Truyện ngắn để lại những khoảng trống theo cách đối thoại với người đọc, khiến họ buộc phải đối diện với chuyến hành trình tìm kiếm căn tính nhân vật: khởi đầu với “Anh đã đau khổ, đang sám hối và tự mình đi tìm Đạo trong một sự thanh tẩy”, ngập ngừng quãng giữa qua câu hỏi mang sắc thái tự vấn “Cháu có biết tại sao chú vào đây không?” và cuối cùng bơ vơ lạc loài giữa “hoàng hôn chiều bảng lảng của rừng, tuyệt không thấy núi”. Rốt cuộc, Vọng vẫn loay hoay ở ngã ba đường, vẫn bị động với những chỉ dấu của số phận. Nó đánh dấu kết thúc hay chỉ mới bắt đầu một hành trình khác? Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 7
Trải nghiệm lưu đày kí ức về Hà Nội “It’s a trap” – Bẫy đấy. Đến nơi chốn mới, tưởng đầy hứa hẹn về một viễn cảnh giải phóng bản thể của một cư dân bị vây chặt với ràng buộc đô thị, Vọng tiếp tục bị lưu đày. Mạch vận động phát triển của cốt truyện luân phiên tạo ra những khoảng không gian đặt nhân vật vãn hồi về Hà Nội, thậm chí khác với phần trước, những mô tả về Hà Nội trở nê dày đặc hơn. Nói cách khác, ngay khi nhân vật có trải nghiệm nơi núi rừng thì lập tức ký ức anh ta liên tục phóng chiếu đến những-điều-đã-trải nơi thành phố vừa rời bỏ cách đây không lâu. Tâm trí Vọng đã không thể thả lỏng mà ngược lại, níu chấp để sự thuộc về rừng núi là bất khả. Vậy ra, ngoài nhận thức luận về tính chất vật lý, không gian sống còn đậm đặc tính bản thể và rõ ràng không thể bứt lìa hoàn toàn khi con người vắng mặt khỏi nó, vẫn cứ bao bọc, đay đả và thậm chí cầm tù. Khảo sát cốt truyện, chúng tôi nhận thấy có ba tác động đưa đẩy tình trạng bị lưu đày trong cảm thức về Hà Nội của nhân vật, được cụ thể hóa qua mô hình sau đây: Hãy bắt đầu với sự tồn tại có tính xâm lấn của của các vật thể đặc trưng cho văn minh đô thị: “ca ra ô kê”, “mô bai”, “cạc mi ca”, “một cái lều giả gỗ xây bằng bê tông”, “pate Pháp và trứng cá Nga”, “biđông nửa lít bằng inox”. Chúng là hiện thân cho tính tiện nghi, có ích của xã hội hiện đại khi được tạo ra và quay ngược trở lại định hướng cho nhu cầu con người. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Việt Hà đa phần đi từ gốc từ tiếng Anh phiên âm sang tiếng Việt như là cách thức giễu nhại tính sẵn có của đời sống cung cầu – xã hội mà khi sống trong nó, tính chủ động của cư dân bị giảm thiểu đến mức tối đa, đưa họ vào vòng tròn khép kín thuộc về chuỗi lưu thông khổng lồ của nền kinh tế thị trường. Chính người vợ của Vọng hiện lên như một mắt xích thúc đẩy tiến trình ấy bành trướng trên diện rộng: “Vợ Vọng biết tính chồng, cẩn thận phiên nôm tên món bằng tiếng Việt dán giấy dính trên từng nắp hộp”. Con người do đó biến thành con rối của văn minh. Tiếp đến là không gian núi rừng xa lạ được xem như một yếu tố quyết định đến sự ly gián nhân vật với chính nó. Một loạt những đặc tả hiện thân cho không gian tu viện nơi núi rừng: “cái hố xí bệt”, “con thạch sùng màu xám nhạt luẩn quẩn quanh cả bốn bức tường”, “cái khóa gỉ”, “ngai ngái một mùi mốc không hơi người”, thậm chí đến cả “hệ thống điện” cũng đang “trục trặc”, không có sóng kết nối. Chưa hết, núi rừng xa lạ chứng kiến bao lần Vọng phải loay hoay tìm cách thích nghi: “lúng túng xắn quần lội suối”, “Cái im lặng của rừng và núi làm Vọng ghê ghê”, “Vọng đã ở đây sang ngày thứ tư và chật vật lắm vẫn không thể quen”, “Không có mùi của các món xào, chỉ nặng chịch một mùi rau luộc”,.... Anh cũng đã cố gắng bắt chước, mô phỏng những gì mình chứng kiến thuộc về thực hành tu viện: “Vọng nối vào người đi sau cùng”, “Vọng theo mọi người vào bàn vụng về làm dấu rồi cố trang nghiêm nghe tiếng ngân nga đọc kinh”, “Vọng sẽ phải cắn răng chịu đau”,…Nếu ở trên, những cung cấp từ Hà Nội cho Vọng một