Vỏ Trái Đất

Vỏ Trái Đất

Bởi Học văn cô Hà Huyền 31/05/2024

Vỏ Trái Đất

Bề dày vỏ Trái Đất sẽ thay đổi từ 5 đến 10km ở đại dương và từ 20 đến 70km ở lục địa, chiếm khoảng 15% thể tích và 1% trọng lượng toàn bộ Trái Đất. Lớp này có tỉ trọng vậtt chất trung bình là 2,8g/cm^3. Vỏ Trái Đất không đồng nhất theo chiều ngang và chiều thẳng đứng . Sự không đồng nhất theo chiều thẳng đứng thể hiện qua độ dày khác nhau ở mỗi khu vực mà chủ yếu là độ dày của lớp granit, theo chiều ngang được thể hiện qua sự không có mặt của lớp granit ở nền đại dương. Căn cứ vào thành phần vật chất và cấu tạo, vỏ Trái Đất được chia thành hai kiểu: vỏ đại dương và vỏ lục địa

Vỏ lục địa:

Vỏ lục địa phân bố một phần ở dưới mực nước biển có bề dày trung bình 35 – 40km (ở miền núi cao đến 70 – 80km) và các lục địa. Cấu tạo gồm ba lớp: trên cùng là đá trầm tích cổ có bề dày 3 – 5km, tỷ trọng 1,8 – 2,5g/cm^3, tốc độ truyền sóng chấn động là 3 – 5km/s. Lớp granit ở giữa có bề dày 20 – 70km, tỷ trọng 2,5 – 2,7g/cm^3, tốc độ truyền sóng chấn động là 5,5 – 6km/s. Dưới cùng là lớp badan dày trung bình là 20km, tỷ trọng 2,7 – 3,9g/cm^3, tốc độ truyền sóng chấn động là 6,1 – 7km/s. Mặt phân cách giữa lớp granit và lớp bandan là mặt gián đoạn không liên tục (gọi là mặt Conrad).

Vỏ đại dương:

Vỏ đại dương phân bố ở các nền đại dương, dưới tầng nước biển và đại dương, bề dày trung bình là từ 5 – 10km. Từ trên xuống dưới có hai lớp chính: trên cùng là lớp trầm tích trẻ có bề dày từ 0m (ở vùng sống núi đại dương) đến vài km, trung bình khoảng 300m, tỷ trọng 1,93 – 2,3g/cm^3, tốc độ truyền sóng là 2km/s. Bên dưới là lớp badan có bề dày từ 1,7 – 0,8km, tốc độ truyền sóng là 4 –.6km/s, tỉ trọng 2,59g/cm^3. Ở vỏ đại dương lớp granit hầu như không tồn tại.

(Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cươn g, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)

zalo

Đăng ký sách

Mật khẩu của bạn được mã hóa. Ngoại trừ bạn, không ai có thể biết được mật khẩu của bạn.

Đăng ký khóa học

messenger
08985 888 22