sự đảm bảo thì ở đây, nơi chốn buộc anh phải tìm cách loay hoay. Cũng ứng xử với tâm thế bị động nhưng rõ ràng có tính bất trắc cao hơn. Nó không buộc chặt để nhân vật trở thành một phần nơi chốn mà thay vào đó, đẩy những kẻ như Vọng và ngoài Vọng bật ra xa hơn. Không thấy đích đã đành, hành trình đi đến nó làm con người trở nên đơn độc. Một Hà Nội mà anh ta đã sống quen xung đột với một vùng núi lần đầu trải nghiệm đã đưa nhân vật trong vô thức liên tục hoài nhớ như một sự an ủi, thậm chí tiến hành thói quen của thành phố: “…vội ngần ngừ làm hai nắp bi đông của mỗi loại mồi vã với hộp thịt bò nấu sốt cay”, làm nhẹ hóa cảm giác khó chịu với “ba lô căng phồng” mà người vợ đã chuẩn bị từ thành phố cho chồng đi xa. Thứ ba, chúng tôi xét đến người đồng hành xuyên suốt hành trình “đi vào núi” của Vọng là thằng bé vác thuê tự nhận mình là “sinh ra ở vùng này nhưng chưa đi đâu xa”. Tuy nhiên đây chính là vai “đánh tráo” không gian lớn nhất trong truyện ngắn, dắt mũi được cả nhân vật và người đọc dù sau rốt, sự tráo giả đã không thể thành công. Nếu Judas khi xưa trong Kinh Thánh là kẻ phản chúa đáng phỉ báng thì thằng bé xa lạ này cũng là kẻ đi kèm có chủ đích (bội phản), từ đánh lừa đến gọi về những ám ảnh thành phố của Vọng. “Thế thì Vọng nhầm” ư? Không, anh đã chẳng sai khi liên tục nhìn – cảm cậu trong sự ngờ ngợ, soi xét. Chuyến đi của Vọng đã từ “không có kế hoạch” theo đinh ninh ban đầu hóa thành bị đưa đẩy và dẫn dắt. Và thế là, muốn quên mà không được phép, anh lần tìm về tội lỗi và sự tha hóa của chính mình. Nhân dạng “bờn bợt một màu đô thị hết hẳn vẻ sơn dã” và cử chỉ của thằng bé – vô tình hoặc cố ý – gợi liên tưởng đến “cô bé Thanh Hóa mười chín tuổi mới làm lễ tân ở văn phòng Vọng chưa đầy nửa năm rụt rè thông báo là mình có bầu”, ứng với đó là hành động gia nhập vào vòng quay buôn bán, tráo đổi thang bậc xã hội của môi sinh mà anh ta thuộc về: “Vọng đẩy dịch cái phong bì dày những tờ một trăm ngàn đồng ra góc bàn, anh khe khẽ cầm cả hai bàn tay cô bé gờn gợn chai áp nhẹ lên má mình”. Trên thực tế, thằng bé với màn diễn trò lố bịch tạo nên từ những dày đặc thói quen thành thị: “lại gần cái chỗ rơi cái điện thoại”; “hổn hển thở tháo hai cái balô ngót nghét chừng năm chục cân, lấy cả hai tay đấm mạnh cửa”; “sành điệu ngửa cổ hất trọn một trăm phần trăm”;…Đi kèm với đó là những phát ngôn đầy bất nhất: “- Chú đừng làm bẩn thế, bãi cứt trâu đấy”; “giọng nó không còn ề à sơn cước mà lanh lảnh ngữ điệu sành sỏi của bọn người đô thị”. Chúng tôi bằng việc bước đầu phân tích cả ba loại tác động trên, đi đến truy xuất về bản chất của kí ức không gian lưu đày như sau: Vọng và thằng bé vác đồ vừa khác lại vừa giống. Họ xa lạ lẫn nhau trong động cơ bắt đầu chuyến hành trình vào núi và vai trò: một kẻ dựa dẫm, một kẻ phụ trợ dẫn dắt. Tuy vậy, cả hai đều đồng lõa trong cảm thức thành phố xa lạ với núi rừng, đều tố cáo kẻ khác và chính mình từ trải nghiệm không gian. Họ cứ thế vùng vẫy trong những cọ xát của bản thể với thế giới. Nơi chốn mà nhân vật trôi dạt đến trở mình qua những xâm lấn, từ đó núi rừng mất đi “độ trong” cần thiết: “Trên đấy chắc chắn không có người bình thường ở, hoặc phải là tiên hoặc phải là yêu quái”. Cái nhìn về núi rạn vỡ với tính can thiệp của mơn trớn đô thị: “Men rượu chầm chậm ngấm và không hiểu sao Vọng thấy dáng núi có những nét gợi dục. Những đường cong thiếu nữ lồ lộ, đã bao lần Vọng vừa uống rượu vừa ngắm”. Con người dù đi đến bất cứ đâu đều luôn luôn vấp phải hình bóng nơi chốn thuộc về. Đó là cơ hội để họ cắm rễ sâu vào thực tại và đồng thời là rào cản lớn đem đến nguy cơ đánh mất chính mình. Đọc tiếp: Yếu tố không gian trong Mãi không tới núi phần 6